Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2010

Chủ nghĩa “mình-thì-khác”

Nguồn : Tiền Vệ
Nguyễn Hưng Quốc

Theo dõi sinh hoạt sách báo Việt Nam trong khoảng hơn mười năm trở lại đây, chúng ta dễ thấy một hiện tượng nổi bật: sự lên ngôi của văn hoá. Số lượng sách báo viết về đề tài văn hoá nhiều vô cùng. Hay có, dở có. Đầy trên các kệ. Ngoài ra, Văn Hoá Học còn trở thành một ngành học chính ở đại học.[1] Các trung tâm nghiên cứu quốc học ra đời ào ạt.

Thật ra, ở Tây phương, trong suốt mấy thập niên vừa qua, văn hoá cũng là một trong những mối quan tâm chính nếu không phải của mọi người thì ít nhất cũng của giới trí thức. Trong thế giới tiếng Anh, người ta nói đến đủ loại văn hoá: văn hoá toàn cầu, văn hoá chính trị, văn hoá doanh nghiệp, văn hoá thể thao, văn hoá thanh niên, văn hoá McDonald, thậm chí, có cả văn hoá nhà tù, văn hoá bạo động... nữa. Ngành Văn Hoá Học (Cultural Studies), vốn xuất hiện từ những năm 1960, đã phát triển rất mạnh từ thập niên 80, với ảnh hưởng của Michel Foucault, và sau đó, của các lý thuyết gia hậu hiện đại, không những lấn át mà còn có khuynh hướng bao trùm phần lớn những môn học nhân văn truyền thống như văn học, triết học, xã hội học và nhân chủng học.

Tuy nhiên, theo tôi, sự tương đồng giữa hai hiện tượng vừa nêu chỉ là một sự trùng hợp tình cờ mà thôi. Mối quan tâm đến văn hoá ở Tây phương chủ yếu là kết quả của một quá trình nhận thức và đuổi bắt các ký hiệu: từ chỗ xem ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, người ta đi đến phát hiện xem văn hoá cũng là một hệ thống ký hiệu, hơn nữa, còn là một hệ thống ký hiệu căn bản, chi phối cách nhìn, cách nghĩ và cách cảm của mọi người, yếu tố quyết định sự hình thành của con người với tư cách là những thành viên trong xã hội. Ở Việt Nam thì khác. Mối quan tâm đến văn hoá ở Việt Nam chủ yếu là một phản ứng chính trị. Tôi muốn xem đó là một biểu hiện của tâm lý hậu cộng sản.




Share/Save/Bookmark

Thứ Hai, 25 tháng 1, 2010

Nhân Văn Giai Phẩm phần XI : Trần Dần

Nguồn : RFI
Thụy Khuê
Trần Dần từ "Giai Phẩm" (1956) đến "Thơ" (1987)

Trần Dần từ "Giai Phẩm" (1956) đến "Thơ" (1987)

Về Nhân Văn Giai Phẩm, có những sự việc đã bị chôn sống. Có những sự thực đã bị bóp méo đến độ dị dạng. Người ta đã quen sống với những quái thai dị đạng đó: những xuyên tạc, bôi nhọ được học tập, đề cao. Ngờ đâu, những con chữ trong hòm lại có ngày đứng dậy, thuật lại truyện mình. Nhật ký Trần Dần ghi là những dòng chữ của người dưới mộ gửi về để lấp những trang trắng của một thời kỳ văn học sử đã bị xoá sổ.

Trong 40 năm sau Nhân Văn, Trần Dần đã chỉ thấy những hòm bản thảo của mình: 2/3 bị tiêu tán, mục nát, 1/3 còn lại bị kết án chung thân trong trạng thái nằm. Vậy mà vẫn viết. Viết đều. Bởi ông cho rằng viết hay ghi là phương pháp duy nhất nói chuyện với mình khi không thể nói được với ai. Từ 1958, "ghi trở nên một hình phạt", người thanh niên 32 tuổi ấy đã bị "đòn ngấm quá cuống tim rồi". Tác phẩm chịu chung số phận với người: gần 30 tập thơ, 3 cuốn tiểu thuyết, và không biết bao nhiêu bản thảo đã bị mối mọt.

Chúng tôi tổng hợp một số tài liệu khác nhau để dựng lại một tiểu sử, một con người, được nhìn từ nhiều phía, rút từ chính văn bản của Trần Dần và những thông tin thu lượm chủ yếu trong các tài liệu sau đây: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm (Nhân Văn số 1, 20/9/1956); Sự thực về con người Trần Dần của Vũ Tú Nam (Văn Nghệ Quân Đội số 4, tháng 4/1958); Vạch thêm những hoạt động đen tối của một số cầm đầu trong nhóm phá hoại Nhân Văn Giai Phẩm của Từ Bích Hoàng (VNQĐ, số 5, tháng 5/1958); Con đường đi của Phùng Quán, con đường sai lầm điển hình của một người viết văn trẻ của Nguyên Ngọc (VNQĐ, số 4, tháng 4/1958); Nhật ký Trần Dần ghi (Phạm Thị Hoài, biên soạn, nxb Văn nghệ, Cali 2001); Những ngày thử thách, trích hồi ký của Vũ Tú Nam (chép lại 25/10/2006, tạp chí Nhà Văn số 3/2007, in lại trên Talawas.)




