Thứ Tư, 8 tháng 12, 2010

Về mối quan hệ giữa Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường (phần II)

Nguồn : Dân Luận
Mai Thái Lĩnh

(Tiếp theo)

III) Về tính khách quan của cuốn hồi ký của Phan Văn Trường:

Theo bà Thụy Khuê, Phan Văn Trường để lại cuốn hồi ký tựa đề Une histoire de conspirateurs annamites à Paris ou la vérité sur L'indochine (Câu chuyện những người An Nam âm mưu (chống Pháp) tại Paris hay Sự thật về Đông dương) đăng từng kỳ trên báo La Cloche Fêlée (Chuông rè) từ 30/11/1925 đến 15/3/1926. Năm1928, Nxb Gia Định (Sàigòn) in thành sách và L'Insomniaque, Paris, tái bản năm 2003.

Trong hồi ký của mình, Phan Văn Trường đã dùng những lời lẽ khá nặng nề để phê phán người bạn của mình, người mà ông đã cộng tác chặt chẽ trong thời gian khoảng 10 năm. Lời phê phán nặng nề nhất là câu sau đây: "Tạm nói mà không hề có ý miệt thị rằng, người này- vẫn bám vào chính quyền thuộc địa, bị đuổi cửa trước thì luồn vào cửa sau- người mà chính quyền thuộc địa hai lần buộc tội âm mưu chống Pháp! Phan Châu Trinh là một người thông minh, một người tử tế, một người bạn tốt; nhưng những đức tính này không đủ để làm nên một người cách mạng" (Phan Văn Trường, trang 73-74-75).

Có thể nói nội dung của lời phê phán này rất gần gủi với lời chỉ trích mà những người cộng sản sau này đã dành cho Phan Châu Trinh: “Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận ra điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.”[4] Chữ “anh” trong đoạn văn này dùng để chỉ Nguyễn Tất Thành, người sau này trở thành Hồ Chí Minh – lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bà Thụy Khuê nhận xét về lời phê phán của Phan Văn Trường như sau: “So với lời Phan Châu Trinh phê phán Phan Bội Châu, trong bài "Nước Việt Nam mới sau khi liên hiệp với Pháp", thì lời Phan Văn Trường phê phán Phan Châu Trinh, cũng còn là nhẹ.” (Thụy Khuê, Phụ lục: Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản - phần 2a)

Sự so sánh này hoàn toàn khập khiễng. Bởi lẽ Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu sau một giai đoạn ngắn làm quen với nhau đã chia tay mỗi người mỗi ngả, không hề cộng tác với nhau. Hơn thế nữa, Phan Châu Trinh đã bỏ dở nửa chừng, không hoàn tất bản thảo “Liên hiệp Pháp-Việt hậu chi tân Việt Nam”, và người ta chỉ được biết đến nó sau khi ông mất. Suốt đời, ông vẫn giữ gìn tình cảm đối với Phan Bội Châu, và vẫn hy vọng có ngày thuyết phục được nhà yêu nước này. Trong khi đó, Phan Văn Trường lại cho công bố rộng rãi một bản hồi ký trong đó chỉ trích một người đã cộng tác với mình trong một thời gian khá dài, vào một thời điểm hoàn toàn không thích hợp.

Bà Thụy Khuê viết: “Chân dung này, Phan văn Trường viết khoảng 1923, mục đích bênh vực Phan Châu Trinh, bị Pháp kết tội oan, vì không hiểu rõ chủ trương Pháp Việt đề huề của ông. Nhưng đồng thời cũng nói lên sự khác biệt trong chủ trương tranh đấu của Phan Văn Trường với Phan Châu Trinh, đó cũng là sự khác biệt sâu xa giữa những người Nho học và Tây học.” (Thụy Khuê, bđd)

Không rõ nhận định này dựa vào căn cứ nào? Nhưng lý do “bênh vực Phan Châu Trinh bị Pháp kết tội oan” thật đáng nghi ngờ, bởi lẽ Phan Châu Trinh chẳng cần đến sự bênh vực của Phan Văn Trường. Cả hai lần bị bắt, ông đều nhờ có sự giúp đỡ của những người khác để thoát khỏi cảnh ngục tù; đó là chưa kể đến việc ông có thể tự biện hộ. Nếu Phan Văn Trường viết hồi ký vào năm 1923, sao không cho công bố sớm để người bạn mình có thể phản biện? Hơn thế nữa, tại sao lại cố tình đánh đồng chủ trương “Pháp-Việt liên hiệp” của Phan Châu Trinh với chủ trương “Pháp-Việt đề huề” của Đảng Lập hiến trong khi hai chủ trương này tuy có điểm chung nhưng vẫn có nhiều điểm khác biệt?

Vậy thì lý do thật sự của việc công bố bản hồi ký là gì?

Như chúng ta đã biết, giữa năm 1925, nhờ cuộc đấu tranh của những người cánh tả Pháp – nhất là của hạ nghị sĩ Marius Moutet, Phan Châu Trinh đã trở về Việt Nam. Ông về đến Sài Gòn vào ngày 26.6.1925, cùng đi với ông là Nguyễn An Ninh - một người thuộc phái tả. Nhưng kể từ đầu năm 1925, các hoạt động của Phan Châu Trinh đã bắt đầu gắn bó với phái hữu ôn hòa – nhất là Đảng Lập Hiến. Vì thế tất cả các hoạt động của ông kể từ đó đều có sự cộng tác của cả phái tả lẫn phái hữu.

Hạ tuần tháng 11.1925, Toàn quyền Varennes đến thăm Sài Gòn. Mặc dù sức khỏe không được tốt, Phan Châu Trinh đã tham gia đón tiếp ông Toàn quyền và tối ngày 19.11, đã diễn thuyết về đề tài “Luân lý và đạo đức Đông Tây”. Chiều ngày 27.11.1925, đoàn đại diện nhân dân ba kỳ đã trao Thỉnh nguyện thư cho Toàn quyền, trong đoàn bên cạnh Phan Châu Trinh có mặt cả Phan Văn Trường (cánh tả) lẫn Nguyễn Phan Long (cánh hữu). Tối hôm đó, mặc dù bị sốt cao, Phan Châu Trinh đã thực hiện buổi diễn thuyết thứ hai về đề tài “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”. Hai buổi diễn thuyết đã nâng cao uy tín của Phan Châu Trinh nhưng sau các hoạt động này, ông phải vào bệnh viện điều trị trong 15 ngày. Từ ngày 27.12.1925, do sức khỏe sa sút, Phan Châu Trinh phải chuyển lên Hóc Môn ở nhà ông Nguyễn An Cư (chú của Nguyễn An Ninh) để điều trị bằng đông y. Đến đầu tháng 2.1926, bệnh ông ngày càng nặng. Ông mất vào ngày 24.3.1926, lúc 21h30. (Lê Thị Kinh, II, tr. 583-610)

Hồi ký của Phan Văn Trường đã được đăng trên nhiều số của báo La Cloche Fêlée, từ 30.11.1925 đến 15.3.1926. Đây chính là thời gian Phan Châu Trinh đang sa sút về sức khỏe và sắp sửa lìa đời. Việc đăng hồi ký chỉ trích ông đúng vào lúc ông không có khả năng đối đáp không thể được coi là cách tốt nhất để bênh vực một người bạn.

Một chi tiết đáng lưu ý khác là sự kiện bản Tuyên ngôn cộng sản được bắt đầu đăng công khai trên tờ La Cloche Fêlée vào ngày 29.3.1926, 5 ngày sau khi Phan Châu Trinh qua đời, 6 ngày trước khi đưa tang Phan Châu Trinh. Đó là chưa kể đến sự kiện Nguyễn An Ninh bị bắt đúng vào sáng ngày 24.4.1926, ngay tối hôm đó Phan Châu Trinh qua đời. Đây là lần đầu tiên Nguyễn An Ninh bị bắt giam và bị kết án 2 năm tù trong phiên tòa diễn ra vào ngày 23.4.1926 (sau khi kháng án rút xuống còn 18 tháng tù).

Điều này cho thấy bản hồi ký này được đăng tải đúng vào lúc diễn ra cuộc tranh chấp gay gắt giữa phái tả (Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh) và phái hữu (Đảng Lập hiến) để tranh giành ảnh hưởng ở Nam Kỳ. Phan Văn Trường chỉ trích Phan Châu Trinh là vì nhà dân chủ này chủ trương hợp tác với phái hữu trong cuộc đấu tranh để giành quyền tự trị cho nhân dân Việt Nam – một mục tiêu ban đầu cần đạt tới trước khi tiến tới đấu tranh giành độc lập hoàn toàn.

IV) Lý do gây ra sự rạn nứt của nhóm Ngũ Long:

Cuối cùng là vấn đề khiến chúng ta quan tâm nhiều nhất: lý do làm rạn nứt nhóm Ngũ Long. Sự tập hợp nhóm này bắt nguồn từ mối quan hệ giữa Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường – khởi đầu từ cuối năm 1911. Đỉnh cao của sự hợp tác giữa hai nhân vật này chính là bản thỉnh nguyện năm 1919 gửi Hội nghị Versailles.

Thế nhưng, kể từ đầu thập niên 1920, tình bạn và tình đồng chí giữa hai nhà yêu nước họ Phan này bắt đầu rạn nứt. Những bất đồng ngày càng gay gắt, không thể hóa giải và sự phân ly trở nên rõ rệt kể từ cuối tháng 3 năm 1923. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã nhìn thấy sự rạn nứt này của nhóm Ngũ Long, nhưng lại không thể giải thích được một cách thỏa đáng lý do sâu xa làm cho nhóm này phân hóa. Có người tìm cách giải thích sự rạn nứt này bằng cách dựa vào cá tính. Ví dụ: cho rằng Phan Châu Trinh “thẳng thắn đến thô bạo”, do đó gây va chạm với Phan Văn Trường và những người khác trong nhóm. Nhưng lý do này không đủ để giải thích một số mâu thuẫn về tư tưởng bộc lộ qua một số lá thư trao đổi giữa những người trong nhóm.

Trong một lá thư đề ngày 25.1.1925 gửi cho một du học sinh tên là Đông ở Montpellier, Phan Châu Trinh đã viết như sau: “Tôi xem anh là người thông minh, và các anh em ở Montpellier, nhiều anh em ham học lắm, nhưng khốn nạn thay, nòi giống ta bây giờ như giống tằm bị bệnh lâu năm, con hư thì hư rồi, còn con có thể làm kén được, cũng bị độc đó, mà tơ chỉ chẳng ra gì, hại thay! Thật thế, tôi xem anh Nguyễn Ái Quốc, anh Nguyễn Thế Truyền và ông Phan Văn Trường, rất là người thông minh bực nhứt xứ ta, nhưng xem ra ông nào cũng bị một chứng bệnh nặng cả, chẳng biết ngày sau có làm ra công hiệu gì cho nòi giống ta được nhờ chăng? Hay là trước học tàu là ông đồ hủ nho, nay học Tây là anh đồ hủ Âu mà thôi!” (Tuyển tập PCT, tr. 832)

Tại sao Phan Văn Trường nhận xét rằng Phan Châu Trinh không có đủ những đức tính “để làm nên một người cách mạng” trong khi Phan Châu Trinh lại cho rằng những người khác trong nhóm Ngũ Long đã mắc “một chứng bệnh nặng”, có nguy cơ trở thành những “anh đồ hủ Âu” tương tự như những “ông đồ hủ nho” ngày trước?

Thật ra, lý do sâu xa làm nên sự rạn nứt của nhóm Ngũ Long liên quan đến sự khác biệt về tư tưởng và quan niệm chính trị. Người nắm vững lý do này chính là Nguyễn An Ninh – một người có mối quan hệ thân thiết với cả Phan Châu Trinh lẫn Phan Văn Trường. Ông đã trình bày điều này trong một bài viết có nhan đề “Vài lời nhắc nhở - Điếu văn khóc Phan Văn Trường”, đăng trên báo Trung Lập ngày 27.4.1933.

Theo Nguyễn An Ninh, đã có một sự thay đổi sâu sắc trong nhận thức của Phan Văn Trường kể từ khi có sự phân ly trong Đảng Xã hội. Ông viết: “Hai chữ giác ngộ để khuyến khích thiên hạ ngày nay, trước kia nó không lạ tai gì với Phan Văn Trường. Sự chia rẽ trong Đảng Xã hội Pháp, lúc toàn quốc hội nghị ở Tours năm 1920, có ảnh hưởng một cách sâu xa trong đầu óc của Phan Văn Trường.”[5]

Như chúng ta đã biết, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp (lúc đó có tên là SFIO), một bộ phận (chủ yếu là giới trẻ) đã tách khỏi SFIO để gia nhập Quốc tế cộng sản, lúc đầu lấy tên là Phân bộ Pháp của Quốc tế cộng sản (Section française de l'Internationale communiste, SFIC) – tiền thân của Đảng cộng sản Pháp (Parti communiste français, PCF) sau này. Về mặt số lượng, đa số trong đảng đã ngả theo phía cộng sản: 120.000 đảng viên gia nhập vào Đảng cộng sản, trong khi SFIO chỉ còn có 40.000 đảng viên. Mặc dù phần lớn các nghị sĩ tại Quốc hội và các đại biểu dân cử cấp địa phương vẫn còn ở lại với SFIO nhưng đảng này đã chịu một sự thiệt hại lớn lao khi tờ báo đảng l’Humanité cùng với giám đốc tờ báo là Marcel Cachin đã đi theo phái cộng sản. Hiện tượng «người già ở lại với đảng dân chủ - xã hội, người trẻ bỏ đảng để đi theo con đường cộng sản của Lenin» không phải là hiện tượng cá biệt ở Pháp, mà ở hầu khắp các nước châu Âu.

Đại hội Tours năm 1920 với sự ra đời của Đảng cộng sản Pháp đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của Phan Văn Trường. Mặc dù không trở thành một người cộng sản hay một nhà mác-xít thực thụ, Phan Văn Trường ít nhất đã trở thành một nhà mác-xít về mặt nhận thức.

Nguyễn An Ninh so sánh Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh như sau: “Phan Văn Trường nghiên cứu chủ nghĩa “Mã Khắc Tư”, nhờ nó mà hiểu rõ sự tiến hóa của xã hội. Còn Phan Châu Trinh trọn mười mấy năm ở Pháp cứ ôm bộ “Ẩm Băng Lương Khải Siêu” cho đến ngày về nước cũng còn đem theo tàu để lót đầu nằm, thì làm sao hai người không chọi nhau được. Song hai anh em cũng cứ giữ thái độ bạn già mà đối với nhau. Tôi nhắc đến câu chuyện này là cốt ý chỉ rằng Phan Văn Trường là người giác ngộ hơn Phan Châu Trinh. Mà Phan Châu Trinh lại được quý trọng như kia. Còn sự chết của Phan Văn Trường ngày nay, chắc ít người chú ý đến.”(bđd)

Chữ “giác ngộ” mà Nguyễn An Ninh sử dụng có nghĩa là “tiếp thu chủ nghĩa Mã Khắc Tư (chủ nghĩa Marx)”, tức là tiếp thu “quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử”, nhờ đó mà “hiểu rõ sự tiến hóa của xã hội”. Ông đánh giá Phan Châu Trinh là người “kém giác ngộ hơn” vì đầu óc ông này vẫn còn “u mê, lạc hậu”, chìm đắm trong tư tưởng của Lương Khải Siêu. Nhận xét này đúng ở chỗ: Phan Châu Trinh hoàn toàn không chấp nhận chủ nghĩa Marx mà trước sau vẫn là một nhà tự do (libéral, liberal), một nhà dân chủ (démocrate, democrat). Tuy nhiên, Nguyễn An Ninh đã không đúng khi cho rằng Phan Châu Trinh chỉ dừng lại ở tư tưởng của Lương Khải Siêu. Như tôi đã trình bày qua một số bài viết, so với khi mới đọc tân thư, qua tìm hiểu thực tế của nền dân chủ hiện đại, tư tưởng chính trị của Phan Châu Trinh đã phát triển một cách khá hoàn chỉnh và có thể nói, ông nắm rất vững những nguyên tắc căn bản của chế độ dân chủ hiện đại chứ không phải chỉ hiểu biết một cách lơ mơ theo kiểu sách vở, từ chương.

Mặc dù quý trọng cả hai người, nhưng do chịu ảnh hưởng phần nào của chủ nghĩa Marx, Nguyễn An Ninh vẫn thiên về phía Phan Văn Trường: “Phan Châu Trinh lắm khi bị ông ta (tức Phan Văn Trường) phê bình dữ dội, cũng là vì cái tính ngay thẳng của ông ta không hạp với cái tính đầu cơ của Phan Châu Trinh.”(bđd) Tính ngay thẳng, theo cách hiểu của Nguyễn An Ninh có nghĩa là: tả ra tả, hữu ra hữu, không thể có chuyện tả lại cộng tác hay thỏa hiệp với hữu. Tính ngay thẳng cũng có nghĩa là quyết liệt chống Tây, không thỏa hiệp với Tây. Việc hợp tác với phái hữu, hợp tác với người Pháp được coi là có “tính đầu cơ”. Để hiểu những lời lẽ này, chúng ta phải tìm hiểu mối quan hệ giữa những người mác-xít và những người xét lại, hay giữa những người cộng sản và những người dân chủ - xã hội.

Như tôi đã phân tích trong cuốn Huyền thoại về một Nhà nước tự tiêu vong[6], từ cuối thế kỷ 19, cánh tả ở châu Âu đã dần dần tách đôi thành hai phái: cải cách và cách mạng. Sự phân ly này càng rõ rệt hơn sau khi cuộc Cách mạng Tháng Mười nổ ra ở Nga vào năm 1917. Đầu thập niên 1920, sự phân ly này đã dội vào phong trào cánh tả ở Pháp, xé đôi Đảng Xã hội (SFIO) và làm tan rã nhóm Ngũ Long – hạt nhân của phong trào cánh tả Việt Nam.