Share/Save/Bookmark

Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2010

Một đất nước khốn cùng! (Lữ Giang)

Nguồn : e-ThongLuan

Photobucket - Video and Image Hosting

Một đất nước khốn cùng!
Lữ Giang

“… cũng như bao lần trước đây tại nước này, vào đúng lúc tình hình có vẻ đang tiến triển tốt hơn thì một thảm hoạ mới lại giáng xuống …”

Nhân vụ động đất xẩy ra ở Haiti hôm 12.1.2010 gây ra thảm hoạ lớn cho đất nước này, bình luận gia Nick Caistor có viết một bài dưới nhan đề “Haiti's history of misery” (Lịch sử khốn khổ của Haiti) được đài BBC phổ biến hôm 14.1.2010.

Nick Castor là một nhà nghiên cứu về lịch sử và những vấn đề của Mỹ Châu Latin, do đó ông có nhiều nhận định khá sâu sắc về Haiti. Mở đầu bài nói trên, ông viết:

“Haiti có vẻ là nơi phải hứng chịu quá nhiều hậu quả của các đợt hỗn loạn, nghèo khổ và thiên tai. Và cũng như bao lần trước đây tại nước này, vào đúng lúc tình hình có vẻ đang tiến triển tốt hơn thì một thảm hoạ mới lại giáng xuống”.

Trước khi trở lại những nhận định của Nick Castor, chúng ta thử nhìn qua đât nước và con nguời của Haiti.

Sống bằng bánh đất

Trong bài “Rising food costs force haiti’s poor to resort to eating dirt” (Gia tăng giá thực phẩm bắt buộc người nghèo ở Haiti phải ăn đất) phổ biến ngày 29.1.2008, ký giả Jonathan M. Katz của hãng thông tấn AP cho biết trong giờ ăn trưa ở một trong những khu ổ chuột tồi tàn nhất Haiti, Charlene Dumas đang ngồi gặm những mẩu bánh đất. Với giá thực phẩm gia tăng, những người nghèo nhất ở Haiti không đủ tiền mua gạo ăn hằng ngày, một số phải dùng những biện pháp khác để lấp đầy dạ dày của họ.

Một nơi làm bábh đất


Bà mẹ 16 tuổi Charlene cùng với đứa con trai mới 1 tháng tuổi đã phải sử dụng biện pháp chữa đói của cha ông để lại: ăn bánh làm từ đất sét khô lấy từ vùng cao nguyên miền trung của Haiti. Đó là thứ đất sét (mud) từ lâu được phụ nữ có thai và trẻ em coi trọng bởi theo họ chúng chống axít và có nhiều calcium!

Nhưng ở những nơi như Cité Soleil chẳng hạn, một khu ổ chuột bên bờ biển mà Charlene đang sống cùng đứa con nhỏ của mình, 5 đứa trẻ khác, và hai cha mẹ đều thất nghiệp, bánh được làm bằng đất bình thường (dirt), muối, và dầu thực vật đã trở thành bữa ăn hàng ngày của họ.

Charlene nói: “Khi mẹ tôi không nấu gì cả, tôi phải ăn chúng ba bữa một ngày”. Woodson, con trai của cô, nằm im trên tay cô, trông thậm chí còn nhỏ hơn cả lúc cậu bé mới ra chào đời.

Mặc dù thích vị béo cũng như vị mặn của chiếc bánh đất, nhưng Charlene cho biết những chiếc bánh đó làm cô thấy đau dạ dày. Cô nói: “Khi tôi cho con bú, thằng bé dường như thỉnh thoảng cũng bị đau bụng vậy”.

Những người đi buôn chở đất từ thị trấn Hinche ở miền trung đến chợ La Saline, để chúng giữa những bàn rau, thịt ruồi nhặng bâu đầy. Những người phụ nữ mua đất về sau đó nhào nặn chúng thành bánh đất ở những nơi như Fort Dimanche, một khu ổ chuột gần đó.

Mang những rổ đất và nước leo từng bậc thang lên mái của một nhà tù cũ, họ nhặt nhạnh đá, sỏi trong đất trên một tấm khăn, rồi sau đó quấy chúng trong mỡ và muối. Rồi họ nhào nặn hợp chất đó thành bánh đất, phơi khô chúng dưới ánh nắng mặt trời. Khi bánh đã "chín", chúng được cho vào rổ mang ra chợ hoặc ra ngoài đường phố bán.

Khi một phóng viên ăn thử loại bánh đó, anh ta đã phải nhổ ra ngay lập tức khi miếng bánh vừa chạm vào đầu lưỡi. Vài giờ sau, mùi vị khó chịu của đất vẫn còn nhờ nhợ trong miệng.

Theo một số chuyên gia nghiên cứu tục ăn đất, bánh đất vừa có tác hại vừa có tác dụng đối với sức khoẻ. Đất có thể có động thực vật ký sinh hoặc chất độc gây chết người. Tuy nhiên, nó cũng có thể củng cố thêm hệ miễn dịch của bào thai ở trong tử cung đối với một số bệnh. Nhưng bác sĩ Gabriel Thimothee, người đứng đầu bộ Y tế Haiti cho biết: "Hãy tin tôi, nếu tôi thấy ai ăn thứ bánh đó tôi sẽ ngăn họ ngay"!

Bà Marie Noel, 40 tuổi, là người bán bánh đất trong chợ để kiếm tiền nuôi 7 đứa con. Gia đình bà cũng ăn thứ bánh đó. Bà nói: "Tôi hy vọng một ngày nào đó tôi sẽ có đủ thức ăn để chúng tôi không phải ăn những thứ này nữa. Tôi biết loại bánh đó không tốt".

Trên tờ The Guardian của Anh ngày 29.7.2008, ký giả Rory Carroll cũng đã viết bài “Haiti: Bánh đất đã trở thành bữa ăn ổn định khi giá thực phẩm vượt lên trên tầm với của gia đình” để nói lên tình trạng tương tự. Ký giả này kể lại, bà Marie-Carmelle Baptiste, 35 tuổi, một người sản xuất bánh đất, đã nói với ông ta: “Bánh này làm cho khỏi đói. Các ông phải ăn những bánh đó thôi khi chẳn gcó gì chung quanh”!

Haiti khốn khổ


Haiti là một quốc gia ở Tây bán cầu, trong vùng biển Caribé, Trung Mỹ, gần sát với Cuba, gồm một phần phía tây của đảo Hispaniola. Phía đông của hòn đảo này là Cộng Hoà Dominican (Dominican Republic). Haiti có những dãy núi cao khoảng 2.800 mét chạy dài từ đông sang tây, xen kẻ với những thung lũng và đồng bằng đông dân. Chữ Haiti phát xuất từ thổ ngữ AYITI của người Taino trong vùng có nghĩa là “đất của những núi cao” (land of high mountains). Diện tích Haiti chỉ có 27.750 cây số vuông (tương đương với tiểu bang Maryland) nhưng dân số nay đã lên khoảng 8.700.000 người, gồm có 95% là người Phi Châu da đen, 80% theo Thiên Chúa Giáo La Mã và 16% theo Tin Lành. Ngôn ngữ chính là tiếng Pháp và tiếng Créole.

Tài nguyên thiên nhiên là bauxite và tôm cá. Nông phẩm gồm cà phê, mía, gạo và bắp. Sản phẩm kỹ nghệ là đường biến chế, gạo, hàng vãi và xi-măng. 66% làm nghề nông, 25% làm ngành dịch vụ và 9% làm kỹ nghệ hay thương mại. Tài nguyên ít, con người lại thường ỷ lại, lười biếng, hay xâu xé nhau và không có khả năng vươn lên, nên Haiti được coi là nước nghèo nhất ở Tây bán cầu.

Hiện nay khoảng 80% người dân Haiti phải sống dưới 2 đô la một ngày, trong khi chỉ một phần rất nhỏ những người giàu có đang nắm giữ toàn bộ nền kinh tế.

Một lịch sử bi thảm

Christopher Columbus đã cập bến Môle Saint-Nicolas ngày 3.12.1492 và tuyên bố đảo này thuộc Tây Ban Nha và đặt tên cho nó là La Espanola. Đây là vùng đất mà những người thuộc sắc tộc da đỏ Carib và Arawak đang sinh sống. Các thống đốc Tây Ban Nha bắt đầu nhập cảng những người nô lệ Phi Châu vào để khai thác. Năm 1697 vùng đất này trở thành thuộc địa của Pháp và được đổi tên thành Saint Domingue. Năm 1791, một nửa triệu người nô lệ đã nổi loạn và năm 1801, Pierre Dominique Toussaint l’Ouverture tuyên bố độc lập. Hoàng Đế Napoleon đã đưa quân đến dẹp loạn, nhưng người da đen đã thắng và năm 1804, nước này tuyên bố độc lập trên toàn đảo Hispaliona và lấy tên là Haiti, tức đất của những núi cao.

Tuy nhiên, năm 1843, nhóm dân theo Tây Ban Nha ở phần phía đông đảo Hispaliona nổi loạn và thành lập một quốc gia khác lấy tên là Cộng Hoà Dominican. Nước này rộng đến 48.442 cây số vuông, nói tiếng Tây Ban Nha và có nền văn minh cao hơn.