Bài báo nói trên của Nguyễn An Ninh giúp chúng ta nhìn thấy được lý do thúc đẩy sự phân ly giữa hai nhân vật họ Phan: Phan Văn Trường tiếp thu chủ nghĩa Marx, ngả sang xu hướng cách mạng, trong khi Phan Châu Trinh vẫn giữ lập trường cải cách. Quan niệm chính trị cũng như mục tiêu, phương pháp hoạt động của Phan Châu Trinh khiến ông gần gũi với những người dân chủ - xã hội hơn là những người cộng sản và những người mác-xít trung thành. Đó là lý do cho đến cuối đời, Phan Châu Trinh vẫn gắn bó với những người dân chủ - xã hội Pháp như đảng SFIO (tiền thân của Đảng Xã hội) hơn là những người cộng sản Pháp.

Mặc dù là một người xuất thân từ cánh tả, Phan Châu Trinh là một trong những người hiếm hoi của cánh tả thừa nhận sự tồn tại của cánh hữu như một điều kiện cần thiết của chế độ dân chủ hiện đại. Đó là lý do ông có thể chấp nhận sự cộng tác với những người cánh hữu ôn hòa (ví dụ: Đảng Lập hiến), mặc dù lập trường chính trị của hai bên khác nhau. Có thể coi Phan Châu Trinh là cái gạch nối giữa cánh tả và cánh hữu. Mất cái gạch nối đó, cánh tả và cánh hữu không còn có thể hợp tác với nhau, ngược lại còn đấu tranh với nhau một cách gay gắt.

Có thể nói sau khi Phan Châu Trinh qua đời, sợi dây liên kết giữa hai cánh tả và hữu đã biến mất. Chỉ còn lại sự xung đột gay gắt tả - hữu, tiêu biểu là sự xung đột giữa một bên là Đảng Lập hiến và bên kia là cánh tả bao gồm cả hai phái cộng sản đệ tam và đệ tứ. Nguyễn An Ninh – con người ôn hòa nhất trong cánh tả, vẫn không chấp nhận cộng tác với những người thuộc cánh hữu. Bi kịch của nhà yêu nước này là trong khi cố gắng tạo ra một sự đoàn kết của cánh tả, cuối cùng ông lại mắc kẹt trong cuộc xung đột gay gắt giữa những người cộng sản theo Stalin (như Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn) và những người cộng sản theo Trotsky (như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm). Ông là một trường hợp lạ kỳ, vừa được Đảng cộng sản Việt Nam công nhận là liệt sĩ, vừa được những người trốt-kít như Ngô Vân vinh danh. Ông vừa là người anh hùng trong con mắt của những người trốt-kít, đồng thời lại là người góp phần quan trọng vào thắng lợi của Đảng cộng sản – một đảng chính trị nhân danh tự do tuyệt đối để thiết lập một chế độ độc tài tuyệt đối.

Thật ra, tất cả những xung đột chính trị tả - hữu này chỉ có thể giải quyết một cách hòa bình trong khuôn khổ của một chế độ chính trị dân chủ. Kinh nghiệm của các nước châu Âu (nhất là Bắc Âu) cho ta thấy rõ điều đó. Từ chối những thiết chế chính trị dân chủ, xung đột tả - hữu chỉ có thể trở thành đấu tranh một mất một còn. Tấn bi kịch của nước ta bắt nguồn từ đó. Đám tang của Phan Châu Trinh tại Sài Gòn vào ngày 4.4.1926 đánh dấu sự đoàn kết cuối cùng của những phái chính trị tả và hữu của nước ta. Kể từ sau đám tang đó, sự xung đột tả - hữu ngày càng trở nên gay gắt. Những người cánh tả coi những người cánh hữu – dù là ôn hòa, đều là tay sai của thực dân Pháp và từ chối hoàn toàn sự cộng tác. Cuối cùng thì đấu tranh chính trị trở thành chiến tranh, và cuộc chiến ngày càng trở nên phức tạp khi xung đột tả - hữu giữa những người Việt Nam bị che đậy bởi những chiêu bài giành độc lập, chống đế quốc, v.v…

Trở lại với tinh thần Phan Châu Trinh đồng nghĩa với việc từ bỏ những hình thức đấu tranh một mất một còn, để tiến tới tôn trọng sự khác biệt của nhau. Điều đó đòi hỏi một sự hợp tác giữa tả và hữu – nhất là giữa phái tả ôn hòa và phái hữu ôn hòa. Chỉ bằng cách đó người Việt Nam mới có thể loại bỏ được những xu hướng cực đoan về phía tả cũng như về phía hữu, xây dựng một nền chính trị dân chủ trong đó lá phiếu của người dân là tiêu chuẩn đánh giá khả năng cầm quyền của bất cứ phe phái nào.

Tự do chỉ có thể được bảo đảm được bằng dân chủ. Từ chối dân chủ, chúng ta không thể có tự do, vì làm thế nào có được tự do khi ta không tôn trọng chính kiến của người khác? Không dựa trên những nguyên tắc dân chủ, tự do của mỗi người có thể trở thành sự tước đoạt tự do của người khác.

Đà Lạt, 30.11.2010

Mai Thái Lĩnh

________________________________________________________

Ghi chú:

[4] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự Thật, 1975, bản in lại của Sở Văn hóa – Thông tin Sài gòn – Gia định, tr. 12.
[5] “Vài lời nhắc nhở - Điếu văn khóc Phan Văn Trường”, Trung Lập 27.4.1933 (Nguyễn An Ninh – Tác phẩm, tr. 1037-1038)

[6] Mai Thái Lĩnh, Huyền thoại về một Nhà nước tự tiêu vong, talawas 2005.

Tài liệu tham khảo:

1) Những bài viết của Thụy Khuê đăng trên RFI nằm trong hồ sơ “Nhân Văn Giai Phẩm”:

- Phần XV: Phan Khôi - Chương 1a : Những phong trào chống Pháp đầu thế kỷ XX, RFI 5.9.2010-7.9.2010: http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100905-phan-xv-phan-khoi-chuong-1a-nhung-phong-trao-chong-phap-dau-the-ky-xx

- Phần XV: Phan Khôi - Chương 1b : Ai viết bài ký tên Nguyễn Ái Quấc tại Pháp từ 1919 đến 1923? RFI 5.9.2010-13.11. 2010: http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100905-phan-xv-phan-khoi-chuong-1b-ai-viet-nhung-bai-ky-ten-nguyen-ai-quac-tai-phap-tu-19

- Phụ Lục : Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản:

Phần 1: RFI 13.11.2010: http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20101113-phu-luc-nguyen-ai-quoc-lai-lich-va-van-ban-phan-1;

Phần 2a: RFI 19.11.2010: http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20101119-phu-luc-nguyen-ai-quoc-lai-lich-va-van-ban-phan-2a;

Phần 2b: RFI 19.11.2010: http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20101119-phu-luc-nguyen-ai-quoc-lai-lich-va-van-ban-phan-2b

2) TS Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Nxb Văn Nghệ TP. HCM, 2000.

3) Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, tập 1, Nxb Đà Nẵng, 2001. Tập này được xếp thành 4 quyển.

4) Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, tập 2, Nxb Đà Nẵng, 2003.

5) Nguyễn Văn Dương, Tuyển tập Phan Châu Trinh, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2006.

6) Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nguyễn An Ninh – Tác phẩm, Nxb Văn học, 2009.


Share/Save/Bookmark

Về mối quan hệ giữa Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường (phần I)

Nguồn : Dân Luận
Mai Thái Lĩnh

Gần đây, sau một loạt bài viết rất có giá trị về chủ đề “Nhân văn Giai phẩm” phổ biến trên trang mạng của đài RFI (Pháp), nhà phê bình văn học Thụy Khuê đã mở rộng đề tài, trong đó có phần đề cập đến những hoạt động của nhóm Ngũ Long tại Pháp vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Nhóm Ngũ Long (năm con rồng) bao gồm 5 người: Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành (sau này trở thành Hồ Chí Minh). Riêng danh xưng Nguyễn Ái Quốc – một cái tên lúc đầu được dùng chung cho cả nhóm nhằm để đánh lạc hướng thực dân Pháp, về sau lại trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành. Điều này đã gây ra sự lẫn lộn cho việc nghiên cứu các hoạt động của nhóm Ngũ Long (nhất là các tác phẩm ký tên Nguyễn Ái Quốc), khiến nhiều điều tồn nghi mãi đến nay vẫn chưa thể xác minh rõ ràng.

Trong phạm vi của bài viết này, tôi chỉ tập trung vào một số chi tiết có liên quan đến cuộc đời hoạt động của Phan Châu Trinh - nhất là mối quan hệ giữa nhà dân chủ yêu nước này với nhà yêu nước Phan Văn Trường nhằm giúp cho độc giả có được cái nhìn khách quan, đúng đắn hơn về một trào lưu đã có ảnh hưởng nhất định đến lịch sử của nước ta trong thế kỷ 20, nhưng những di sản để lại vẫn còn có ảnh hưởng kéo dài qua thế kỷ 21.

I) Về việc thành lập Hội Đồng Bào Thân Ái (La Fraternité des Compatriotes):

Tiến sĩ Thu Trang viết về việc thành lập Hội này như sau:

“Trong khi thực dân yên chí về Phan Châu Trinh trong quan hệ với vị luật sư mang quốc tịch Pháp, có tác phong và ngôn ngữ rất Tây, thì hai vị cùng họ Phan này đã bàn bạc và thực hiện nhiều việc quan trọng: - Họ chuẩn bị thành lập tổ chức Người Việt yêu nước đầu tiên tại Pháp. Hội lấy một tên rất dung dị dễ hiểu nói lên tình nghĩa giữa những người xa xứ: “Hội Đồng Bào Thân Ái” do chính Phan Văn Trường làm chủ tịch. Hội đã ra mắt ngày 18.1.1912 tại trường Parangon nơi có đông sinh viên Việt Nam học. Phát biểu tại buổi Hội ra mắt có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Jules Roux. (…) Hội không khai báo với sở cảnh sát. Các buổi họp thường tiến hành ở các tiệm cà phê hay ở tiệm ăn Tàu. Phan Châu Trinh không chính thức tham gia Hội nhưng cuộc họp nào ông cũng có mặt, có phát biểu và được lắng nghe một cách “thành kính”. Các cuộc họp đều có biên bản được đánh máy ra và phân phát.” (Thu Trang, tr. 48)

Trong bài viết của Thụy Khuê, bà đã trích lại từ hồi ký của ông Phan Văn Trường các đoạn văn như sau:

"Một ngày trong năm 1912, sau khi đưa đám một thiếu niên An Nam, học sinh trường Parangon [trường Nguyễn Thế Truyền học], một số đồng bào đưa ra ý kiến lập hội Ái hữu Sinh viên An Nam tại Pháp (Association amicale des étudiants annamites en France). Họ đề nghị tôi nghiên cứu dự trình để thực hiện càng sớm càng tốt. Tôi trả lời ngay: "Làm thì dễ, Pháp có luật 1/7/1901, tự do lập hội. Nhưng luật không chưa đủ, còn phải tính đến chính sách thuộc địa nữa. Các bạn nên biết, nếu ta lập hội mà không có phép, chính quyền thuộc địa sẽ tìm cách dẹp ngay." (Phan Văn Trường, trang 87). Tuy nói vậy, nhưng ông cũng làm: "Tôi bắt tay vào việc. Viết bản nội quy và thảo một chương trình [hành động] dài. Hội được thành lập trong sự hoan hỉ của đồng bào đã giao phó trách nhiệm cho tôi. Tôi yêu mến đặt tên nó là Thân Ái (La Fraternité). Hội có mục đích:

1- Giúp sinh viên Đông Dương xa gia đình có cơ hội gặp gỡ, kết bạn, đến chơi và giúp đỡ nhau trong trường hợp rủi ro, bệnh hoạn.

2- Học chung với nhau để trao đổi kiến thức khoa học và văn chương.
Hội Thân Ái mỗi tháng tổ chức nhiều cuộc hội họp, và diễn thuyết."
(Hồi ký Phan Văn Trường, chương 13, trang 87-88).

Dựa vào những đoạn hồi ký trên đây, bà Thụy Khuê đã đưa ra kết luận: “Qua sinh hoạt của hội, Phan Văn Trường gặp Phan Châu Trinh năm 1912. Sau này, người ta thường viết Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường lập hội là không đúng. Người lập hội là Phan Văn Trường.” (Thụy Khuê, XV, Phan Khôi, ch. 1b)

Nhiều tài liệu được tìm thấy trong văn khố của Pháp có thể giúp chúng ta làm rõ sự kiện này:

- Trong một tài liệu lưu trữ tại Pháp (CAOM-SLOTFOM XV/3), có bản báo cáo của một người Việt làm chỉ điểm cho thực dân Pháp, với nội dung tường trình lại cuộc họp thành lập Hội Đồng bào Thân ái vào ngày 18.1.1912 ở trường Parangon. Chúng ta đọc được đoạn văn đây: “Sau đám tang của Dang, ông Trinh và những người cùng đi đã mời tất cả người Đông Dương đến họp nghe nói chuyện tại Parangon. Đó là một cuộc mời họp đột xuất. Ông Trinh cùng một người tôi không biết rõ tên đã nói trước tiên.” Cuối bản báo cáo, kẻ chỉ điểm này viết: “Ông Trường và ông Trinh không căn dặn chúng tôi đừng nói lộ việc trên ra. Nhưng tôi mong Ngài đừng nói việc đó với ai vì sẽ gây cho bản thân tôi một sự trở ngại nghiêm trọng mà Ngài chưa thể nhận thấy được.” (Lê Thị Kinh, I, 3, tr. 134-136)

Như vậy là Phan Châu Trinh có mặt ngay tại cuộc họp thành lập Hội và còn là người phát biểu trước tiên để giới thiệu Hội với đồng bào của mình. Phải chăng đây là một trong những căn cứ khiến cho nhiều người tin rằng Phan Châu Trinh là người đồng sáng lập Hội chứ không phải chỉ là người tham gia về sau?

- Bà Thụy Khuê đã viết: “Qua sinh hoạt của hội, Phan Văn Trường gặp Phan Châu Trinh năm 1912.” Thật ra, không phải đợi đến năm 1912, sau khi thành lập Hội Đồng Bào Thân Ái, hai người mới gặp nhau, mà hai người đã gặp nhau từ những tháng cuối năm 1911. Báo cáo của J. Fourès gửi Toàn quyền Đông Dương đề ngày 30.12.1911 viết: “Tôi xin báo Ngài là người Annam Phan Châu Trinh được mạnh khỏe, có một cuộc sống bình thản và biệt lập trong nhà trọ ông ta đã ở từ 4 tháng nay tại đường Assas số 78. Ông ta rất ít ra ngoài và chỉ tiếp rất ít đồng bào ông ta đang sống ở Paris. Người Annam Phan Văn Trường, cử nhân luật, phụ giảng tiếng Annam ở trường Ngôn ngữ Phương Đông hay đến thăm ông ta nhiều hơn các người khác và Phan Châu Trinh thỉnh thoảng có đến thăm ông ta. Thỉnh thoảng cả hai đến tiệm ăn Tàu để có dịp ăn một bữa cơm để nhớ quê hương. Không có gì đặc biệt được báo cho tôi.” (CAOM-SPCE 372, Lê Thị Kinh, I, q.3, tr.72)

- Điều khiến ta ngạc nhiên là qua các đoạn văn mà bà Thụy Khuê vừa trích, dường như Phan Văn Trường không chủ động lập hội, mà chỉ lập hội do yêu cầu của người khác. Nhưng ai là người gợi ý lập hội? Ông Trường không nói rõ, chỉ nói một cách mơ hồ: lập hội là do “một số đồng bào đưa ra ý kiến”. Hơn nữa, theo ông, ý kiến được đưa ra “sau khi đưa đám một thiếu niên An Nam, học sinh trường Parangon”, có nghĩa là sau ngày đưa tang đó ông mới chuẩn bị việc thành lập hội. Trong thực tế, việc thành lập hội đã được công bố đúng vào ngày đưa tang (nghĩa là vào ngày 18.1.1912), điều đó có nghĩa việc bàn bạc, chuẩn bị phải diễn ra từ trước.

Hơn thế nữa, việc lập hội lại liên quan đến trường Parangon. Tiến sĩ Thu Trang giới thiệu trường này như sau: “Người Việt Nam sống ở Pháp lúc Phan Châu Trinh mới qua không quá 100 người, ngoài số bồi bếp được chủ đưa về và một số quan chức nhỏ, còn có khoảng 40 sinh viên phần lớn là con cháu các gia đình có thế lực được học bổng sang học ở trường Parangon do Nhóm giáo dục Đông Dương quản lý với mục đích không dấu diếm là để “Pháp hóa tối đa” tạo ra những người tuyệt đối trung thành với “mẫu quốc”. Nhưng các sinh viên này đã cùng các trí thức Việt Nam khác rủ nhau đến với Phan Châu Trinh.” (Thu Trang, tr. 45-46).

Qua tài liệu lưu trữ tìm thấy, chúng ta được biết theo đề nghị của Toàn quyền Pháp Albert Sarraut, lúc đầu J. Fourès (Giám đốc Nhóm giáo dục Đông Dương) đã có ý định đưa Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật vào trường Parangon, nhưng đề nghị này đã vấp phải sự chống đối của Salles – Phó Tổng thư ký của Alliance française [1] đồng thời cũng là tổng thư ký Ủy ban Paul Bert. Lá thư của Fourès gửi Toàn quyền đề ngày 18.10.1911 có đoạn: “Ngài đã bảo tôi đưa Phan Châu Trinh và con trai ông ta vào trường Parangon, nhưng mặc dầu tôi đã hết sức vận động nhưng ông Hiệu trưởng Rousseau vẫn khăng khăng không chịu nhận vì ông Salles - Tổng thư ký Ủy ban Paul Bert, đã phản đối; ông này cho rằng y sẽ biến học trò An nam đang học ở đây thành đồ đệ các tư tưởng cải cách của y. Sự phản đối của ông Salles khá bất ngờ vì ta nhớ chính ông Salles đã là người đầu tiên muốn bảo vệ Phan Châu Trinh khi ông này mới tới. Và chỉ cách đây 3 tháng chính ông ta đã đưa Phan Châu Trinh đến Parangon như là khách danh dự của trường này và trong suốt một buổi chiều đã đưa ông ấy đi xem khắp lượt cho thấy tất cả tiện nghi của trường.” (CAOM - SPCE 372, Lê Thị Kinh, I, 3, tr. 68-69) Như vậy là Phan Châu Trinh đã từng có dịp tham quan ngôi trường này vào lúc ông đặt chân đến Paris - khoảng tháng 7 năm 1911.

- Sự chống đối của Salles bắt nguồn từ sự lo ngại của ông ta về việc Phan Châu Trinh có thể gây ảnh hưởng đến những du học sinh này. Salles đã viết trong lá thư đề ngày 3.10.1911 gửi cho một quan chức của Bộ Thuộc địa: “Tôi suy nghĩ về thông tin của Ngài báo tôi sáng nay là Phan Châu Trinh sẽ được đến ở Parangon và tôi rất lo ngại về điều đó. (…) Tôi không tin là những kẻ lãnh đạo, những tên cầm đầu ấy đã từ bỏ kế hoạch của họ. Trong những điều kiện ấy tôi cho rằng sẽ rất phi chính trị, rất nguy hiểm nếu để Phan Châu Trinh tiếp xúc hàng ngày trực tiếp với nhóm học sinh An nam khá đông mà chúng ta đã bố trí ở Parangon.” (CAOM-SPCE, Lê Thị Kinh, I, 3, tr. 66-67). Do sự phản đối của Salles mà Phan Châu Trinh và con trai đã không thể đến ở tại Parangon. Cuối cùng thì hai cha con phải chuyển đến trọ tại số 78 đường Assas. Phan Châu Dật tiếp tục việc học tại trường làng trong quận Montparnasse.

Bà Thu Trang có trích một văn bản của Salles trong đó có đoạn: “Không nên để Phan Châu Trinh gặp các sinh viên An Nam khá đông (40 người) ở Parangon. Chúng ta đang cố gắng Pháp hóa tư tưởng chúng, Phan Châu Trinh sẽ cản trở, thậm chí còn lôi kéo họ bằng những cuộc nói chuyện. Bà quản lý ký túc xá nơi Phan Châu Trinh ở rất ngạc nhiên khi thấy đám sinh viên quý trọng ông như thế nào… Ông ta nói một giờ rưỡi, hai giờ và họ há hốc mồm nghe một cách say mê. Ông ta hoạt bát và năng động, mới đến mà đã quen biết và quan hệ với nhiều người châu Á tại tiệm ăn Tàu đường Cardinal Lemoine. Đã có lệnh tránh các cuộc tiếp xúc báo chí nhưng ông ta phớt lờ vì vậy đã có bài phỏng vấn ngày 17.7.1911 trên báo Le Temps.” (Thu Trang, tr. 46)

Nhưng mặc dù đã tìm cách tách Phan Châu Trinh ra khỏi số học sinh của trường Parangon, Bộ Thuộc địa Pháp và những người chủ trương chính sách thực dân vẫn không thể ngăn cản việc họ đến với Hội Đồng bào Thân ái. Sáu tháng sau khi Hội Đồng Bào Thân Ái được thành lập, trong lá thư gửi Capus (Phái viên của Toàn quyền Đông Dương tại Bộ Thuộc địa) đề ngày 30.6.1912, Salles viết:

“Hôm qua sau khi Ngài rời đi, tôi đã có suy nghĩ thêm: Ông Fourès hay có thói quen tập trung các học trò của ông ta về trường Parangon vào cuối tháng 7 rồi từ đó đưa chúng đi với nhau về những nơi chúng sẽ nghỉ hè tập thể. Như vậy nếu Ngài cũng thực hiện cùng cách đó thì sẽ tạo cho Trinh một cơ hội để tác động vào các trẻ hiện nay ở xa Paris bằng cách hoặc là gọi chúng đến hội Đồng Bào, hoặc y đến nghỉ hè cùng với chúng nó dù được Ngài cho phép hay không. Ngài có thấy tốt hơn nên phân tán các trẻ ra và cho chúng ở các gia đình ở gần hoặc xa các trường chúng đang học để tránh lây nhiễm? Gì thì gì, tốt hơn là đưa Trinh đi xa sau ngày 14.7 và trước khi các trẻ được tập trung về Parangon. Tuy nhiên tôi lo y không chịu vậy đâu. Ngài nghĩ thế nào?” (CAOM-SPCE 373, Lê Thị Kinh, I, 3, tr.89).

Như vậy là nửa năm sau khi Hội Đồng Bào Thân Ái được thành lập, những người Pháp thực dân vẫn tìm mọi cách ngăn cản Phan Châu Trinh lôi kéo các học sinh của trường vào sinh hoạt của Hội. Và điều đáng ngạc nhiên là người mà họ lo sợ lại là Phan Châu Trinh chứ không phải là ông Chủ tịch Hội Phan Văn Trường.

Những chi tiết nêu trên khiến cho ta phải đặt giả thuyết rằng chính Phan Châu Trinh mới là người chủ động lập Hội, còn Phan Văn Trường chỉ là người chăm lo các thủ tục pháp lý và đứng tên làm Chủ tịch. Điều này lại càng hợp lý khi ta so sánh quá trình hoạt động của hai người: Phan Văn Trường vào lúc này chỉ là một trí thức dấn thân chưa có kinh nghiệm gì trong khi Phan Châu Trinh đã là một nhà hoạt động chính trị có nhiều kinh nghiệm trong việc tập hợp và giáo dục quần chúng. Trong bản thảo “Pháp-Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam”, ông có kể ra những hội mà ông đã thành lập trong Phong trào Duy Tân. Những hội đã lập: hội buôn, trường tiểu học phổ thông ở hương thôn, hội tân học, hội diễn thuyết, hội trồng cây, hội cắt tóc, mặc áo ngắn; những hội lập mà chưa thành: hội cải lương tơ tằm, hội cải lương vải Nam. (Tuyển tập PCT, tr. 592) Việc thành lập hội trở thành chủ trương suốt cả cuộc đời của PCT. Trong những năm ở Pháp, ông lập hết hội này đến hội khác. Vào năm 1922, ông đã dự định thành lập Hội xã hội chủ nghĩa Đông Dương tại Pháp (Association Socialiste Indochinoise en France) tại Marseille. Hội cuối cùng mà ông thành lập là Hội Liên hiệp Pháp – Đông Dương tại Paris vào đầu năm 1925, do đích thân ông làm Chủ tịch.

- Ngày 13.11.1912, Salles đã gửi thư cho một quan chức ở Bộ Thuộc địa trong đó có đoạn: “Như tôi đã hứa với bạn mấy hôm trước đây, nay tôi xin cung cấp cho bạn các thông tin tôi đã thu lượm gần đây về Hội Đồng Bào do Phan Châu Trinh thành lập với Phan Văn Trường làm chủ tịch. Anh này làm phụ giảng ở trường Ngôn ngữ Phương Đông. (…) Người ta cũng thông báo với tôi là Hội Đồng Bào có 3000 frs trong quỹ, riêng Phan Châu Trinh đã đóng 500 f tiền túi của y. (…) Hội Đồng Bào năm 1912 có vẻ muốn nối tiếp truyền thống của Hội Đồng Bào năm 1908 ở Trung Kỳ. Ngày trước họ muốn học đòi các cuộc biểu tình hòa bình của dân trồng nho phía nam nước Pháp. Ngày nay họ chỉ đòi quyền tự do lấy trong chương trình giáo dục của chúng ta những gì thích hợp cho họ, và thêm vào đó họ xin được nhập quốc tịch Pháp. Chủ trương mới này mang tính lâu dài hơn nhưng còn khôn khéo hơn nhiều, có thể tóm tắt như sau: “nấp dưới luật pháp của Pháp để chống chính sách của Pháp ở Đông Dương.” (CAOM-SPCE 371, Lê Thị Kinh, I, 3, tr. 153-157)

Trong đoạn văn trên đây, Salles nhận định rằng: “Hội Đồng Bào do Phan Châu Trinh thành lập với Phan Văn Trường làm chủ tịch”. Ý kiến này rõ ràng là một nhận định dựa vào thực tế, căn cứ vào cả một quá trình theo dõi suốt gần một năm trời, không phải chỉ là một nhận xét vu vơ.

II) Ai là tác giả của bản Thỉnh nguyện thư của Nhân dân An Nam gửi Hội nghị Versailles năm 1919?

Trong lời tựa viết cho cuốn sách Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925 của Tiến sĩ Thu Trang, học giả Hoàng Xuân Hãn nhận xét về bản văn này như sau: “Hình như ta còn thấy dấu vết sự phân công: Phan Châu Trinh soạn Hán văn, Phan Văn Trường dịch ra Pháp văn, Nguyễn Tất Thành dịch ra Việt văn bằng bài ca lục bát đề là Việt nam yêu cầu ca. (Thu Trang, trang 8). Trong bài viết của mình, bà Thụy Khuê đã bác bỏ ý kiến này. Bà viết: “Nhưng qua văn bản, chúng tôi có thể xác định: Phan Văn Trường viết thẳng phần tiếng Pháp, vì đây là chủ đề một buổi diễn thuyết của ông năm 1913 (Les revendications indigènes - Những thỉnh nguyện của người bản xứ), như đã nói ở trên. Lời văn trong bài phù hợp với lối viết của Phan Văn Trường: Kín đáo, kiêu kỳ, mỉa mai, thâm thuý. Phan Châu Trinh dịch sang Hán Văn. Nguyễn Tất Thành làm bài thơ (đúng hơn là vè).” (Thụy Khuê, XV, Phan Khôi, 1b)

Như vậy là theo Thụy Khuê, không phải Phan Văn Trường dịch sang Pháp văn mà ngược lại, chính Phan Châu Trinh mới là người dịch sang Hán văn. Bà đã dựa trên chứng cứ sau đây: “Ngày 13/3/1914[2], Phan Văn Trường diễn thuyết về đề tài Les revendications indigènes (Những thỉnh nguyện của người bản xứ) tại trường Cao Đẳng Xã Hội (Ecole des Hautes Études Sociales), bài nói chuyện này là nguồn cội của bản Thỉnh nguyện của Dân tộc An Nam (Revendications du Peuple Annamite) gửi Hội nghị hoà bình thế giới ở Versailles, năm 1919.”[3]

Khi cho rằng “Phan Văn Trường viết thẳng phần tiếng Pháp vì đây là chủ đề của một buổi diễn thuyết của ông năm 1913” (hay 1914?), còn Phan Châu Trinh chỉ là người “dịch sang Hán văn”, có lẽ bà Thụy Khuê cho rằng toàn bộ tư tưởng chứa đựng trong bản văn nói trên là của Phan Văn Trường, còn Phan Châu Trinh chỉ là người dịch - nghĩa là không có tư tưởng gì của riêng mình?

Nhiều tư liệu thu thập được cho chúng ta thấy: ngay khi đặt chân đến Pháp, trước khi gặp Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh đã gửi cho Bộ trưởng thuộc địa và Toàn quyền A. Sarraut 5 bản kiến nghị, tất cả đều do Roux dịch sang tiếng Pháp (Lê Thị Kinh, I, q.3, tr.34-40).

Năm kiến nghị vắn tắt đó có nội dung như sau:

1)Yêu cầu xét lại các bản án xử các nho sĩ Trung Kỳ (31.5.1911)

2) Về báo chí và diễn thuyết (tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do hội họp) (2.6.1911)

3) Về các điều luật và về việc thành lập tòa án bổ sung (4.6.1911)

4) Bãi bỏ các biện pháp cấm sách Trung Hoa (lập hội dịch các sách Pháp và Trung Hoa sang chữ quốc ngữ và mở các phòng đọc sách) (5.6.1911)

5) Về việc đóng cửa các trường học (sự trừng phạt đối với những người lập trường học và việc họ bỏ trốn ra nước ngoài) (5.6.1911)

Cả 5 lá thư này đều được soạn từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 năm 1911 và được gửi cho Albert Sarraut trước ngày 20.7.1911 (ngày Roux viết thư báo tin cho Phan Châu Trinh).

Hãy so sánh nội dung của 5 kiến nghị nói trên với 8 yêu cầu ghi trong Bản thỉnh nguyện của Nhân dân An Nam (Revendications du Peuple Annamite), gửi Hội nghị Versailles năm 1919:

1- Ân xá toàn diện tất cả những chính trị phạm người bản xứ.

2- Cải tổ ngành tư pháp Đông dương bằng cách bảo đảm cho người bản xứ những điều kiện về luật pháp như người Âu châu. Bãi bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt - những công cụ khủng bố và đàn áp chống lại bộ phận lương thiện nhất của dân tộc An Nam.

3- Tự do báo chí và tự do tư tưởng.

4- Tự do lập hội và hội họp.

5-Tự do di dân và du lịch ở nước ngoài.

6-Tự do giáo dục và thiết lập những trường kỹ thuật và chuyên nghiệp dành cho người bản xứ.

7- Thay thế chế độ pháp luật.

8- Phái đoàn đại diện thường trực của người bản xứ được bầu hoạt động bên cạnh Nghị viện Pháp để thông báo những nguyện vọng của người dân bản xứ.

Chúng ta có thể thấy 7 điểm đầu tiên trong bản thỉnh nguyện thư chính là sự phát triển của các ý kiến nằm trong 5 bản kiến nghị, tức là các ý tưởng mà Phan Châu Trinh đã tích lũy trong đầu trước khi gặp Phan Văn Trường.

Ba yêu cầu (1), (2) và (7) liên quan đến việc ân xá cho các tù chính trị, cải tổ hệ thống pháp lý ở Đông Dương, chính là các vấn đề mà Phan Châu Trinh đặc biệt quan tâm. Vào tháng 7 năm 1911, khi trả lời phỏng vấn báo Le Temps, Phan Châu Trinh tập trung vào 3 vấn đề:

(1) tổ chức tòa án,

(2) tuyển chọn quan lại và

(3) thu thuế.

Về vấn đề (1), ông nói: “Chúng tôi mong muốn có sự phân quyền để một viên quan không đồng thời cai trị và xử án. Sự phân quyền này đã có ở Nam Kỳ và mặc dầu chưa phải việc xét xử luôn được công minh nhưng tổ chức tòa án nhìn chung khả dĩ được dân chúng chấp nhận. Tiếc thay, ở Bắc kỳ và Trung kỳ thì không được như vậy. Các viên chức Chính phủ tự quyền xét xử hay ra lệnh cho các tòa án xét xử mọi vụ án.” (Lê Thị Kinh, I, q. 3, tr. 42-43)

Việc gặp gỡ Phan Văn Trường trên đất Pháp đã giúp ích cho Phan Châu Trinh rất nhiều. Qua trao đổi, thảo luận, vị luật sư này chắc chắn đã giúp cho Phan Châu Trinh phát triển, hệ thống hóa và cô đúc các yêu cầu đó một cách sắc bén hơn, logic hơn. Nhưng điều ta có thể khẳng định là trước khi gặp Phan Văn Trường, trong đầu của Phan Châu Trinh đã hình thành phần lớn các ý tưởng này.

Riêng điểm thứ 8, chúng ta thấy yêu cầu đó chỉ có thể xuất phát từ một người không chỉ quan tâm đến các quyền tự do mà còn nghĩ đến dân chủ - tức là xây dựng một chế độ đại nghị. Ý kiến này chính là của Phan Châu Trinh. Sáu năm sau khi bản thỉnh nguyện thư ra đời, ông đã trình bày lại ý kiến đó một cách rõ ràng hơn trong một cuộc họp của Hội Liên hiệp Pháp – Đông Dương vào chiều ngày 22.2.1925. Cuộc họp này với khoảng 200 người tham dự đã diễn ra tại số 8 đường Danton – Paris, dưới sự chủ tọa của Phan Châu Trinh. Bản mật báo của Désiré có ghi như sau: “Trước mắt, Phan Châu Trinh muốn có càng đông càng tốt người An nam nhập Pháp tịch để có đại diện ở Hạ viện, vì Đông Dương có 20 triệu dân, từ đó có thể có số Hạ nghị sĩ khá lớn. Số này có thể thành một nhóm đông và với sự ủng hộ của những người Pháp bênh vực dân bản xứ thì có thể đạt được đa số… và với cách đó, chúng ta có thể được giải thoát.” (CAOM-SLOTFOM 15/2, Lê Thị Kinh, II, tr. 492)

Trong bản báo cáo của Vụ chính trị Bộ thuộc địa gửi Bộ trưởng Daladier đề ngày 11.5.1925, cũng có ghi: “Hồi tháng 2 năm 1925, ông (tức Phan Châu Trinh) nêu ý kiến trong một cuộc họp do ông chủ tọa là cần có thật đông người An Nam vào Pháp tịch để được cử ra nhiều hạ nghị sĩ nhằm giải phóng dân Nam. Tháng 4-1925, ông ta khẳng định ý đồ về Đông Dương sau khi nhập Pháp tịch để khỏi bị “khuấy rầy”. (CAOM, SLOTFOM 15/2, Lê Thị Kinh, II, tr. 500).