Trong thế kỷ 19, Haiti bị cai trị bởi một chuỗi các chế độ độc tài làm nền kinh tế kiệt quệ. Năm 1915, Hoa Kỳ đem quân xâm chiếm nước này. Sau Đại Chiến II, Haiti được trao trả độc lập, Dumarsais Estimé được chọn làm Tổng Thống. Nhưng năm 1949, Tướng Paul Magloire làm đảo chánh và đưa Haiti trở lại chế độ độc tài. Năm 1957, François Duvalier được bầu làm Tổng Thống và trở thành một nhà độc tài khét tiếng. Ông bị ám sát năm 1971 và người con của ông là Jean-Claude, thường được gọi là “Baby Doc”, lên kế vị. Năm 1986 “Baby Doc” phải bỏ nước ra đi sau những cuộc rối loạn liên tiếp. Tháng 1 năm 1988 quân đội tổ chức bầu cử và Leslie Manigat được bầu làm Tổng Thống. Nhưng đến tháng 8 Tướng Prosper Avril lại làm đảo chánh. Ông tổ chức bầu cử Tổng Thống ngày 6.12.1990 và Linh mục Jean-Bertrand Aristide được bầu làm Tổng Thống. Aristide nhận chức ngày 7.2.1991 và được hoan hô như là một anh hùng dân chủ. Nhưng đến tháng 9, Tổng Thống Aristide bị đảo chánh phải đi lưu vong. Hoa Kỳ và các nước trong tổ chức các quốc gia Mỹ Châu đã áp dụng cấm vận và phong toả hải cảng Port-au-Prince, nên ngày 15.10.1994 quân đội Haiti đồng ý trao quyền lại cho Aristide. Quân đội Hoa Kỳ đem quân vào gìn giữ an ninh cho việc chuyển quyền và kể từ ngày 31.3.1995 lực lượng gìn giữ Hoà Bình của LHQ đến thay quân đội Hoa Kỳ.

Chính quyền Haiti quyết định tổ chức bầu cử lại, nhưng Linh mục Aristide không tái tranh cử nữa và chỉ định René Préval thay thế ông. Trong cuộc bầu cử ngày 27.12.1995, René Préval thắng cử và trở thành Tổng Thống.

Năm 2000 Linh mục Aristide tái ứng cử và đắc cử, nhưng chế độ Aristide trong nhiệm kỳ thứ hai này bị tố cáo là tham nhũng. Báo cáo của Uỷ ban Công lý và Hoà bình Haiti công bố vào tháng 4 năm 2003 cho biết rằng giết người, bạo hành, bắt cóc: một chuỗi các tội ác xảy ra hằng ngày ở Haiti. Có 117 người chết trong 4 tháng đầu năm. Hội Đồng Giám Mục Haiti đã lên tiếng: “Chúng tôi nhận thấy rằng tình đoàn kết giữa con người với nhau đã tan biến. Chúng tôi lo lắng về sự cẩu thả của một số người nắm giữ vận mệnh của những người khác”.

Năm 2004 quân đội lại làm đảo chánh. Boniface Alexandre lên lãnh đạo chính phủ lâm thời. Phái Bộ Ổn Định cuả LHQ (The United Nations Stabilization Mission) liền đến Haiti. Trong cuộc bầu cử vào tháng 2 năm 2006, René Préval, người thân tín của Aristide, lại tái đắc cử lần thứ hai.

Đội quân LHQ đến gìn giữ hoà bình


Chúng ta hãy nghe một số đoạn trong bài “Lịch sử khốn khổ của Haiti” do ký giả Nick Caistor tường thuật lại:

1. Thiên tai: Rất nhiều cư dân trong khu ổ chuột bị buộc phải tới Port-au-Prince vì điều kiện tại các vùng nông thôn còn khổ hơn. Tình trạng suy dinh dưỡng nghiêm trọng, Aids và các bệnh kinh niên khác đang lan tràn.

Haiti chiếm 1/3 khu núi phía tây của đảo Hispaniola. Khi những người châu Âu lần đầu đặt chân tới đây cách đây hơn 500 năm, họ ngạc nhiên là đất nước này lại có nhiều rừng đến như vậy. Giờ đây, chỉ còn 3% rừng nguyên sinh còn sót lại. Phần lớn các khu rừng đã bị chặt để lấy gỗ hoặc làm than củi, vốn là nhiên liệu phổ biến nhất tại nước này. Chính việc chặt phá rừng đã làm gia tăng các hậu quả của một loạt trận bão đổ vào nước này năm 2008, khiến gần một ngàn người thiệt mạng và một triệu người bị mất nhà cửa sau khi bốn cơn bão ập vào thành phố quan trọng là Gonaives trong vài tuần...

2. Bão tố chính trị: Bên cạnh thiên tai, Haiti còn phải gánh chịu nhiều hậu quả trong suốt lịch sử đầy biến động chính trị và các chế độ cai trị tồi.

Khi ‘Baby Doc’ Duvalier bị truất quyền năm 1986, có vẻ như nước này cuối cùng cũng được hưởng một giai đoạn dân chủ. Sau vài năm bất ổn, hi vọng mới được hình thành và gắn với cuộc bầu cử năm 1990, khi cựu tu sĩ Công giáo Jean-Bertrand Aristide đắc cử.

Tuy nhiên, giai đoạn cầm quyền của ông ta chấm dứt chỉ sau vài tháng, khi các tướng tá quân đội lên tước quyền. Kinh nghiệm dân chủ tại Haiti bị cắt ngắn, hàng ngàn người trở thành nạn nhân của chế độ mới và hàng người người khác phải bỏ chạy khỏi nước này trên các xuồng bè tự tạo.