Rõ ràng “đưa người Việt Nam vào Hạ viện Pháp” là chủ trương của Phan Châu Trinh, và giải pháp này hoàn toàn phù hợp với đường lối đấu tranh chính trị một cách ôn hòa để đòi tự trị, vừa kết hợp sức mạnh của dân tộc vừa tận dụng sức mạnh của những người Pháp cấp tiến tại chính quốc. Mặc dù đối với người Việt Nam và đối với hệ thống thuộc địa của Pháp, đây là một sáng kiến rất mới lạ; nhưng điều này lại không hề xa lạ đối với hệ thống thuộc địa của Anh. Ngay từ năm 1892, người Ấn đã có đại diện tại Hạ viện Anh. Vị dân biểu Hạ viện (MP) đó là chính là Dadabhai Naoroji (1825-1917), một trong những người có công trong việc hình thành tổ chức Đại hội Quốc dân Ấn Độ (Indian National Congress - tiền thân của Đảng Quốc Đại ngày nay). Ông là một lãnh tụ thuộc phái ôn hòa ba lần được bầu làm Chủ tịch INC (1886, 1893 và 1906).

Tóm lại, chúng ta có thể xác định: các yêu cầu nêu trong thỉnh nguyện thư 1919 xuất phát từ quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh, gắn bó với đường lối đấu tranh chính trị ôn hòa để đòi các quyền tự do căn bản và thiết lập một chế độ dân chủ đại nghị.

Riêng về mặt văn bản, giữa nhận xét của giáo sư Hoàng Xuân Hãn (Phan Châu Trinh soạn Hán văn, Phan Văn Trường dịch ra Pháp văn) và nhận xét của bà Thụy Khuê (Phan Văn Trường viết thẳng phần tiếng Pháp, Phan Châu Trinh dịch sang Hán Văn), ý kiến nào gần với sự thật hơn, xin nhường lại sự phán xét cho các nhà ngôn ngữ học và phê bình văn học.

Về vai trò của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, không phải ngẫu nhiên mà Hồ Hữu Tường đã viết những dòng như sau: "Khi ra tù, hai cụ được Nguyễn Thế Truyền, học xong ở Toulouse lên hiệp tác. Đầu tháng bẩy cụ Tây Hồ móc nối được với Nguyễn Tất Thành, lúc đó ở London, nên viết thơ gọi về Paris. (...), Đến 1918, nhóm nầy lại được Nguyễn An Ninh ở Sài gòn sang nhập bọn. Người ngoài cho đó là năm con Rồng, bởi người Việt xưng mình là "con Rồng". Linh hồn của nhóm "Ngũ long" nầy là cụ Phan Châu Trinh.” (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 18-19; trích theo Thụy Khuê).

“Phan Châu Trinh là linh hồn của nhóm Ngũ Long”. Nhận xét đó của Hồ Hữu Tường có thể được coi là một nhận xét mang tính khách quan, vô tư, bởi vì xét về mặt tư tưởng và khuynh hướng chính trị, Hồ Hữu Tường gần gũi và có thiện cảm với Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường hơn là với Phan Châu Trinh. Cho nên, nếu không tìm được những chứng cứ nào khác để bác bỏ điều này, chúng ta có thể khẳng định: ít nhất là cho đến đầu thập niên 1920, Phan Châu Trinh vẫn là linh hồn của nhóm Ngũ Long.

(Còn tiếp)
__________________________________________

Ghi chú:

[1] Alliance française (Liên minh Pháp) là một tổ chức do một số nhân vật nổi tiếng của nước Pháp thành lập vào năm 1883 với nhiệm vụ truyền bá ngôn ngữ và văn hóa Pháp trên toàn thế giới. Tổ chức này tự gây quỹ nhưng cũng nhận được trợ cấp hàng năm của chính phủ Pháp. Theo bà Thu Trang, Salles là Tổng thư ký của Alliance française. Nhưng theo Wikipédia tiếng Pháp, Tổng thư ký của tổ chức này trong những năm 1909-1914 là Émile Salone. Phó Tổng thư ký là chức vụ ghi ở cuối lá thư của Salles gửi một quan chức ở Bộ Thuộc địa đề ngày 3.10.1911 (LTK, I, 3, tr. 68).

[2] Ở đoạn trích phía trên ghi là 1913.

[3]Thụy Khuê, Phụ Lục : Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản (phần 1)


Share/Save/Bookmark

Thứ Bảy, 20 tháng 11, 2010

Phụ lục : Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản (Phần 2b)

Nguồn : RFI

Báo "Tiếng chuông rè" gắn chặt với hai tên tuổi Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh.
Báo "Tiếng chuông rè" gắn chặt với hai tên tuổi Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh.
Thụy Khuê

Việc xác định những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc là của Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh, dẫn tới vai trò chủ yếu của Phan Văn Trường, những năm đầu và của Nguyễn Thế Truyền, những năm cuối, trong hoạt động của nhóm Người An Nam yêu nước (1919-1927). Đó là cơ sở đầu tiên của những ngòi bút chống thực dân trên đất Pháp.


4. Bút pháp Nguyễn Thế Truyền, qua hai bài trên cùng tờ Le Paria, ra ngày 1/12/1922

Trong ngày 1/12/1922, Trên báo Le Paria có hai bài, một bài ký tên Nguyễn Thế Truyền, một bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Khảo sát hai văn bản này, chúng ta có thể xác định Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc là một.

Nguyên văn bài Un Bolchevick jaune (Một người Bôn-sơ-vich da vàng) ký tên Nguyễn Thế Truyền, in trên Le Paria ngày 1/12/1922, như sau:
"Nguyễn Ái Quốc có phải là một "kẻ đầy tham vọng, không nhân cách và không đại diện cho ai", như ý kiến của La Dépêche (Điện văn) rất coloniale (thực dân) kia. Những lời phỉ báng như thế, hiển nhiên phản ảnh sự nghiêng mình (hommage) của cái thấp hèn trước cái cao cả. Vì thế, đáng được trả lời.
Tham vọng? Hẳn thế, Nguyễn Ái Quốc đầy tham vọng. Nhưng tham vọng gì? Tham vọng giải phóng anh em rơi vào vòng nô lệ, bị bọn "diều hâu thực dân" bóc lột dã man. Có tham vọng nào cao quý hơn?
Kẻ viết bài giấu tên trên báo La Dépêche Coloniale kia, vì ngươi không biết đến nhân cách của Nguyễn Ái Quốc, nên ta cho ngươi biết.
Trong xứ, Nguyễn Ái Quốc sống hạnh phúc bên cạnh người thân. Khi còn rất trẻ, một hôm thấy Pháp chặt đầu đồng bào. Quốc không hiểu tại sao. Phẫn uất, Quốc ra đi, xa lánh bất công, để có thể kêu gào: "Công lý!" ở nơi khác. (...) Hôm nay, anh cương cường tranh đấu cùng những người anh em châu Phi, châu Âu. Với nghề khiêm tốn "sửa ảnh", vất vả để kiếm sống, nhưng anh trong sạch hơn bao nhiêu quan chức, quá quan cách, ở các Thuộc địa, kia.
Ồ! Không! Quốc không hề như họ. Chẳng tiền hô hậu ủng, không diêm dúa mề đai, không cồng kềnh "ấn trát", nhưng anh mang nguyện ước của đồng bào, kỳ vọng của Dân tộc bị áp bức. Năm ngoái, trở lại Đông Dương, tôi được nghe những lời cảm động về anh, bí mật truyền miệng mọi người. Một cụ bà kể: tôi có hai đứa cháu bị Pháp bắt đi đầy (vì tư tưởng); cụ hỏi tôi: "Cậu ơi, Cậu có biết Nguyễn Ái Quốc không?" - Một em bé dễ thương nhớ lại người cha, nhân sĩ nổi tiếng, bị tình nghi vì tư tưởng, một ngày kia bị cảnh sát Tây lôi đi như con chó; trong đầu đầy hình ảnh anh hùng huyền thoại, đứa nhỏ hỏi tôi: "Nguyễn Ái Quốc có phải là người bằng xương, bằng thịt không?"
- Này, người của La Dépêche Coloniale, ngươi không hiểu gì hết, ngươi đang phỉ báng một chân lý lớn lao, một sự hy sinh cao cả, hãy câm đi!" Nguyễn Thế Truyền.

Bài này, không nói lên lòng "tôn thờ" Nguyễn Ái Quốc (Tất Thành) của Nguyễn Thế Truyền, như Thu Trang nhận xét, mà Nguyễn Thế Truyền vinh danh một người anh hùng vô hình, nói khác đi, một người anh hùng huyền thoại, vì thế ôngđặt vào miệng bà cụ câu: Có ai gặp Nguyễn Ái Quốc không? Đặt vào miệng đứa nhỏ câu: Nguyễn Ái Quốc có phải là người bằng xương bằng thịt không? Đó là ý chính của Nguyễn Thế Truyền: hóm hỉnh xác định Nguyễn Ái Quốc là một huyền thoại.
- Là người chống Pháp không khoan nhượng, Nguyễn Thế Truyền mạnh tay (tát tổng đốc Vi Văn Định), mạnh bút, luôn luôn đánh thẳng vào thực dân vói lời lẽ quyết liệt: Bài này tát kẻ viết bài trên báo La Dépêche Coloniale, hèn, giấu tên (có thể là người Việt), không hiểu thế nào là sự hy sinh cao cả cho một chân lý.
- Bài báo còn cho thấy văn phong sắc, gọn, của Nguyễn Thế Truyền, sự kiêu kỳ, lối chơi chữ của ông và xác định một thông tin: khi Nguyễn Thế Truyền về nước, giữa năm 1920, cái tên Nguyễn Ái Quốc đã được mọi người truyền tụng.
- Lối viết của Nguyễn Thế Truyền khác Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh: Câu ngắn, rất ngắn, giọng khiêu khích, châm biếm và hay chơi chữ.

Trên cùng số báo Le Paria, ra ngày 1/12/1922, có bài A propos de Siki, (Về vụ Siki), ký tên Nguyễn Ái Quốc, viết về sự kiện Siki, boxeur da đen hạ Carpentier, boxeur da trắng. Chúng tôi trích một đoạn, phần tiếng Pháp trước, để độc giả thấy bút pháp của Nguyễn Thế Truyền:

"Depuis que le colonialisme existe, des blancs ont été payés pour casser la g... aux noirs. Pour une fois, un noir a été payé pour en faire autant à un blanc. Adversaire de toute violence, nous désapprouvons l'un et l'autre procédé. Mais le fait est là, nous n'avons qu'à le constater. Constatons.
D'un coup de poing - sinon scientifiquement envoyé, du moins formidablement placé - Siki déplaca proprement Carpentier de son piédestal pour grimper dessus lui-même.
Le championnat de la boxe a changé de mains, mais la gloire sportive nationale n'a pas souffert, puisque Siki, enfant du Sénégal, est parconséquent, fils de France, donc Français.
Malgré cela, il arrive que chaque fois que Carpentier triomphe, c'est naturellement par son adresse et par sa science. Mais toutes les fois qu'il est battu, c'est toujours par la force brutale d'un Dempsey ou la mauvaise jambe d'un Siki. C'est pourquoi, au match de Buffalo, on a voulu déclarer - on a même fait déjà la déclaration - que Siki, bienque gagnant, était vaincu "quand même".

"Từ khi có chế độ thuộc địa, người da trắng được trả tiền để đánh bể mặt người da đen. Bận này, một anh da đen lại được trả tiền để nện anh da trắng. Chống mọi bạo lực, chúng tôi không tán thành cả hai cách này. Nhưng sự kiện sờ sờ ra đó, chúng ta chỉ việc ngó qua. Xem nào.
Một cú đấm -nếu không được gọi là khoa học, thì ít ra thì cũng trúng boong- Siki rành rành hạ bệ Carpentier và leo lên thế chỗ.
Giải vô địch đánh bốc đã đổi chủ, nhưng hào quang thể tháo quốc gia không hề hấn gì, vì Siki, đứa con Sénégal, tức, con Pháp, vậy, là người Pháp.
Ấy thế mà mỗi khi Carpentier thắng thì tất nhiên là nhờ tài trí và phương pháp khoa học của anh. Còn lần nào thua thì y như rằng là vì một tên Dempsey nào đó, đánh ác hay một tên Siki nào đó, đá hiểm. Vì vậy, trong trận đấu Buffalo, người ta những muốn tuyên bố - người ta đã tuyên bố rồi - rằng Siki dù thắng, "vưỡn" bại!" (trích bài A propos de Siki (Về vụ Siki), ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Rất khó xác định những lời này của Nguyễn Tất Thành, vì một người mới học tiếng Pháp vài năm mà viết được như thế thì quả là phép lạ, nhất là tính cách hóm hỉnh, cũng không hề tìm thấy trong các văn bản sau này của Hồ Chí Minh.

5. Tư tưởng Nguyễn An Ninh

Nguyễn An Ninh có hai lối viết, một lối viết tranh luận, đôi khi cũng sát phạt không kém gì Nguyễn Thế Truyền, một lối viết hoà nhã, gần với văn phong Phan Văn Trường.
Bài Lettre à Monsieur Outrey (Thư gửi ông Outrey) đăng trên Le populaire ngày 14/10/1919, là lối văn tranh luận, với những chi tiết nói lên sự đụng độ kịch liệt giữa Outrey và Nguyễn An Ninh:
Sự việc có thể đã phát xuất từ bài L'Indochine et la Corée; une intéressante comparaison (Đông dương và Triều tiên) in trên Le populaire 4/9/1919. Trong bài này Nguyễn An Ninh so sánh sự bảo hộ Triều tiên của Nhật bản và sự bảo hộ Đông dương của Pháp. Ông buộc tội Pháp đã đầu độc người da vàng bằng những lời hứa hão và dùng bọn bồi bút để ca tụng chính quyền thuộc địa. Ernest Outrey, từng làm Thống đốc Nam Kỳ. Năm 1914, đắc cử dân biểu, đại diện cho thực dân ở Sàigòn tại quốc hội Pháp.
Ngày 18/9/1919, tại Hạ viện, Outrey đánh thẳng vào "bè lũ" Nguyễn Ái Quấc và đồng bọn An Nam yêu nước. Được tin, Nguyễn An Ninh đang nghỉ ở Biarritz viết lá thư ngỏ cho Outrey, gửi đăng trên báo Le Populaire, phản pháo mãnh liệt, đồng thời xác định mình là Nguyễn Ái Quốc, ông viết:
"Ông đã nói đi nói lại [ở hạ viện] rằng tôi bị truy nã ở Đông Dương vì âm mưu chống Pháp. Vậy hãy nói cho biết, lúc nào, toà án nào, âm mưu gì?"
Outrey và Nguyễn An Ninh cùng ở Nam Kỳ nên biết rõ hành tung của nhau: Outrey biết rõ gốc gác và hành động của Nguyễn An Ninh. Nguyễn An Ninh cũng biết rõ âm mưu của Outrey ở Nam Kỳ. Nhưng tới năm 1919, Nguyễn An Ninh chưa hề bị bắt, vì vậy Ninh mới thách Outrey tìm ra chứng cớ ông bị bắt năm nào, ở đâu? Về phần Outrey, khi đọc văn, y đoán chắc Nguyễn Ái Quấc là Nguyễn An Ninh, nên trong lời buộc tội ở hạ viện, Outrey đã mô tả Nguyễn Ái Quốc như Nguyễn An Ninh. Cuối cùng Nguyễn An Ninh cũng đã "đáp lễ" Outrey tới nơi tới chốn.

Khía cạnh thứ hai: Nguyễn An Ninh là ngòi bút của văn chương và tư tưởng.
Trong bài La France et L'Indochine, Nguyễn An Ninh viết:
"Trong những năm gần đây, mặc dù thực dân hết sức tìm cách giam hãm người An Nam, nhưng dưới lực đẩy của phong trào thanh niên Tây du, một vài người đã có thể đến Pháp, quan sát đời sống hàng ngày và tìm hiểu bí quyết về sức mạnh vật chất của Âu Châu. Họ mang về nước tư tưởng dân chủ, tinh thần phê phán của Châu Âu; hơi thở Tây phương đã làm sống lại niềm tin và nghị lực của họ. Họ đã nhận tận tay người Pháp bản án chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương. Thực dân không thể ngăn cấm người An nam biết tiếng Pháp đọc Montesquieu, Rousseau, Voltaire.
Và, cùng một lúc, tinh thần phê phán Tây phương, giúp thanh niên An nam, mang trong tâm hồn giống nòi họ, giải thoát triết học Khổng Tử và Mạnh Tử khỏi lớp bụi dầy của đạo lý Khổng Mạnh suy đồi. Đã có một số xu hướng nổi lên và xác định, tìm cách cổ động quần chúng bỏ khát vọng phục thù bằng bạo lực và dấn thân vào con đường tranh đấu mới: Đòi hỏi những tự do căn bản để bảo tồn phẩm giá con người, đòi hỏi những cải cách, trùng hợp tinh thần dân chủ của dân tộc An nam với tư tưởng Tây Phương. Họ không còn chấp nhận, như quần chúng đã phải chấp nhận, như kẻ bại trận trên chiến trường đã phải chấp nhận, cái luật chiến tranh, cái đắc ý thô bạo của kẻ thắng và cái nhục nhã của người thua. Họ cũng không còn chiến đấu bí mật với lòng yêu nước thuần tuý nữa mà họ tranh đấu công khai, nhân danh nguyên tắc nhân quyền 1789. Và bọn thực dân không còn dám dựa trên cớ "chủ quyền nước Pháp bị đe doạ" để bắt họ đi đày hoặc xử tử.
Như thế, chính sách người bóc lột người ở Đông Dương đã được báo trước sự phá sản không thể tránh khỏi.
Hoặc là, biện pháp đán áp, điên cuồng vì thất bại, vẫn cố chấp, mặc kệ dấu hiệu báo trước những biến cố sắp tới, vẫn tiếp tục đè nặng trên con mồi đang vùng vẫy; như thế thảm họa chung sẽ xẩy ra: nước Pháp mất hết thanh danh và lợi ích -"sứ mệnh giáo hoá" của châu Âu sẽ lộ bộ mặt thật của nó- và nước An Nam, sau những kinh hoàng, thống khổ, sẽ được tự do hơn để hoàn tất sứ mệnh của mình.
Hoặc là, nước cộng hoà Pháp đến Đông Dương để thay thế bè lũ thực dân; như thế, không những, thanh danh và lợi ích của Pháp sẽ được bảo toàn, mà Pháp còn được hưởng sự tri ân của một dân tộc sẽ ủng hộ uy danh của họ ở châu Á.
Cách đây khoảng 15 năm, để trả lời tiếng kêu của những người bị họ đán áp, những kẻ thực dân, đã viết trên báo của họ như sau: "Nước Pháp không đến đây với (đoản) Kiếm và Luật (pháp). Chỉ có Kiếm". Hình như rằng, sau sáu mươi năm bị đô hộ và chịu ảnh hưởng Pháp, ngày nay, đất Nam kỳ đã được công bố là đất Pháp, người An nam có quyền đòi hỏi nước Pháp phải mang sang Đông Dương, không những Luật, mà cả thanh Kiếm để bảo vệ Luật. Sự hoà hợp giữa lý tưởng cộng hoà Pháp và tư tưởng dân chủ của một xã hội xây dựng trên nền móng tư tưởng Khổng Mạnh, không vượt trên sự tiến hoá tự nhiên, như thực dân vẫn muốn cho người ta tưởng. Phong trào giải phóng ở Á châu không đi theo những quy luật chi phối sự tiến hoá chậm rãi từ xã hội dã man lên xã hội Âu châu tân tiến.
Phải là thực dân trong nghĩa ngu xuẩn nhất mới có có thể tin được "nghiã vụ giáo hoá" của những người Âu châu sang "thuộc địa hoá" Đông Dương. Ở Ấn Độ, sự tuyên ngôn về "nghiã vụ giáo hoá" Tây phương gợi trong lòng một Tagore ý thức giáo hoá Đông phương. Ở Trung hoa, giới thanh niên đã đi học ở Âu châu, đặt câu hỏi trên báo chí như một thách đố với châu Âu: "Bạn có thể nói cho chúng tôi biết, nước bạn đã có văn minh chưa? (...)
Về chính sách thực dân mà nước Pháp áp dụng ở Đông Dương, chúng tôi nhận thấy:
1- Rằng, ở Đông Dương, nước Pháp chẳng những không áp dụng những nguyên tắc lớn mà họ đã tuyên thệ, mà còn tiêu diệt tư tưởng dân chủ của xã hội An Nam.
2- Rằng, nước Pháp, thừa nhận tự do và quyền công dân Pháp cho những người, hôm qua, vẫn còn là nô lệ, nhưng lại áp đặt chế độ nô lệ ở Đông Dương cho một dân tộc tự do, đã có một nền văn minh, từ khi cư dân sống trên đất Pháp vẫn còn ăn lông ở lỗ (vivait dans des cités lacustres)". (Trích La France et L'Indochine, đăng trên Europe, số 31, ra ngày 15/7/1925)

Bút pháp thứ hai này, có thể hiện diện trong cuốn "La France en Indochine", nay không còn dấu tích. Nhưng bài viết La France et L'Indochine mà chúng tôi vừa trích dịch một đoạn trên đây, có thể tóm gọn tư tưởng đấu tranh của Nguyễn An Ninh.
Theo Đặng Hữu Thụ, cuốn "La France en Indochine" tháng 4/1925, in 2000 bản tại nhà A et F Debeaufauve Tournefort Paris. Nguyễn An Ninh trao cho Nguyễn Thế Truyền 150 bản. Nguyễn Thế Truyền nhờ các thủy thủ Việt nam đem về phổ biến trong nước. Ngoài ra, sách cũng được gửi tặng một số dân biểu, nghị sĩ Pháp, hội Nhân quyền và báo chí viết về thuộc địa.
Khi đáp tàu về nước ngày 28/5/1925 cùng Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh mang theo một số cuốn. Nhưng Bộ thuộc địa biết, đánh điện về Phủ toàn quyền, và sách đã bị tịch thu khi tàu cập bến. (ĐHT, trang 64).
Một cuốn sách, mang tên Đông dương (1923-1924) được dịch và đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, phải chăng, đây chính là tác phẩm La France en Indochine mà Nguyễn An Ninh đã cho in năm 1925?

6. Le procès de la colonisation française (Bản án chế độ thực dân Pháp) và Đông Dương (1923-1924)

"Bản án chế độ thực dân Pháp" có thể được coi là một sáng tác tập thể, mà Nguyễn Thế Truyền làm "chủ biên" và viết lời giới thiệu. Cuốn sách in năm 1925, sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga hai năm. 1946, in lại lần đầu ở Hà Nội.

Trong hồi ký Trần Dân Tiên, viết khoảng 1948, Hồ Chí Minh không nói gì đến cuốn Đông dương (1923-1924), chắc ông không biết có cuốn sách này. Đông Dương cùng bố cục như Bản Án chế độ thực dân Pháp, nhưng lời văn điềm đạm hơn, gần với lối viết của Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường. Điểm chung của hai tác phẩm là cùng dùng những mẩu chuyện, những nhân chứng trong các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Đông dương nói đến tình trạng ở nước ta, còn Bản Án chế độ thực dân Pháp viết chung cho nhiều dân tộc.

Về "Bản án chế độ thực dân Pháp" Hồ Chí Minh chỉ nói một câu: ""Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển: "Bản án chế độ thực dân Pháp"; quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia". (Trần Dân Tiên, trang 37).
Việc ông cho rằng: "quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia", chứng tỏ ông chưa đọc "Bản án chế độ thực dân Pháp" khi ông viết dòng chữ này, và ông đã vô tình hạ giá tác phẩm: chẳng có cuốn sách nào của người Pháp lại viết về tội ác của một thành phần dân tộc mình, như thế, lưu trong thư viện, để cho ông chép lại.

Theo những tài liệu hiện có, ngòi bút Nguyễn Ái Quốc xuất hiện đều đặn trên các báo từ tháng 8/1919 đến đầu năm 1920: thời gian này chủ yếu là Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh chấp bút. Trong năm 1920, rất ít văn bản, có thể vì Phan Văn Trường bận việc toà án, đi về giữa Paris và Mayence, Nguyễn An Ninh về Sàigòn (2 lần, để cưới vợ và ly dị người vợ đầu) và Nguyễn Thế Truyền về Việt nam một năm (8/1920-8/1921).
Thời điểm tung hoành mạnh mẽ nhất là khoảng 1921-1922, khi cả ba người đều có mặt ở Paris: bút hiệu Nguyễn Ái Quốc xuất hiện trên nhiều tờ báo một lúc. Mùa thu 1922, Nguyễn An Ninh về Sàigòn. Cuối năm 1923, Phan Văn Trường về nước. Còn lại Nguyễn Thế Truyền, một mình, ký cả tên Nguyễn Ái Quốc và tên thật Nguyễn Thế Truyền.

Tóm lại, có thể nói, những bài xuất hiện trên Le Paria và L'humanité, phần lớn là của Nguyễn Thế Truyền; những bài trên Le Libertaire, phần lớn là của Nguyễn An Ninh; những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, từ 1923 đến 1927, trên Le Paria và trên Inprekorr, báo Nga ấn bản pháp ngữ, cũng của Nguyễn Thế Truyền.

Bản án chế độ thực dân Pháp, được viết và soạn vào khoảng 1923, từ những thông tin, những đoạn, những ý tưởng đã có trong các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc và những thông tin khác đến từ các thuộc địa châu Phi. Tác phẩm không chỉ đưa ra bộ mặt lầm than, thống khổ của một dân tộc Việt Nam mà còn của tất cả những người dân da màu khác đang bị đô hộ. Vì vậy nó có tính chất nhân loại. Khó có thể xác định ai là tác giả, vì nội dung cho thấy bàn tay của nhiều người: Nguyễn Thế Truyền, trước tiên, vì ông đã có công soạn thảo, chỉnh đốn, viết tựa. Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh, về mặt luật pháp. Phan Văn Trường về phía công binh. Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường trên những chân dung toàn quyền và các chính sách dã man của thực dân Pháp trên đất nước ta. Nhưng còn có những đóng góp khác của các nhà văn châu Phi, và thư từ độc giả từ các nơi gửi về...

III- Kết luận

Georges Pompidou, tổng thống Pháp, lúc còn sống có lần khuyên một môn sinh: muốn làm chính trị, phải biết lịch sử. Ông có thể nói: Làm người phải biết lịch sử. Bởi lịch sử một dân tộc, được xây dựng bằng lịch sử của mỗi con người. Và lịch sử nhân loại xây trên nền lịch sử mỗi dân tộc. Nếu lịch sử nhỏ của mỗi cá nhân bị xoá bỏ, bị bôi nhọ, hay bị man trá đi, thì, lịch sử dân tộc ấy sẽ như thế nào? Lịch sử của một người gồm thâu tất cả những hành động thể xác và tinh thần của người ấy trong đời. Nếu ta thấy lịch sử của chính mình bị đánh tráo cho người khác, thì phản ứng của ta ra sao? Vậy sống, không chỉ là tồn tại, mà còn là hình thành và bảo vệ lịch sử của chính mình và của người khác. Vì thế, cần phải biết rõ hành trình sống của dân tộc mình, biết rõ công việc những người đi trước đã làm, tìm hiểu những thành công và thất bại của họ, để rút kinh nghiệm cho tương lai.

Vì thế, không thể để cho lớp trẻ học mãi những điều mạo nhận: Bất cứ một người có suy nghĩ nào, khi đọc cuốn Hồ Chí minh toàn tập cũng phải hồ nghi về xuất xứ các văn bản in trong tập sách nhiều nghìn trang này. Vậy sự vơ vét liều lĩnh các văn bản khác nhau của những người viết khác nhau vào trong một toàn tập của một tác giả mà học sinh phải học như kinh điển, là không thể chấp nhận được.
Bởi giáo dục quần chúng với những "toàn tập" ngụy tạo như thế có khác gì tiêu diệt giáo dục ngay từ đầu. Cho nên, vấn đề tái tạo lại các tác giả, đối với dân tộc Việt nam, là cốt tử. Bởi nền giáo dục của chúng ta cần được xây dựng trên một nền tảng lành mạnh không ngụy tạo.
Dạy cho học sinh sự ngụy tạo lịch sử từ lúc mới đến trường, có khác nào dạy trẻ nói dối từ bé?
Dường như thanh niên ngày nay vẫn còn loay hoay với những khẩu hiệu vô nghiã: nhờ ơn bác, nhờ ơn đảng, vì họ được đào tạo trong một môi trường ngụy tạo lịch sử. Nói như George Orwel: Khi sự ngụy tạo được lập đi lập lại không ngừng, nó sẽ trở thành sự thực vĩnh viễn. Hãy còn kịp, nếu chúng ta muốn viết lại lịch sử của Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường... và bao nhiêu người khác đã hy sinh cuộc đời cho hai chữ tự do, dân chủ. Hãy còn kịp để nói lại với thanh niên ngày nay rằng tên tuổi những nhà cách mạng đích thực ấy sẽ không bị chôn vùi hoặc bức tử mãi mãi, mà bổn phận của tuổi trẻ là phải tìm tòi, để viết lại lịch sử, một lịch sử không ngụy tạo.
Việc nghiên cứu văn bản Nguyễn Ái Quốc, để xác định ai là tác giả, cũng nằm trong chiều hướng đó: Tái tạo sự thật lịch sử để góp phần xây dựng một nền giáo dục chân chính.

Chú thích:
Nhờ những chi tiết, hoặc tư tưởng, hoặc văn phong trong bài, chúng tôi có thể xác định một số bài sau đây là của:
Phan Văn Trường: Tâm địa thực dân, Vấn đề dân bản xứ (L'Humanité 2/8/1919), Những kẻ bại trận ở Đông dương (La vie ouvrière số 101, ngày 8/4/1921), Quyền của những người lính (La vie ouvrière số 105, ngày 7/5/1921), Phong trào cộng sản quốc tế Đông dương (La revue communiste, số 15, tháng 5/1921), Vụ âm mưu ở Đông Dương (17/8/1921)...
Nguyễn An Ninh: Đông dương và Triều tiên (Le populaire, 4/9/1919), Thư gửi ông Outrey (Le populaire, 14/10/1919), Phong trào cách mạng ở Ấn Độ (La revue communiste, số 18-19 tháng 8-9/1921). La civilisation supérieure (Nền văn minh thượng đẳng) (Le Libertaire, 23/9/1921), Tội ác của chủ nghiã thực dân (La vie ouvrière, số 126, ngày 30/9/1921), Sự quái đản của công cuộc khai hoá (Le Libertaire, ngày 30/9 và 7/10/1921). Aimez la France qui vous protège (Hãy yêu Pháp, nước bảo hộ bạn) (Le Libertaire, ngày 14/10/1921)....
Nguyễn Thế Truyền: Zoologie (Thú vật học) (Le Paria số 2, ngày 1/5/1922) Mấy ý nghĩ về vấn đề thuộc địa (L'humanité ngày 25/5/1922), Paris (L'humanité, 30 -31/5/1922), Lời than của bà Trưng Trắc (L'humanité, 24/6/1922), Les cilivisateurs (Những kẻ đi khai hoá) (Le Paria số 4, ngày 1/7/1922), La haine des races (Hận thù chủng tộc) (Le paria số 4, ngày 1/7/1922) 1/7/1922, Lettre ouverte à M. Albert Sarraut (Thư ngỏ gửi ông Albert Sarraut), (Le journal du peuple, 25/7/1922), Khai hoá giết người (Le paria số 5, 1/8/1922), La femme annamite et la dominatinon française (Phụ nữ An nam và sự đô hộ của Pháp) (Le Paria số 5 ngày 1/8/1922), Nhân đạo thực dân (Le paria, số 6-7 (tháng 9 và 10/1922), Le martyre d'Amdouni et Ben Belkhir (Amdouni và Ben Belkhir chịu nhục hình) (Le Paria, số 8, 11/1922), A propos de Siki (Về vụ Siki) (Le Paria, số 9, 12/1922), Indigène à la mode (Le Paria số 10, 15/1/1922)....


Share/Save/Bookmark

Phụ lục : Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản (phần 2a)

Nguồn : RFI
Bìa quyển "Bản án chế độ thực dân Pháp" thời vừa được xuất bản.
Bìa quyển "Bản án chế độ thực dân Pháp" thời vừa được xuất bản.
Thụy Khuê

Trong bài trước, chúng tôi đã đưa ra những dữ kiện chứng minh bút hiệu Nguyễn Ái Quốc là của chung ba người: Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền. Bài này sẽ dùng phương pháp phân tích văn bản để đi xa hơn: thử xác định tác giả một số bài viết qua văn cách khác nhau của mỗi người và dựa vào những chi tiết chứa đựng trong nội dung văn bản.

II. Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quấc/Quốc

Việc xác định những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc là của Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh, dẫn tới vai trò chủ yếu của Phan Văn Trường, những năm đầu và của Nguyễn Thế Truyền, những năm cuối, trong hoạt động của nhóm Người An Nam yêu nước (1919-1927). Đó là cơ sở đầu tiên của những ngòi bút chống thực dân trên đất Pháp.

1. Vai trò của Phan Châu Trinh tại Pháp

Vai trò lãnh đạo thường được nhiều người coi là của Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường chỉ là người thông dịch tư tưởng của Phan Châu Trinh ra tiếng Pháp. Sự thật có lẽ khác hẳn: Trong thời kỳ đấu tranh ở Pháp, Phan Châu Trinh, dù được dân tộc quý mến, nhưng ông vẫn là nhà nho, tư tưởng của ông đã trở thành lạc hậu, so với những người Tây học.

Sự ngây thơ của Phan Châu Trinh, cũng đã được Phan Văn Trường phân tích khá cạn kẽ, khi viết chân dung ông, trong chương X, cuốn hồi ký. Phan Văn Trường mô tả như sau:
Ông Phan Châu Trinh là người thông minh thiên bẩm, uyên bác và có kinh nghiệm sống, nói chuyện hay, nhưng dường như những ưu điểm trên đây bị sự khinh suất khó mường tượng và sự ngây thơ lạ lùng phá vỡ. Những lời lẽ hạ mình đối với chính quyền thực dân trong Đầu Pháp chính phủ thư, thực vô ích, vì ông không hiểu rõ thâm ý của chính quyền thuộc địa, mà hậu quả còn bị bọn quan lại thâm thù và kết án tử hình nếu hội nhân quyền Pháp không kịp thời can thiệp. Phan Châu Trinh đến Pháp với con trai là Phan Châu Dật, 12 tuổi, để lại nhà vợ và 2 con gái. Chính phủ Pháp trợ cấp mỗi tháng 420 francs. Hai cha con ở một nhà trọ, có vài công chức cao cấp của chính quyền thuộc địa thỉnh thoảng đến thăm. Ông được đồng bào nhiệt liệt hưởng ứng, người Việt ở Paris đến thăm và nghe ông nói chuyện, để thoả lòng nhớ nước, Phan Văn Trường viết: "vị nhân sĩ này tượng trưng xã hội An Nam xưa. Ông ra vào văn phòng của bộ Thuộc địa như một nhân vật được ưu ái tín nhiệm (personna grata), ông trình bày những quan điểm chính trị, đặc biệt yêu cầu ân xá cho những người bạn cùng cảnh ngộ còn ở trong tù, nhưng không bao giờ ông nhận được trả lời ngoài sự im lặng khinh bỉ.
Sự chăm sóc hời hợt của chính quyền thuộc địa lúc đầu, lạnh dần để cuối cùng chuyển sang ác cảm và thù nghịch." (Hồi ký PVT, trang 72).