Lượng thuyền nhân di tản quá lớn vào Mỹ năm 1994 đã thuyết phục Tổng thống Bill Clinton rằng đã đến lúc phải dẹp bỏ các sĩ quan quân đội ở Haiti. Một lần nữa, ông Jean-Bertrand Aristide được phục hồi quyền lực, và một kỷ nguyên chính trị mới có vẻ bắt đầu.

Dưới sự cầm quyền của ông Aristide và người kế nhiệm là René Préval, cùng với sự trợ giúp của Liên Hiệp Quốc cũng như các tổ chức viện trợ quốc tế khác, đời sống đã cải thiện đôi chút, mặc dù Haiti vẫn là quốc gia nghèo nhất tại Tây bán cầu, với thu nhập bình quân chưa đầy hai đô la/ngày.

Khi ông Aristide tái đắc cử Tổng thống nhiệm kỳ hai vào năm 2001, tình hình chính trị lại thụt lùi, với nhiều biến động và bạo lực gia tăng. Tổng thống Aristide bị buộc phải từ chức vào đầu năm 2004, sau vài tháng biến động chính trị leo thang tại nước này. Một lực lượng gìn giữ hoà bình của LHQ với 9000 lính được gởi tới Haiti từ đó nhằm mang lại ổn định và giúp xây đường sá cũng như các cơ sở hạ tầng quan trọng khác.

3. Dập tắt hi vọng: Dưới thời của Tổng thống René Préval, vốn đắc cử nhiệm kỳ hai vào năm 2006, tình trạng tại Haiti đã có những cải thiện quan trọng: công ăn việc làm được tạo ra, các khu ổ chuột trở nên đỡ bạo lực và bắt đầu có dấu hiệu gia tăng về du lịch.

Nhưng giờ đây, cũng như bao lần đã xảy ra trong quá khứ của Haiti, những hi vọng mới này lại bị dập tắt. Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế phải đưa ra những nỗ lực khổng lồ đơn giản chỉ để cứu hộ cho hàng ngàn nạn nhân cũng như dọn dẹp sau động đất.

Nói chuyện sau những thảm hoạ năm 2008, Tổng thống Préval nói Haiti cần sự giúp đỡ lâu dài chứ không nên để “luôn bị bỏ rơi một mình để đối phó với những thảm hoạ mới”.

Đối diện với khu dinh Tổng thống tại Champ de Mars ở Port-au-Prince là một bức tượng lớn mô tả những người bị bỏ rơi trên hoang đảo, là các nô lệ bỏ trốn, vốn là biểu tượng của cuộc đấu tranh giành độc lập của Haiti vào cuối thế kỷ 18.

Người dân Haiti giờ đây cần có tinh thần tương tự nếu họ muốn vượt qua thảm hoạ mới đây nhất giáng xuống nước này.

Nén hương lòng

Trong bài “Nén hương lòng” đăng trong mục “Chuyện có thật” trên website hayyeuthuongnhau.org ngày 24.11.2008, Linh mục Martino Nguyễn Bá Thông ở Saint Teresa of Avila Catholic Church, Grovetown, GA, có kể lại câu chuyện sau đây sau một chuyến viếng thăm Haiti (những tiểu đề do chúng tôi thêm vào):

1. Lâm cảnh cùng khốn: Người Haiti mang dòng máu da đen. Tổ tiên của họ là những nô lệ đến từ Phi Châu nên một phần nào tính “thụ động” vẫn còn trong họ, chính vì thế đất nước họ rất nghèo và chậm phát triển.

Miền nam của Haiti có những mảnh đất màu mỡ trồng rất nhiều xoài, chuối và lúa gạo, nhưng vẫn với những công cụ thô sơ và sản xuất bằng tay nên không thể nào cạnh tranh nổi với thế giới công nghệ tiên tiến của ngày hôm nay. Chẳng hạn như xoài của họ ăn rất ngon và rất thơm (như xoài thanh ca của VN vậy đó) nhưng họ lại không biết bảo quản nên khi ăn trái nào cũng bị nhão từ bên trong – và chuối thì cũng như thế. Khi tôi đi qua các ruộng lúa đang khoe sắc vàng, thì vẫn nhìn thấy các người còm lưng gặt lúa và đập lúa bằng chính đôi tay của mình. Thế mới biết được, Việt Nam chúng ta vẫn còn hơn họ nhiều lắm!...

Nhắc đến nhà thương thì tôi nghĩ cũng nên nói để quý vị rõ là cả nước Haiti vừa mới có nhà thương phục vụ 24 giờ một ngày đầu tiên cách đây khoảng một năm. Tuy vậy khi vào nhà thương, gia đình người bệnh cần phải ra trước cửa bệnh viện mua cho bác sĩ đôi găng tay khám bệnh vì bệnh viện không có găng tay...

Haiti có 3 không: không đường, không điện, không nước, nên tỉ lệ bị nhiễm HIV ở đây rất cao.

Đói triền miên


Tôi là kẻ đã lang thang với trẻ bụi đời khắp năm châu trên 10 năm nay. Đã nhìn thấy những cảnh đời bất hạnh và cuộc sống nghèo khổ đến độ tôi nghĩ không thể nào nghèo hơn được nữa. Tôi không dám nói những gì tôi nhìn thấy ở Haiti là nghèo nhất, nhưng có thể nói là một trong những nước nghèo nhất. Cái khổ nhất mà tôi đã chứng kiến tận mắt là ở Zaire và Rwanda (hai nước ở Phi Châu) khi mà con người phải ăn “đất” để sống...