Vẫn theo Phan Văn Trường, sự chăm sóc hời hợt này chỉ là cái cớ để dễ bề trừng phạt khi Phan Châu Trinh dám bàn (phiếm) đến chính sách chính trị ở Đông Dương, và cùng Phan Văn Trường, làm một bản Thỉnh nguyện gửi hội Nhân Quyền, nhờ can thiệp cho những người bạn còn bị tù Côn đảo vì biến cố 1908. Thế là một loạt báo Pháp ở Đông dương (được lệnh) phát triển phong trào bôi nhọ, viết bài ngụ ý tiếc rằng chính quyền Đông Dương đã không để xử tử (Trinh) cho rồi, và quy kết hai người (Trinh và Trường) vào tội tổ chức cuộc nổi dậy chống Pháp tại Đông Dương.
Sau vụ này, Phan Châu Trinh vẫn còn được trợ cấp, ông sống rất chật vật, phải gửi con vào nội trú tỉnh nhỏ và ông ở khách sạn, ăn cơm rẻ tiền. Mặc dù ở trong tình trạng khốn đốn, Phan Châu Trinh là người bền chí, ông vẫn còn tin vào chính quyền thực dân, ông đến Bộ Thuộc địa thường xuyên, tìm gặp những công chức cao cấp phụ trách vần đề Đông Dương để bày tỏ lòng trung thực của mình.

Nhưng sau những hớ hênh của ông (Phan Văn Trường muốn nói đến việc Phan Châu Trinh tin cậy mật thám Nguyễn Như Chuyên, coi như môn sinh), ông và tôi bị bắt, bị giam 11 tháng. Tháng 7/1915, ra tù, đang trong chiến tranh, chính quyền thuộc địa cúp hết trợ cấp, hy vọng, không biết tiếng Pháp, không có nghề, bắt buộc ông phải về xứ. Nhưng Phan Châu Trinh không về, ông ở lại, học nghề rửa ảnh và sống ung dung.
Sau những bài học đắng cay như thế, tưởng Phan Châu Trinh sẽ hết lạc quan, nhưng không, ông vẫn tiếp tục thái độ triết nhân của mình, coi như không có chuyện gì xẩy ra, vẫn đến Bộ thuộc địa, tìm gặp những kẻ đã đày đọa mình, và xin hội kiến Albert Sarraut hết lần này đến lần khác.
Phan Văn Trường viết: "Tạm nói mà không hề có ý miệt thị rằng, người này- vẫn bám vào chính quyền thuộc địa, bị đuổi cửa trước thì luồn vào cửa sau- người mà chính quyền thuộc địa hai lần buộc tội âm mưu chống Pháp!
Phan Châu Trinh là một người thông minh, một người tử tế, một người bạn tốt; nhưng những đức tính này không đủ để làm nên một người cách mạng" (PVT, trang 73-74-75).
So với lời Phan Châu Trinh phê phán Phan Bội Châu, trong bài "Nước Việt Nam mới sau khi liên hiệp với Pháp", thì lời Phan Văn Trường phê phán Phan Châu Trinh, cũng còn là nhẹ.

Chân dung này, Phan văn Trường viết khoảng 1923, mục đích bênh vực Phan Châu Trinh, bị Pháp kết tội oan, vì không hiểu rõ chủ trương Pháp Việt đề huề của ông.
Nhưng đồng thời cũng nói lên sự khác biệt trong chủ trương tranh đấu của Phan Văn Trường với Phan Châu Trinh, đó cũng là sự khác biệt sâu xa giữa những người Nho học và Tây học.

Tinh thần Tây học này, lại được xác định một lần nữa trong nhận định của Hoàng Xuân Hãn.
Về "Đầu Pháp chính phủ thư" của Phan Châu Trinh, Hoàng Xuân Hãn viết: "Lời lẽ trong thư kịch liệt, có thể kích thích sĩ khí, nhưng lại vô tình hay hữu ý ngoa ngoắt bôi nhọ quốc dân và quan lại, dường như để nhử chính quyền tin mình mà nhận lời mình. Kết quả là không những ý mình không toại, mà thực dân đã dùng quan lại để trừ khử ông: ông bị kết án tử hình; rồi may nhờ Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, chỉ bị đầy ra Côn Đảo. Giả sử thực dân bấy giờ khôn ngoan hơn, biết thấy lợi xa mà nghe lời ông, thì lập trường của ông trong giai đoạn nầy có lẽ sẽ có lợi cho dân ta trong quá trình tìm giải phóng. Trái lại, sự thất bại của ông đã làm cho người ngày nay, khi đọc lại thư ông, chỉ có cảm tưởng ông ngây thơ về chính trị và cảm thấy tức tối khi ông mạt sát quá đáng đồng bào, mà tâng bốc vượt mức thực dân. Tuy vậy, ta không thể không nhận rằng ông có óc hiện thực, biết quan sát, phân tích và có thái độ can đảm và thẳng thắn." (Hoàng Xuân Hãn, Tựa cuốn Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp của Thu Trang, Đông Nam Á, Paris, 1983, trang 8).

2. Con đường tư tưởng

Khảo sát các tư liệu, chúng ta có thể xác định Phan Văn Trường mới thực sự là thủ lãnh phong trào Việt kiều yêu nước, chính ông đã xây dựng nền móng, rồi cùng với Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh hình thành đường lối chính trị và tư tưởng chống Pháp:

- Bằng ngòi bút, đả kích trực tiếp thực dân bằng cách trình bày những tội ác của thực dân trên báo chí Pháp. Đối lập nước Pháp cộng hoà với nước Pháp thực dân: Nói rõ tội trạng của bọn thực dân để người Pháp phải xấu hổ mà bác bỏ chính sách dã man đó đi.
- Liên kết với các nhà văn và nhà chính trị phái tả, và các báo L'Humanité (Nhân loại) và Le Populaire (Người bình dân) của đảng Xã Hội; La vie ouvrière (Đời sống thợ thuyền), La revue communiste (Tạp chí Cộng sản), Le Paria (Người cùng khổ) của đảng Cộng sản, Le libertaire (Người tự do tuyệt đối) của nhóm anarchiste...
- Từ 1922 trở đi, nhóm Ngũ long, nhất là Nguyễn Thế Truyền, đã sử dụng Hội Liên Hiệp thuộc địa và báo Le Paria (Người cùng khổ) của đảng Cộng sản, làm bàn đạp để kết giao với các nhà hoạt động cách mạng trên các thuộc địa Châu Phi, Madagascar, tạo thành phong trào chống thuộc địa toàn cầu.
- Tác phẩm Le procès de la colonisation francaise (Bản án chế độ thực dân Pháp) là thành quả của sự hợp tác này. Và cũng từ cuối năm 1923, khi mọi người đã rời khỏi Paris, một mình Nguyễn Thế Truyền đứng mũi chịu sào (với sự giúp sức của chú ruột Nguyễn Thế Phu, em ruột Nguyễn Thế Song, người cùng làng Nguyễn Thế Thạch, và các đồng chí và môn đệ như Nguyễn Văn Luận, Tạ Thu Thâu...) đã mở rộng cuộc đấu tranh, không những về phía Châu Phi, Madagascar, mà còn viết bài ký tên Nguyễn Ái Quốc trên báo Inprekorr của Nga, ấn bản tiếng Pháp. Tham vọng "toàn cầu hoá" cuộc tranh đấu chống thực dân là của Nguyễn Thế Truyền.

Phan Châu Trinh là nhà nho, không thạo tiếng Pháp, nên ông không thể hiểu được con đường chính trị này. Vì vậy, không những ông không tha thiết, mà tỏ ý còn chống lại việc viết báo tiếng Pháp cho người Pháp đọc. Những đề tài viết về một người boxeur da đen như Siki của Nguyễn Thế Truyền có thể là vô bổ đối với Phan Châu Trinh, nhưng đối với cuộc tranh đấu tranh chung, đó là một cái nhìn thấu suốt tình hình thế giới.

Ngoài niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, ba cây bút Tây học ký tên Nguyễn Ái Quốc luôn luôn đề cao tư tưởng phương Đông: Phan Văn Trường nghiêng về văn minh Trung Hoa, Nguyễn An Ninh nghiêng về văn minh Ấn Độ, và Nguyễn Thế Truyền nghiêng về lịch sử và văn hoá dân tộc. Đó là điểm khác biệt giữa ba người. Tinh thần này không thấy ở các nhà nho, dường như họ bị choáng ngợp trước nền văn minh Tây phương, mà Phan Châu Trinh là tiêu biểu: chống Pháp nhưng luôn luôn hạ mình một cách quá đáng trước người Pháp. Sau này Hồ Chi Minh tôn Mác-Lê nin làm thày, ngoài cái nhục chư hầu, còn là sự hạ mình cố hữu của nhà nho, và cũng nói lên nội dung khác biệt sâu xa giữa những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc và những điều Hồ Chí Minh nói và viết sau này.

Trí thức ở Pháp có truyền thống theo cánh tả. Trong bối cảnh chính trị đầu thế kỷ XX, các trí thức Việt nam như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền... muốn tranh đấu cho đất nước, chỉ có thể dựa vào trí thức cánh tả, trong các đảng xã hội, đảng cộng sản, nhóm anarchiste... nhờ họ làm hậu thuẫn để chống lại chính sách thực dân... Tuy vậy, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh không vào đảng nào, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành vào đảng Xã hội, rồi đảng Cộng sản.

Bản Tuyên ngôn Cộng sản của Marx- Engels viết cho một xã hội Tây phương đã công nghiệp hoá, không có điểm gì chung với một xã hội Việt nam chưa có kỹ nghệ, 80% là nông dân "tay làm hàm nhai". Vậy tại sao Phan Văn Trường lại cho in bản Tuyên ngôn của đảng cộng sản trên báo La cloche fêlée, Ngô Văn giải thích:
"Vào thời kỳ này [thập niên 1920] ở Pháp, bản tuyên ngôn của Các Mác và Ăng ghen được phổ biến rộng rãi, in ra sách nhỏ rẻ tiền. Nó không chứa đựng điều gì làm choáng váng đầu óc của tầng lớp thanh niên trí thức An Nam", nhưng "chương trình quá độ sơ thảo trong bản tuyên ngôn có thể làm cho thanh niên suy nghĩ" (Ngô Văn, trang 63-63).

3. Phan Văn Trường

Hồ Hữu Tường viết về Phan Văn Trường như sau:
"Tôi ở chung với cụ Phan Văn Trường được hơn tuần thì cụ về xứ [tháng 2/1930, sau khi Phan Văn Trường ra tù lần thứ nhì, ba năm trước khi ông mất]. Trong thời gian đó, ngày nào tôi cũng quấn quýt theo bên cụ, mà nghe cụ kể những mẩu chuyện thăng trầm của đời tranh đấu mình. Cụ rất vui tính, cười hề hề, dầu cho chuyện bi đát, cụ cũng tìm thấy vài nét ngộ nghĩnh để mà trào lộng. Cụ là một bực học giả uyên thâm, các sách hay của Đông phương lẫn Tây phương cụ đều đọc cả. Cụ nói:
"Tôi đọc được nhiều là nhờ nghèo. Mùa lạnh ở nhà rét quá chịu không nổi, mà mình không đủ tiền mua than củi để sưởi. Đành vào thơ viện từ chín giờ sáng đến mười giờ tối. Gián đoạn bằng hai lượt đi ăn. Vào thơ viện, phải im phăng phắc, thì đọc sách là việc bắt buộc.
Triết học, kinh tế học, xã hội học, tôn giáo... sách nào căn bản, cụ đều có nghiên cứu kỹ. Luận án thi tiến sĩ luật của cụ bàn về chủ nghiã Bôn-sê-vích ở Nga [Hồ Hữu Tường ghi nhầm có lẽ đây là luận văn cử nhân, còn luận án tiến sĩ của Phan Văn Trường về Luật Gia Long] đem áp dụng vừa được cuộc cách mạng. Nhưng mà trong thâm tâm, cụ chê tất cả các triết gia Tây phương, ngay cả Marx nữa:
Bọn nó vì tự cao ám thị mà chẳng chịu ngó đến văn hóa Đông phương, thành chui rút vào tháp ngà, không có một cái nhìn thống quản. Riêng có anh chàng Schopenhauer khiêm tốn, đọc sách Phật, nên tác phẩm của y đọc dễ chịu hơn". (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, trang 20).

Những điều Hồ Hữu Tường viết về Phan Văn Trường được thể hiện rõ ràng trên bản Thỉnh nguyện của dân tộc An Nam.

Tháng 6/1919, bản Thỉnh nguyện của người An Nam được đưa đến Versailles và gửi cho báo chí. Ngày 18/6/1919 L'Humanité đăng bản Thỉnh nguyện dưới tựa đề: Les droits des peuples (Quyền của các dân tộc). Điện tín từ phủ toàn quyền ở Hà nội gửi sang, cho biết bản Thỉnh nguyện cũng đã đến tay báo chí ở Việt nam. Từ đó, chính quyền thuộc địa mới chú ý đến tên Nguyễn Ái Quốc, ra lệnh theo dõi, điều tra, xem Nguyễn Ái Quốc là ai?
Đọc bản Thỉnh nguyện của người An Nam, trên báo L'Humamité, độc giả Pháp phải chú ý vì giá trị độc đáo của văn bản: Lời lẽ nhũn nhặn mà kiêu kỳ: tự xưng nước mình là Đế Quốc (L'Empire d'Annam), ngụ ý coi kẻ xâm lăng là tiểu quốc. Xin Pháp trả tự do và dân chủ cho dân mình, nhưng lại bảo họ phải làm điều đó vì bổn phận của họ đối với dân tộc họ và đối với nhân loại, nếu họ không làm thì ô nhục cho quốc thể của họ. Bút pháp Phan Văn Trường có lý lẽ của một luật sư, có kiến thức của một học giả, có sự xử dụng chữ nghiã của một văn tài. Văn bản đã được gửi về Việt nam qua nhiều ngả. Nhờ vậy, mà người Việt lấy lại niềm tự hào dân tộc. Bản Thỉnh nguyện của người An Nam trở thành bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của người Việt.

Và bọn thực dân bắt đầu lên tiếng phản bác trên báo chí. Phan Văn Trường bắt buộc phải trả lời. L'Humanité ngày 2/8/1919 đăng bài La question des indigènes en Indochine (Vấn đề người bản xứ tại Đông Dương) của Phan Văn Trường, ký tên Nguyễn Ái Quốc. Vấn đề Nguyễn Ái Quốc và nhóm An Nam Yêu nước bị/được đem ra Hạ viện bàn cãi.
Quả bom Phan Văn Trường đã ném trúng đích: lần đầu tiên một kẻ indigène dám lên tiếng ngạo nghễ đòi tự do dân chủ.

Tại sao chúng ta có thể xác định La question des indigènes en Indochine (Vấn đề dân bản xứ ở Đông dương), là do Phan Văn Trường viết?
Nhờ những chi tiết sau đây:
- Coi những yêu cầu trong bản Thỉnh nguyện tám điểm năm 1919 là của chính mình. Thuật lại lập luận của đối phương cho rằng các yêu sách của mình, đã gây chấn động trong giới thực dân. Đây là hiện tượng sự thực toát ra từ vô thức của ngòi bút: chỉ Phan Văn Trường mới viết như vậy, những người khác không thể và không dám nhận bản Thỉnh nguyện là của mình vì không do họ viết ra.
- Nhắc đến bản Thỉnh nguyện năm 1912, đòi trả tự do cho các sĩ phu bị tù Côn đảo, đăng trong Bulletin officiel de la Ligue des droits de l'homme ngày 31/10/1912. Văn bản này do Phan Văn Trường viết dùm Phan Châu Trinh. Ngoài Phan Văn Trường, không mấy ai biết và nhớ đến việc này.
- Biết đích xác việc một sĩ quan cao cấp trong quân đội được lệnh tịch thu các bản Thỉnh nguyện 1919 trong tay lính thợ Việt nam. Chỉ có Phan Văn Trường, cựu quân nhân, có đường dây trong quân đội mới dám cam đoan biết đích xác việc này.

Bài Phong trào cộng sản quốc tế Đông dương đăng trên La revue communiste, số 15, tháng 5/1921, thường được trích dẫn trong các bài viết về tư tưởng Hồ Chí Minh, và được coi là "nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh", cũng có những dấu ấn cho thấy đây là bài viết của Phan Văn Trường, căn cứ vào nội dung đề cao văn minh phương Đông một cách ngạo nghễ:
- 5000 năm trước, Hoàng Đế đã áp dụng chính sách phân phối ruộng đất.
- 2205 năm trước Công Nguyên, nhà Hạ đã đặt ra chế độ cưỡng bức lao động.
- 551 năm trước Công Nguyên: Khổng Tử đã khởi xướng thuyết Đại đồng và nguyên tắc: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Phan Văn Trường sẽ ghi câu này dưới tên báo La Cloche fêlée (từ số 52) thay thế câu Organe de propagande démocratique (Cơ quan truyền bá dân chủ) của Nguyễn An Ninh, để chứng minh rằng dân chủ phát xuất từ phương Đông.
Năm 1921, khi Phan Văn Trường viết bài báo này, chủ nghiã cộng sản mới bắt đầu phát triển ở châu Âu, và được một phần trí thức ngưỡng mộ, ông đưa ra ý kiến: nên phát triển chủ nghiã cộng sản ở Á Châu (để đuổi thực dân), nhưng vẫn ngụ ý cao kỳ: những nguyên tắc mà chủ nghiã cộng sản ở phương Tây của các anh đưa ra, phương Đông chúng tôi đã áp dụng từ bốn, năm ngàn năm nay rồi! Chúng tôi hiện đang mắc vào hiểm hoạ thực dân, hãy đợi khi nào chúng tôi đuổi được bọn thực dân, chúng tôi sẽ giúp các anh "tự giải phóng". Đó là cái ý thâm trầm sâu sắc của Phan Văn Trường trong bài Phong trào cộng sản quốc tế Đông dương.

(Xem tiếp phần 2 b : Bút pháp Nguyễn Thế Truyền và Tư tưởng Nguyễn An Ninh)


Share/Save/Bookmark

Chủ Nhật, 14 tháng 11, 2010

Phụ Lục : Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản (phần 1)

Nguồn : RFI
Thụy Khuê
Một trang nhất báo Le Paria (Người cùng khổ) của đảng Cộng sản Pháp.
Một trang nhất báo Le Paria (Người cùng khổ) của đảng Cộng sản Pháp.