2. Tên của em là Matthew!: Lần đầu tiên, tôi gặp nó cũng là một đêm tối trời. Tôi vẫn còn nhớ hôm ấy đang lang thang đạp xe vòng quanh nhà thờ Saint Mark ở nước Haiti, nhân chuyến tôi đi thăm giáo xứ “kết nghĩa” với giáo xứ của tôi, thì cái xe đứt sên. Đang loay hoay chưa biết thế nào thì nó xuất hiện. Với những ngón tay thoăn thoắt và hai viên đá trên tay, nó đã có thể nối lại sợi dây sên cho xe và rồi nó lại biến nhanh vào bóng đêm như lúc nó xuất hiện.

Và thế là tôi cũng chẳng còn nhớ đến nó. Và rồi sáng Chủ Nhật khi tôi đồng tế trong Thánh Lễ thì nó lại xuất hiện. Đứng trên Cung Thánh tôi thấy nó cứ thập thò ngoài cửa nhà thờ không vào. Và cuối lễ qua một người thông dịch tôi đã biết được tên và cuộc đời của nó!

Tên của em là Matthew! Cả ông bà nội ngoại của em đã mất vì bệnh Siđa (do vi khuẩn HIV). Bố mẹ em cũng đã mất vì căn bệnh này cách đây gần 5 năm. Không ai biết là em có họ hàng thân thích hay không. Cũng chẳng ai biết là em có còn anh chị em ruột thịt hay không. Những người dân ở khu này chỉ biết đến em là một đứa trẻ “có thể” cũng bị mang vi khuẩn HIV, mồ côi và lang thang. Tuy vậy, theo lời của họ thì em là một đứa bé rất ngoan, luôn giúp đỡ người khác khi cần và chưa bao giờ ăn cắp của ai cái gì! Mỗi khi em đói mà không có gì ăn thì em lại ra cây xăng gần đó xin người qua lại bố thí, mà nếu cuối ngày chẳng được gì thì em lại gõ cửa nhà cha xứ!

Thế là không biết vì sao, tôi tự mình phá lệ do chính tôi đặt ra – đó là nhận một đứa trẻ làm con nuôi. Tôi không nuôi em trong nhà xứ, và em cũng không ở nhà bố mẹ tôi. Nhưng tôi nuôi em bằng tình thương và dĩ nhiên là cả vật chất nữa. Cuộc sống Linh Mục của tôi “không nên” nhận con nuôi, vì điều đó có thể sẽ làm tôi phải lo lắng thêm về vật chất – vì mỗi tháng tôi sẽ phải gởi cho em 50 USD, đó là chưa kể đến những lúc “trái gió trở trời”, nhưng em là một ngoại lệ. Với lại không biết em sẽ còn sống được bao lâu nữa...

Mỗi tháng tôi gởi tiền “tiếp tế” cho em! Và cứ mỗi khi em nhận được tiền em lại viết cho tôi một lá thư bằng tiếng Pháp! Cũng may, tôi có vài giáo dân biết tiếng Pháp nên cũng không đến nỗi nào!

Noel vừa qua, tôi “thặng dư” cho em một chút, coi như đó là món quà Chúa Giáng Sinh tặng em và tôi nhận được một lá thư của em rất dài, xin được trích một đoạn như sau:
“Bố Thông yêu quý,
“... Đã gần 5 năm nay con “tủi thân” một mình vì không có cha mẹ. Nhưng hôm nay con đã dám ngẩng cao đầu nhìn mọi người vì con đã... có một người cha! Con đã bắt đầu dám vào bên trong nhà thờ để đi lễ, không còn phải lén lút đứng ở bên ngoài nữa. Con đã khoe với mọi người là con đã có một người cha! Là bố đó!

“Bố còn nhớ tấm hình mà con với bố chụp chung mà bố gởi cho con không? Lúc nào con cũng mang nó bên người! Đi đâu con cùng khoe là con không còn “cô đơn”, không những con đã có một người cha, mà cha của con lại là một Linh Mục nữa đó! Từ ngày mọi người biết con là “con nuôi” của bố, họ đối xử với con tốt hơn – và bố tin con đi, con cũng đã và đang làm cho bố hãnh diện đó!

“Dành dụm từ những đồng tiền bố cho con, con đã “xây” được một cái nhà bằng “vách đất” 4 mét vuông và giờ đây con không còn phải “lang thang” nữa. Con đã có chỗ “nương thân”. Và chỗ nương thân của con cũng là chỗ mà những người bị nhiễm vi khuẩn HIV như con có thể đến tá túc! Con vẫn đang chia sẻ tình thương của bố dành cho con đến với mọi người đó!

“À bố ơi, đã có hai người chết trong nhà của mình (em gọi căn nhà của em đang ở là nhà của em và tôi). Con ước gì có bố ở đây để bố Xức Dầu và Cầu Nguyện cho họ! Nhưng bây giờ bố vẫn có thể xin Chúa được mà phải không bố?...”
Thật tôi không thể tin đó là lá thư của đứa bé chỉ khoảng 18 tuổi với trình độ văn hoá lớp 3.