Bất cứ một người có suy nghĩ nào, khi đọc cuốn Hồ Chí minh toàn tập cũng phải hồ nghi về xuất xứ các văn bản in trong tập sách nhiều nghìn trang này. Vậy sự vơ vét liều lĩnh các văn bản khác nhau của những người viết khác nhau vào một toàn tập của một tác giả mà học sinh phải học như kinh điển, là đáng ngại. Vì vậy, vấn đề tái tạo lại các tác giả ký tên Nguyễn Ái Quốc là cốt tử. Bởi nền giáo dục của chúng ta cần được xây dựng trên một nền tảng lành mạnh không ngụy tạo.


Hồ Chí Minh toàn tập, 12 cuốn (nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000), 8410 trang, gồm:

- 80 % diễn văn, công văn chính thức, do các bí thư viết, văn phong thay đổi tùy theo sách lược chính trị mỗi thời và bút pháp từng người.
- 5% chú thích.
- 15% còn lại là văn bản (gần 1000 trang). Khoảng một nửa là bút hiệu Nguyễn Ái Quốc. Nửa kia gồm những bài viết ngắn, đăng trên báo ở Việt Nam, dưới những bút hiệu C.B (tập 7 và tập 8), Trần Lực (tập 9 và 10), và Chiến Sĩ (tập 11). Theo Bùi Tín, C.B là viết tắt của hai chữ Của Bác. Loạt bài này phản ảnh một tư chất: thực tiễn, ngắn gọn, dễ hiểu, không lý thuyết, không lý luận, không khôi hài, có lẽ đó mới đích thực là văn viết của Hồ Chí Minh.

Bài Việt nam yêu cầu ca, có thể xem là bài thơ đầu tay, phản ánh lối làm thơ nôm na của ông, sau này ông còn làm nhiều bài khác, cùng phong cách: thơ chúc Tết, thơ Trung thu và thơ ngâm vịnh, in trong văn thơ Hồ Chí Minh, và in lại trong tập 3.

Khoảng 500 trang (469 trang tập 1 và và 239 trang tập 2) là dịch những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc/Quấc, trên báo Pháp từ 1919 tới 1927. Bản dịch, đôi khi chưa lột hết cá tính của nguyên bản, nhưng cũng làm lộ phẩm chất, tư tưởng, lòng ái quốc và chí khí của người viết.

Vậy có thể nói, chính bút hiệu Nguyễn Ái Quấc/Quốc đã xác định "tư tưởng Hồ Chí Minh".
Bút hiệu được viết dưới hai dạng Nguyễn Ái Quấc, trong thời gian đầu, sau này có lẽ Nguyễn Thế Truyền đổi lại là Nguyễn Ái Quốc. Chúng tôi dùng cả hai cách viết.

Bài này có hai mục đích:
- Truy nguyên lai lịch bút hiệu Nguyễn Ái Quấc.
- Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc

I. Lai lịch bút hiệu Nguyễn Ái Quấc

Muốn truy nguyên lai lịch này, chúng ta phải trở lại sự thành lập nhóm Người An Nam yêu nước.

1- Sự thành lập nhóm Người An Nam yêu nước

Xin tóm tắt một số dữ kiện chính:
Phan Văn Trường sang Pháp cuối 1908, dạy ở trường Sinh ngữ Đông phương và học Luật. 1912, ông lập hội Đồng Bào Thân Ái (La Fraternité des compatriotes).
Phan Châu Trinh và con trai Phan Châu Dật, rời Sàigòn tháng 5/1911. Đến Paris, thời gian đầu ở nhà trọ (pension de famille) sau đổi sang ở hôtel. Dật học một trường ở khu Montparnasse. Tháng 4/1913, Phan Châu Trinh ở hôtel rue de l'Abbé-de-l'Epée, Paris 5e. Tháng 10/1913, ở khách sạn rue Cujas, Paris 5e. Khoảng 1913-1916, Phan Văn Trường có appartement nhỏ ở rue Bertholet, Paris 5e; ông giữ địa chỉ này, trong thời gian nhập ngũ và bị tù.

Tháng 10/1912 Phan Châu Trinh (với sự giúp đỡ của Phan Văn Trường) gửi bản thỉnh nguyện lên hội Nhân quyền, nhờ can thiệp vào việc trả tự do cho các nhân sĩ bị bắt cùng với Phan Châu Trinh, năm 1908 trong vụ Trung Kỳ dân biến (tài liệu đăng trong Bulletin Officiel de la Ligue des droits de l'homme et du citoyen, số 20, ngày 31/10/1912). Hai người bị buộc tội chống Pháp, lần đầu. Vì hoạt động của hội Đồng bào thân ái, Phan Văn Trường bị mất việc dạy học, anh và em của ông ở Hà Nội bị bắt, bị đầy sang Nouvelle-Calédonie.

Ngày 13/3/1914, Phan Văn Trường diễn thuyết về đề tài Les revendications indigènes (Những thỉnh nguyện của người bản xứ) tại trường Cao Đẳng Xã Hội (Ecole des Hautes Études Sociales), bài nói chuyện này là nguồn cội của bản Thỉnh nguyện của Dân tộc An Nam (Revendications du Peuple Annamite, gửi Hội nghị hoà bình thế giới ở Versailles, năm 1919.

Đại chiến thứ nhất bùng nổ, tháng 7/1914 Phan Văn Trường bị gọi đi lính, đóng ở trung đoàn 102 bộ binh, tại Chartres. Giữa tháng 8/1914, appartement của ông ở rue Bertholet, Paris bị an ninh lục soát, nhiều giấy tờ và tài liệu bị tịch thu, trong đó có bài diễn văn đọc tại trường Cao đẳng xã hội. Ngày 12/9/1914, ông bị hiến binh bắt, giam vào nhà tù Chartres. Cùng thời gian này, Phan Châu Trinh bị bắt ở Paris, có lẽ tại khách sạn đường Cujas.

Ngày 13/9/1914, Phan Văn Trường bị giải lên Toà án binh Paris, bị giam vào binh ngục Cherche- Midi, Paris 6e. Phan Châu Trinh bị giam vào ngục Santé, Paris 13e. Tội danh: Xúi giục sinh viên du học căm thù chính phủ Pháp, tụ tập thành hội, gieo mầm nổi loạn. Cả hai bị giam đến tháng 7/1915 mới được thả. Trong thời gian này Thiếu Tá Roux hết sức bênh vực cho Phan Châu Trinh và luật sư Marius Moutet, cho Phan Văn Trường, được tại ngoại. Hội Đồng Bào Thân Ái phải giải tán.

Ra tù, Phan Châu Trinh bị cắt trợ cấp, phải học nghề rửa ảnh, sống ở Paris và Pons (vùng Charente-Maritine, gần Đại Tây Dương). Phan Văn Trường được chuyển xuống Arsenal de Toulouse (Công binh xưởng Toulouse) làm việc văn phòng và thông ngôn cho lính và thợ Việt. (Trong thế chiến có khoảng 80.000 người Việt sang Pháp làm lính thợ).

Từ 1916 đến 1920, Nguyễn Thế Truyền học kỹ sư ở Toulouse. Rất có thể Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền đã bí mật lập hội Người An Nam yêu nước trong thời gian này. 1918, Nguyễn An Ninh sang Pháp học luật tại Sorbonne. Trong khoảng tháng 5 hay tháng 6/1919, Nguyễn Tất Thành từ Luân Đôn qua Paris.

2- Hoạt động của Phan Văn Trường tại Công binh xưởng Toulouse

Ra tù, Phan Văn Trường tiếp tục là phần tử "nguy hiểm", luôn luôn bị theo dõi. Mật thám dò hỏi người concierge (giữ nhà) về mọi hoạt động, giao du của ông. Trong thời gian ở Toulouse, ông đổi nhà 2 lần, đều ở Rue du Taur. Tháng 9/1917, nhân việc ông dịch đơn xin hồi hương cho một người thợ, bộ thuộc địa mở cuộc điều tra. Viên sĩ quan phụ trách tìm cách ép những người lính thợ phải khai rằng chính Phan Văn Trường đã "chủ mưu xúi giục" họ viết đơn xin giải ngũ.

Thực ra, Phan đã dựa trên sự kiện: chính quyền thuộc địa dán áp-phích quảng cáo khắp nơi rằng đi chỉ một năm rồi về, để khuyến dụ mọi người "tình nguyện" đi lính. Nhưng lần này Phan Văn Trường không bị bắt, một phần vì Thiếu tá chỉ huy trưởng Malacamp có thiện cảm, và nhất là nhờ những người lính thợ, không những không khai mà còn nói chính ông ấy đã ngăn cản chúng tôi nộp đơn xin giải ngũ! [Une histoire de conspirateurs annamites à Paris (Chuyện những người An Nam âm mưu tại Paris), hồi ký của Phan Văn Trường, L'insomniaque, 2003, trang 170-171].

Sự kiện này cho thấy tinh thần tương trợ của đồng bào và nói lên bộ mặt chìm của ăng- kết: Bộ thuộc địa nghi ngờ hoạt động bí mật của nhóm Phan Văn Trường tại Công binh xưởng Toulouse, nên họ muốn diệt trừ.
Vậy hoạt động của Phan Văn Trường tại đây là gì?

Một mật báo, không ghi rõ ngày, viết : "Hội những người An Nam yêu nước đã được thành lập từ nhiều năm nay do hai nhà cách mạng chống Pháp là Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh. Đó là một nhóm hoạt động rất tích cực. Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực. Từ hồi hai người trên, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt vì tội chống an ninh quốc gia. Vào năm 1915, tuy Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường vẫn giữ vai trò lãnh đạo hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã là do chính Nguyễn Ái Quốc." (Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Đông Nam Á, Paris, 1983, trang 44)

Trong mật báo này có 2 câu đáng chú ý :
- Câu "Vào năm 1915, tuy Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường vẫn giữ vai trò lãnh đạo hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã là do chính Nguyễn Ái Quốc." Câu này có chỗ sai, vì năm 1915 Nguyễn Tất Thành chưa sang Paris, và chưa chắc đã có tên Nguyễn Ái Quấc trên báo. Nhưng cũng có thể đúng, nếu thám tử coi Nguyễn Ái Quấc là Nguyễn Thế Truyền hay một người nào khác.
- Câu: "Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực". Câu này, nếu đúng, nó xác định hoạt động và mối liên lạc giữa Phan Văn Trường với binh lính, sĩ quan Việt, từ tháng 7/1915 đến tháng 5/1919, tại Toulouse. Trụ sở hội ở đâu, không thấy nói rõ, có thể là nhà Phan Văn Trường, phố Taur, hoặc một nơi khác.

Họ gặp nhau để làm gì?
Phan Văn Trường trong hồi ký chỉ viết về việc ông bị theo dõi, bị nghi "oan" vì đã dịch thư xin hồi hương cho một đồng bào, mà không hở chút gì về hoạt động của ông. Lý do dễ hiểu: hồi ký Phan Văn Trường đăng từng kỳ trên báo La Cloche Fêlée, từ 30/11/1925 đến 15/3/1926, chủ đích "vạch trần chính sách thực dân" nên không phải việc gì cũng "công bố" được.

Về tội xúi giục binh lính Việt xin hồi hương, chắc không oan, có thể Phan Văn Trường đã vận động một phong trào phản chiến trong lòng những sĩ quan và binh lính Việt. Việc họ đòi hồi hương, theo đúng hạn kỳ một năm mà chính phủ Pháp đã hứa hẹn, là đúng luật. Việc này Phan còn làm lại lần thứ nhì, trên báo L'Annam ở Sàigòn năm 1926, kêu gọi lính Việt ở Trung Hoa, ngừng chiến đấu cho Pháp, và lần thứ hai này ông bị bắt, bị kết án cùng với một số tội trạng khác, phải sang Pháp tự biện hộ, nhưng vẫn bị tù (1929).

Một mặt khác, khi đọc toàn bộ những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc và hai tác phẩm Bản Án chế độ thực dânĐông Dương (1923-1924), chúng ta có thể hiểu được hoạt động của nhóm Yêu nước tại Toulouse: Nội dung tố cáo tội ác thực dân một cách xác thực, toàn diện và ghê gớm, chứa đựng trong toàn bộ các văn bản ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc này, cho chúng thấy đây là một công trình dài hơi đã được thu thập tài liệu một cách quy mô trong một thời gian dài, trước khi các tác giả chấp bút. Vì vậy thời gian Phan Văn Trường ở Toulouse có thể là thời gian hình thành cuộc cách mạng bằng ngòi bút trên báo chí từ 1919 trở về sau.

Từ 1915 đến 1819, tại Toulouse, nhóm Yêu Nước đã tập hợp tài liệu và nhân chứng để chuẩn bị cho cuộc tranh đấu công khai bằng ngòi bút:

1- Hàng ngày tiếp xúc với lính thợ và sĩ quan Việt, Phan Văn Trường đã thu thập những nhân chứng quan trọng về chính sách dã man của thực dân. Đó là kho lưu trữ lớn nhất, gồm những thông tin từ hai phía: phía chính quyền, qua hồ sơ quân đội Pháp mà Phan có thể tiếp cận được và phía nạn nhân, qua những điều mà người lính thợ Việt nam kể lại với ông.
2- Phan Châu Trinh có những thông tin từ những người Việt sang Pháp, đem lại.
3- 1918, Nguyễn An Ninh từ Sàigòn sang (trước khi đi Pháp, Ninh đã ra Hà Nội học hai năm). Ông biết rõ tình hình cả Bắc lẫn Nam. Sau này, ông còn về nước nhiều lần.
4- Nguyễn Thế Truyền sau khi học xong ở Toulouse, cũng về Bắc một năm, từ tháng 8/1920 đến tháng 8/1921, trong thời gian này, ông quan sát và đã thấy hiệu lực của phong trào: tên Nguyễn Ái Quấc được người Việt trong nước thần thánh hoá (ông kể lại trong bài "Một người Bôn-Sê-Víc da vàng"). Khi trở lại Paris, Nguyễn Thế Truyền mở rộng địa bàn tranh đấu trên tờ le Paria của hội Liên hiệp thuộc địa, cùng các nhà văn, nhà báo Châu Phi, Madagascar. Tại trụ sở báo Le Paria, Nguyễn Thế Truyền thu thập thêm thông tin các nơi, qua nhân chứng của bạn đọc ở các thuộc địa gửi về toàn soạn.

Tất cả những dữ kiện đó, tạo ra một ngân hàng thông tin, mà các tác giả sử dụng để viết những bài báo, đúng ra là những bản cáo trạng, phơi bày sự thật về chính sách thực dân tại Đông Dương, dưới một bút danh bí mật Nguyễn Ố Pháp, rồi Nguyễn Ái Quấc.

Khi viết về thời kỳ lịch sử này, phần lớn, nếu không muốn nói là hầu hết các nhà nghiên cứu Pháp-Việt đều coi Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc là ba nhân vật chính. Điều đó không sai. Nhưng sự sai lầm đến từ sự kiện Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc, tác giả các bài báo. Sở dĩ có sự sai lầm này, vì ba nguyên do sau đây:

1- Hồ Chí Minh tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và chế tạo các bằng chứng để biện minh điều đó.
2- Sau khi thua trận, người Pháp có mặc cảm tự ti đối với Hồ Chí Minh, mặc cảm này dường như đã thấm vào vô thức của nhiều người, kể cả các nhà nghiên cứu. Vì vậy, dù họ có đặt ra một số nghi vấn về tác giả Nguyễn Ái Quốc (cũng như trường hợp Thu Trang-Gaspard trong cuốn Hồ Chí Minh à Paris), nhưng rồi vẫn mặc nhiên kết luận Nguyễn Ái Quốc là Hồ Chí Minh. Hiện tượng này chứng tỏ có một khuynh hướng cho rằng ai viết thì cũng thế thôi, nhưng nếu lãnh tụ vĩ đại viết thì mới đáng kể. Nhưng đối với người Việt, dưới vấn đề văn bản, còn cả một sự ngụy trang lịch sử không thể bỏ qua.
3- Sự nhầm lẫn của các nhà nghiên cứu, còn đến từ một sự kiện khác: việc sử dụng những báo cáo sai lầm của mật thám. Sự kiện này cần phải nói rõ.

3- Sự nhầm lẫn của mật thám

Chính quyền thuộc địa dùng nhiều mật thám người Việt, để dễ len lỏi vào môi trường Việt kiều. Những người có bí danh như Jean (theo dõi Nguyễn Tất Thành) hay Désiré (theo dõi Nguyễn Thế Truyền) đều là người Việt. Trong số mật thám có cả các quan: Đốc Phủ Bảy là một trường hợp. Mật thám Nguyễn Như Chuyên là "sinh viên", gần gụi Phan Châu Trinh, thông dịch cho ông, thư từ trao đổi "tâm huyết" trong nhiều năm, được ông coi như đồ đệ. Chuyên cũng mon men đến với Phan Văn Trường. Ông Trường là người cực kỳ thận trọng, đã cảnh cáo nhưng ông Trinh không nghe. Trong hồi ký, ông Trường trách ông Trinh "khinh xuất" là như thế. Chính Nguyễn Như Chuyên đã mạo khai để Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt về tội "phiến loạn", bị đi tù 11 tháng (1914-1915).

Pháp dùng mật thám theo dõi các thân chủ của Phan Văn Trường, dọa họ, nếu cứ tiếp tục mượn Phan Văn Trường (một kẻ phiến loạn, chống nhà nước Pháp) biện hộ, thì có ngày sẽ mang họa. Phan Văn Trường nêu những vụ việc này trên bức thư ngỏ gửi Bộ Trưởng Nội Vụ và Thuộc Điạ, đăng trên báo Le Paria.

Tuy vậy, mật thám vẫn có thể đưa những thông tin sai lầm.

Cuốn Cochinchine (Nam Kỳ) (Rieder, 1926, Viviane Hamy, 1997) của nhà văn Léon Werth là một tác phẩm văn học giá trị, nói lên sự khâm phục kín đáo của tác giả đối với Nguyễn An Ninh và mô tả tỷ mỷ đời sống hàng ngày ở Nam kỳ dưới sự áp bức của bọn thực dân vô giáo dục lên một dân tộc có truyền thống văn hóa lâu đời nhưng cam chịu. Léon Werth kể lại một giai thoại: hai mật thám người Việt có nhiệm vụ theo dõi Nguyễn An Ninh ở Sàigòn, nhưng thay vì theo Ninh, họ lại theo Dejean de la Bâtie (Chủ nhiệm báo La cloche fêlée, người Pháp lai, bạn của Nguyễn An Ninh). Khi Werth và Ninh rời Sàigòn đi Lục tỉnh, họ vẫn tiếp tục theo dõi La Bâtie và làm báo cáo hàng ngày. Đến lúc cơ quan an ninh ở Rạch Giá đánh điện lên, Sàigòn mới biết là nhầm, hình như hai người này bị đuổi! (Cochinchine, trang 156)

Vấn đề theo dõi Nguyễn Ái Quốc, còn phức tạp hơn nhiều. Vì những lý do:

1- Người Pháp (và người Tây phương nói chung) thường gọi Họ thay Tên. Vì vậy, đối với người Pháp, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Ái Quấc, đều có thể là M. Nguyễn.

2- Thời gian đầu, mật thám chưa phân biệt được 3 người họ Nguyễn: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành. Vì vậy, có một số mật báo hoàn toàn trái ngược nhau, ví dụ tả Nguyễn Ái Quốc là người miền Nam (Nguyễn An Ninh), học ở Pháp từ nhỏ (Nguyễn Thế Truyền), có người nhầm Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Như Chuyên (kẻ theo dõi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường)... Đến khi chụp được ảnh Nguyễn Tất Thành, đưa cho những người đã đi theo những Nguyễn khác, xem, thấy không phải. Lúc đó mới vỡ lẽ.

3- Chính bộ ba Truyền, Ninh, Thành cũng tung hoả mù: Truyền và Ninh cố tình giao các văn bản họ viết cho Thành đem khoe với mật thám rằng mình vừa viết xong. Vì thế, từ cuối năm 1919, đã có những bản báo cáo ghi rõ: Nguyễn Ái Quốc vừa viết xong cuốn sách này, cuốn sách kia...

Việc vở kịch Le dragon de bambou (Rồng tre), là một ví dụ, có thể Truyền (hay Ninh) viết, rồi đưa Thành đem đến cho Léo Poldès, người điều khiển các buổi tranh luận ở Câu lạc bộ Ngoại ô (Club du Faubourg), nơi mà Nguyễn Tất Thành, từ khi ở Compoint, hay đến để tập nói tiếng Pháp giữa công chúng. Léo Poldès đọc thích quá, ông nhận xét về vở kịch như sau: "Hoàn chỉnh, hóm hỉnh, đối thoại hài hước quất vun vút như roi, sống động như lối khôi hài của Aristophane (Kịch tác gia danh tiếng của Hy Lạp)" Và ông giúp việc dựng vở kịch (được trình diễn một lần ở hội L'Humanité năm 1922).

4- Trong số những mật báo, có một bản viết ngày 28/11/1919, mô tả khá đúng Nguyễn Tất Thành như sau:
"Chúng tôi thấy ở Paris có một người An Nam hình như gốc Bắc, tự nhận là Nguyễn Ái Quốc. Hắn giấu kỹ danh tánh thật. Chính hắn đã ký những bản truyền đơn đòi tự trị ở Đông Dương. Hắn ở số 6, villa des Gobelins, nhà luật sư Phan Văn Trường, hắn chuyên về vấn đề chính trị và cả ngày ở thư viện Quốc gia, phố Richelieu, thư viện Sainte-Geneviève, Place du Panthéon, ở văn phòng Hội Nhân Quyền, phố L'Université, hoặc nậm nọa với bọn khả nghi cùng chủng loại.
Hắn thư từ với Phan Châu Trinh ở Pons, Phan Văn Trường và Khánh Ký hiện đang ở Mayence. Tình báo cho biết tại nhà số 6 Villa des Gobelins bọn An Nam có khi tụ họp tới 1 giờ sáng, cãi nhau ỏm tỏi đến nỗi láng giềng phải than phiền. (...) Các thám tử của ta theo dõi rất sát tên được gọi là Nguyễn Ái Quốc, một người đã kết thân được với hắn, sớm muộn gì rồi hắn cũng sẽ thổ lộ cho biết danh tánh thật". (Thu Trang- Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 82-83).

Theo Phan Văn Trường, nhà ông lúc nào cũng có vài người canh gác bên kia đường (Villa des Gobelins là một ngõ cụt nhỏ, immeuble khang trang). Vậy "tìm thấy" Tất Thành ở số 6 Villa des Gobelins là đương nhiên, Thành nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, cũng đương nhiên. Ninh, Truyền chắc chỉ đến họp, như những người khác. Sự tranh luận sôi nổi có thể là về đề tài những bài báo sẽ viết. Thời điểm ấy, nhiều người đến thư viện, vì không có tiền mua than củi để sưởi ở nhà, rất dễ nhầm người này với người kia.

5- Một năm sau, ngày 12/10/1920, Tổng Thanh Tra Pierre Guesde viết bài tổng kết gửi lên Bộ trưởng, tình hình vẫn còn hết sức lộn xộn:

"Paris ngày 12 tháng 10 năm 1920
Thưa ông Bộ trưởng,
(...) Trước hết, Nguyễn Ái Quốc, giấu danh tánh thật của y. Y không muốn bị lộ tung tích; y đã đổi tên nhiều lần khi di chuyển từ nơi này đến nơi khác, cái tên Nguyễn Ái Quốc hiện nay chỉ đánh lừa được kẻ không biết tiếng An nam; Nguyễn Ái Quốc có nghiã đơn thuần là "Nguyễn yêu nước".
Tất cả mọi cố gắng đều dồn vào việc điều tra hộ tịch của Quốc. Những người chỉ điểm An Nam và các thanh tra an ninh đều bắt tay vào việc và trao đổi thường xuyên với Đông Dương.
Những thông tin do Cảnh Sát Cuộc (Préfecture de Police) cung cấp chẳng có gì chính xác (...) Trong buổi nói chuyện với ông Thanh Tra Cảnh Sát Trưởng, tôi đã thông báo là ông Toàn quyền Đông dương rất có lý khi nhấn mạnh đến việc cần xác định danh tánh Quốc. Tôi còn nói thêm: "Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là người An Nam. Có thật thế không? Ai chứng tỏ điều đó? Y nói rằng y không có giấy tờ nào do nhà cầm quyền Đông Dương cung cấp. Y xen vào chính trị, trà trộn vào những nhóm chính trị, phát biểu trong những buổi hội họp cách mạng, và chúng ta không biết rõ đối thủ là ai! (...)"

Sau buổi tôi nói chuyện cùng ông Thanh Tra, Nguyễn Ái Quốc bị gọi đến Cảnh Sát Cuộc. Người ta đã chụp hình và hỏi cung y. Việc này xẩy ra ngày 20 tháng 9 [1920]. Những câu trả lời của Quốc được lưu trữ trong biên bản đính kèm. Y vẫn khăng khăng nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Chúng ta chắc chắn đó là lời mạo nhận.
Trong tình trạng hiện nay của ăng-kết, với những thông tin tiếp được từ Đông Dương, tôi nghĩ có thể xác định rằng Nguyễn Ái Quốc chẳng qua là tên Nguyễn Tất Thành, kẻ đã ở An Nam năm 1908, trong khi xẩy ra bạo loạn, và đã ở Anh trước khi đến Pháp. Mà Nguyễn Tất Thành được coi là kẻ phiến động nguy hiểm.
Ngay từ ngày 25/7/1919, qua điện tín số 1791, chính phủ Đông Dương đã thông báo rằng một bản thỉnh nguyện có ẩn ý, gửi từ Paris, hôm 18/6, cho nhiều tờ báo ở Thuộc địa, dưới cái tựa "Những thỉnh nguyện của dân tộc An nam". Bản thỉnh nguyện này, trước tên ký, có ghi: Thay mặt nhóm người An Nam yêu nước: Nguyễn Ái Quốc" (...)

Nguyễn Ái Quốc đã liên kết với nhiều phần tử cách mạng ở Pháp và ở ngoại quốc. Y giao thiệp cùng lúc với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ ở Pháp và những kẻ cách mạng Trung hoa, Triều tiên, Nga, Ái nhĩ lan, v.v... Y phát biểu trong những buổi diễn thuyết của đảng Xã hội, đáng chú ý là hôm 1 tháng 5 vừa qua [1/5/1920] và trong những cuộc đình công khác nhau. Y vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương. Chúng tôi đã có được bản cóp-pi những đoạn chính của cuốn sách này. Tài liệu đính kèm.

Những bài báo phát xuất từ Nguyễn Ái Quốc và đồng bọn được đón nhận khá tốt trong một loại báo (đặc biệt báo L'Humanité). Chúng ta thấy những bài ký tên y trong những báo khác nhau, đặc biệt trong tờ L'Humanité ngày 2/8/1919, và trong tờ Le Populaire ngày 4 và 14/10/1919. Y ở số 6, villa des Gobelins, Paris, trong một nhà lầu (immeuble) do Phan Văn Trường thuê (Phan Văn Trường là một trong những tay phiến động nguy hiểm nhất hiện đang ở Đức cùng với Khánh Ký và François Albert, tất cả đều là bạn Nguyễn Ái Quốc cũng như Phan Châu Trinh thường trực ở nhà Nguyễn Ái Quốc và hiện đang ở đây luôn). Kèm đây là lá thư của Nguyễn Ái Quốc gửi cho M. Outrey, từ Biarritz, ngày 16/10/1919, cho thấy ý kiến của Nguyễn Ái Quốc về chính phủ ta như thế nào. Nhóm cách mệnh bao gồm những phần tử chính người An Nam mà tên vừa kể trên đây, tuyên bố rằng muốn ở lại Âu Châu để gặp dịp, sẽ hoàn toàn tự do vạch ra, những sai lầm của nhà cầm quyền Pháp và phụng sự lợi ích An Nam ngõ hầu đạt được càng sớm càng tốt: Sự tự chủ của Đông Dương (...) Ta có thể xác định rằng Phan Văn Trường là kẻ thông minh nhất và quỷ quyệt nhất trong nhóm. Nguyễn Ái Quốc là thư ký và là người cho Phan Văn Trường mượn tên"(...) (Carton 87, S. III, Thu Trang - Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 107-108)

Trong bản tường trình này, ông Tổng thanh tra bị rối loạn thông tin vì những báo cáo sai lầm:
- Người mà thám tử thấy viết sách, giao thiệp với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ và diễn thuyết liên miên, năm 1920, là Nguyễn An Ninh. Nguyễn Tất Thành mới học tiếng Pháp, là sao diễn thuyết được? Nhất là câu: "Y vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương" thì đúng là Nguyễn An Ninh, và chắc là cuốn La France en Indochine.
- Lá thư gửi từ Biarritz cho M. Outrey cũng là Nguyễn An Ninh (sẽ phân tích sau).
- Xét về cách viết tiếng Pháp, ông thanh tra thấy Nguyễn Ái Quốc là người... Pháp.
- Người ở nhà Phan Văn Trường đúng là Nguyễn Tất Thành. Có thể lúc đó Nguyễn An Ninh cũng ở nhà Phan Văn Trường (chúng tôi không tìm được thông tin gì về chỗ ở của Nguyễn An Ninh tại Paris).
- Thám tử bị rơi vào bẫy của nhóm Ngũ Long: ba người viết, một người khác nhận là tác giả.

Nhưng viên Tổng Thanh tra Pierre Guesde cũng rất tinh tường:
- Một mực không tin Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Tất Thành.
- Đọc văn, ông đoán đây là người Pháp viết tiếng Pháp. Đặc biệt ông chú ý đến những bài quan trọng: Bài La question des indigènes en Indochine (Vấn đề dân bản xứ ở Đông dương) do Phan Văn Trường viết. Bài L'Indochine et la Corée; une intéressante comparaison (Đông dương và Triều tiên, một sự so sánh lý thú) và bài Lettre à Monsieur Outrey (Thư gửi ông Outrey), do Nguyễn An Ninh viết.
- Ông xác định Phan Văn Trường là người nguy hiểm nhất.

Tóm lại, tới tháng 10/năm 1920, Pierre Guesde vẫn cho Nguyễn Ái Quốc là tên giả của Phan Văn Trường. Và khi Nguyễn Tất Thành đã đi Nga, Tổng Thanh Tra Pierre Guesde vẫn tiếp tục xác định Nguyễn Ái Quốc không phải là Nguyễn Tất Thành, nhưng ông không tìm ra Nguyễn Ái Quốc là ai.

4- Nguyễn Tất Thành trở thành Nguyễn Ái Quấc và xin vào hội Tam Điểm, tại sao?

Khi Nguyễn Tất Thành đến Paris khoảng tháng 6/1919, hội nghị Hoà bình đã họp từ tháng 1/1919. Hội nghị Hoà Bình, khai trương ngày 18/1/1919, mục đích xây dựng lại những quốc gia Âu Châu mới sau thế chiến. Nhóm An Nam yêu nước muốn lợi dụng tình hình quốc tế thuận lợi, để xác định sự hiện diện của Việt nam, đất nước đã mất chủ quyền và có thể họ cũng đã thảo luận với đại biểu các nước khác trong hậu trường của Hội nghị, trước khi tung ra bản Thỉnh Nguyện.

Bản Thỉnh nguyện hoàn tất. Tại sao Phan Văn Trường lại giao cho Nguyễn Tất Thành đem đến Versailles, mà không giao cho một người khác? Lý do đơn giản: Nguyễn Tất Thành là khuôn mặt "mới toanh", vừa chân ướt chân ráo đến Paris, chưa bị mật thám bao vây, dễ vào hội nghị. Lần xuất hiện đầu tiên này, không ai biết Nguyễn Tất Thành là ai.

Nguyễn Tất Thành, xa nước quá lâu, sống vất vả ở trên tàu, rồi biệt lập ở Luân Đôn, mới sang Pháp, không có đủ điều kiện thông tin về tình hình trong nước, lại không đủ kiến thức và Pháp văn, nên chỉ có thể giữ vai trò khiêm tốn: học Pháp văn, giữ sổ sách, tập viết mấy dòng tin tức, in và phát truyền đơn. Nhưng vì muốn trở thành chính khách, Nguyễn Tất Thành nhận tên Nguyễn Ái Quấc. Việc đưa bản Thỉnh nguyện đến Versailles là chặng đầu.

Xin vào hội Tam Điểm, là chặng thứ nhì. Việc này chắc chắn do sự sắp đặt của Phan Văn Trường (có lẽ Phan Văn Trường cũng có chân trong Hội Tam Điểm), vì Nguyễn Tất Thành mới tới Paris, không thể biết rõ về hội Tam Điểm.
- "Tháng 8/1919, Quốc đệ đơn xin vào nhóm Ernest Renan trong hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie), 16 Rue Cadet, nhưng không được." (Brocheux, Ho Chi Minh, trang 110)
- Ngày 14/6/1922, Nguyễn Ái Quốc được kết nạp vào hội Tam Điểm. (Thu Trang, Phan Châu Trinh, trang 193).
Tháng 8/1919, người ta chưa biết Nguyễn Tất Thành là ai. Tam Điểm từ chối.
Tháng 6/1922, (ba năm sau) Tất Thành đã thành danh Nguyễn Ái Quốc. Tam Điểm mời vào.

Nhưng chỉ được vài tháng, Nguyễn Ái Quốc bỏ Hội Tam Điểm, vì sao?
Tam điểm là một hội kín, có truyền thống lâu đời trên thế giới, dựa trên nguyên tắc cao quý "Thân ái (Fraternité) giữa người và người". Nhưng trên thực tế, hội quy tụ những phần tử ưu tú của xã hội, có thể nắm vận mệnh các dân tộc. Người làm chính trị vào hội Tam điểm để được bảo vệ khi gặp bất trắc.
Có thể Phan Văn Trường môi giới cho Thành vào hội khi mới tới Paris, vì ông tin tưởng ở tương lai người thanh niên nhiệt tình này, và muốn có một thế lực hậu thuẫn Tất Thành. Nhưng khi Nguyễn Ái Quốc được vào hội rồi, có thể vì không chịu nổi không khí trí thức trưởng giả và bị áp lực của đảng cộng sản, nên ít lâu sau, bỏ hội Tam Điểm.

Việc Tất Thành có giấy mời đi dự hội nghị Tours của đảng Xã hội Pháp, cuối năm 1920, chắc cũng do Phan Văn Trường xếp đặt, vì lúc đó Nguyễn Thế Truyền đang ở Việt nam.
Giới chính khách và trí thức Pháp không dễ thâm nhập, phải là bạn ngồi cùng ghế đại học với họ, hoặc có danh, hoặc có tài. Họ có thể tranh đấu cho cần lao, nhưng họ không làm bạn với những người cần lao, ít học. Một nghịch lý nhưng là sự thật. Vừa đến Paris, làm thợ rửa ảnh, tiếng Pháp mới học, làm sao Nguyễn Tất Thành có thể gặp người này, người kia, trong chính giới của Pháp, nếu không được một trí thức (như Phan Văn Trường) giới thiệu, và được "biết đến" qua các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc? Nhờ những yếu tố này, Tất Thành mới có thể được chấp nhận trong môi trường chính trị cánh tả của Pháp.

(Xin xem tiếp phần thứ hai : Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quấc/Quốc)


Share/Save/Bookmark
Related Posts with Thumbnails