Hôm nay cũng là một đêm tối trời – sau bữa ăn tối tôi hay đi bộ qua nhà thờ để chầu thánh thể thì chuông điện thoại cầm tay của tôi reo - đầu dây bên kia là giọng nói của ông thầy xứ gọi từ Haiti...

Cúp điện thoại, tôi thẫn thờ bước vào nhà chầu. Không ngờ, mới gần em đó mà giờ đã quá xa, xa khỏi tầm với của con người. Cầu xin cho em được bình an nơi đó! Tôi sẽ dâng lễ cầu nguyện cho Linh Hồn của em! À, mà quên nữa chứ, ngày mai tôi sẽ gởi tiền để trả chi phí an táng cho em. Vì em là đứa con mà tôi đã nhận! Tí nữa thì bố quên – con tha lỗi cho bố nhé!

Bố của con,
LM Martinô Nguyễn Bá Thông
Misere Mei Deus

Tổ chức Y tế liên châu Mỹ nói số người chết ở Haiti là từ 50.000 tới 100.000, trong khi Thủ tướng Haiti Jean-Max Bellerive nói ít nhất là 100.000. Ông nói 25.000 xác chết đã được thu gom và chôn cất. Nhân viên cứu trợ đang nỗ lực tìm người sống sót còn mắc kẹt dưới đống đổ nát. Phóng viên Chris Barria cho biết: "Tình trạng thật là vô trật tự, hỗn loạn, và cảnh sát lại không có mặt ở đây. Người ta đánh nhau, ném đá vào nhau". Uỷ Ban Hồng Thập Tự Quốc Tế ước tính có khoảng 3 triệu người Haiti – tương đương 1/3 dân số - có thể cần cứu trợ khẩn cấp!

Chúng tôi thường đọc website www.hayyeuthuongnhau.org và theo dõi những việc LM Nguyễn Bá Thông đã làm trong nhiều năm qua, một đôi khi có tường thuật lại. Nay đọc câu chuyện trên, rồi nghe tuyên cáo đòi “giải phóng quê hương” [1], tôi chỉ biết đọc lời nguyện: “Misere mei, Deus, secundum magnam misericordiam tuam...” (Lạy Chúa, xin đoái thương quê hương chúng con theo lượng khoan dung của ngài!).

Ngày 18.1.2010
Lữ Giang

[1] Thỉnh thoảng một số người Việt chống cộng lại ra một tuyên cáo, tuyên ngôn “giải phóng quê hương”, cho đỡ buồn...

© Thông Luận 2010

Share/Save/Bookmark

Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2010

Vụ án "lật đổ" hay bản án chế độ ?

Nguồn : Diễn đàn

Vụ án "lật đổ" hay bản án chế độ ?



Đại sứ Anh tại Việt Nam, ông David Kent, có lý khi ông cho rằng bản án đối với các ông Trần Đình Duy Thức (16 năm tù), Nguyễn Tiến Trung (7 năm), Lê Công Định và Lê Thăng Long (5 năm) tác hại đến "thanh danh của Việt Nam". Có lý không phải vì ông là đại diện cho một Vương quốc lập hiến, càng không phải vì Vương quốc "Sư tử già nua" ấy là mẫu mực toàn bích của dân quyền, dân chủ và nhân quyền. Người Việt Nam không ai quên rằng, cách đây 65 năm, quân đội Anh cặp bến Sài Gòn với nhiệm vụ giải giới phát xít Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16, đã mang theo dưới hầm tàu sư đoàn của tướng Leclerc để lập lại chế độ thực dân Pháp ở Viêt Nam. Cả thế giới đều biết rằng ở Hồng Kông, trong gần suốt 100 năm, dân chủ chưa hề là mối quan tâm của chính quyền Anh. Cho gần đến ngày Anh phải trao trả "nhượng địa" này cho Trung Quốc... Bất luận thế nào, ngày nay, dưới lá cờ đỏ 5 sao của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, người dân Hồng Kông có trong tay và sử dụng những quyền dân chủ tối thiểu mà hơn một tỉ người Hoa Lục chưa hề có, và họ không sẵn sàng để cho Bắc Kinh tước đoạt những quyền cao quý ấy, cho dù ý đồ của nhà cầm quyền Anh cách đây 20 năm chẳng "trong sáng" chút nào, chẳng qua chỉ là một trò chơi khăm Bắc Kinh. Nhưng lịch sử đôi khi cũng là thành quả của những trò chơi khăm. Điều ấy, người Việt Nam, nhất là những người cộng sản Việt Nam -- ít nhất những người biết học sử -- cũng biết rất rõ : nếu không có luật habea corpus và những nhân tố pháp quyền của nền dân chủ Anh, cách đây 80 năm, một nhà cách mạng Việt Nam ắt đã bị trao trả cho mật thám Pháp để bị thủ tiêu trên Biển Đông hay xử tử hình. Nhà cách mạng ái quốc ấy, ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, đã long trọng tuyên bố thành lập một nhà nước dân chủ đa đảng ở Việt Nam.

Ông Kent có lý, vì một chính quyền có "đồng thuận cao" ở Quốc hội của một nước hoàn toàn độc lập từ 35 năm nay, hoà bình liên tục trong suốt 20 năm qua, có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới, tuyên bố làm bạn với mọi người, không thể "vẹn toàn thanh danh" khi bắt giam, rồi kết án tù mấy cá nhân đơn lẻ, dưới tội danh "âm mưu lật đổ chế độ" khi mà "vũ khí" duy nhất của họ là bàn phím, và phương tiện tuyên truyền, tập hợp, tổ chức duy nhất của họ là môt công cụ phi vật thể : mạng internet.

Người ta có thể tiếc rằng tuổi trẻ của Nguyễn Tiến Trung khiến anh nông nổi đến mức ngây ngô khi ca ngợi George W. Bush, người ta có thể ngạc nhiên trước quan niệm "đa đảng" khá độc đáo của luật sư Lê Công Định (một mình muốn thành lập hai ba đảng cùng một lúc), người ta có thể thất vọng khi thấy họ cả tin đối với những bè nhóm ma giáo và ồn ào ở nước ngoài (trách họ sao được, khi một nhân vật lão thành như ông Hoàng Minh Chính còn nhẹ dạ hơn họ ?), nhưng tiên thiên, không ai có quyền phủ nhận lòng yêu nước và khát vọng xây dựng một nước Việt Nam phát triển, dân chủ, cởi mở của họ. Càng không thể chấp nhận chính sách đàn áp của chính quyền và bản án phi nghĩa ngày 20.1.2010 vừa qua của Toà án Thành phố Hồ Chí Minh.

Đường lối thô bạo ấy, ngay trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam cũng không được tán thành. Theo những nguồn tin đáng tin cậy, việc bắt giam bốn bị cáo là một quyết định của một thiểu số (4 người) trong Bộ chính trị ĐCS, mấy người trong cơ quan này (trong đó có ông Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước) đã bỏ phiếu chống, còn đa số không lựa chọn. Trong đời sống không mấy lành mạnh từ mấy năm nay của lãnh đạo ĐCS, đã hơn một lần, người ta biến thành nghị quyết của Bộ chính trị một lời nói lửng lơ vào cuối buổi họp, không hề được thảo luận (thí dụ điển hình là việc ông Nông Đức Mạnh, tổng bí thư, vì nghe thày phong thuỷ xúi bậy, muốn xây toà nhà Quốc hội ở Khu hoàng thành Thăng Long). Nhưng đây là lần đầu tiên, ý kiến của một thiểu số (4/15) đã bị biến thành một quyết định của Bộ chính trị, không hề được thảo luận và biểu quyết trở lại. Chỉ một việc này cũng nói lên tính nghiêm trọng của tình hình đất nước.

Nghiêm trọng vì tình hình đất nước đang trải qua một cuộc khủng hoảng toàn diện về kinh tế, xã hội, văn hoá và tinh thần. Nghiêm trọng hơn nữa là sự bất cập của đảng cầm quyền và hành xử của nó trước tình hình ấy.

Cuộc xử án vừa qua chỉ là một trong muôn vàn chỉ dấu, thậm chí không phải là chỉ dấu nghiêm trọng nhất (nếu được phép xếp thứ tự cấp bậc nghiêm trọng khi bàn tới sinh mạng chính trị của những thanh niên và trung niên dũng cảm). Hành xử của chính quyền trong vụ bauxite Tây Nguyên biểu lộ khá toàn diện và sâu xa tình huống ấy : cho Trung Quốc khai thác thô quặng bô-xít tại một vùng chiến lược bằng những phương pháp lạc hậu, tác hại môi sinh, đời sống và văn hoá của đồng bào Tây Nguyên. Thoạt tiên là một câu "lãng xẹt" trong một tuyên bố chung năm 2001 (Nông Đức Mạnh - Giang Trạch Dân). Rồi dưới sức ép vừa thô bạo vừa tinh vi (kinh tế, tài chính, chính trị, và có lẽ cả sinh hoạt cá nhân) của Bắc Kinh, nó đã biến thành một "chủ trương lớn", chỉ thị Quốc hội phải bỏ phiếu "đồng thuận cao". Trong khi đó, từ đại tướng Võ Nguyên Giáp tới thiếu tướng công an tại chức Lê Văn Cương, từ đảng viên tới trí thức sinh viên, từ những cơ quan đoàn thể chính thức (Liên hiệp các Hội khoa học kĩ thuật - VUSTA) cho đến những viện nghiên cứu tư nhân độc lập (như IDS), đều phản đối mạnh mẽ. Quan trọng hơn, như chính những người phụ trách công tác tuyên giáo đã báo cáo với Bộ chính trị : những người phản biện đều đưa ra luận chứng chính xác, đầy đủ, những người tán thành (đặc biệt là tập đoàn TKV) thì không.

Thật đáng kinh ngạc là những người cầm quyền đã đối phó như họ đã làm : cấm báo chí phản ánh, cấm phản biện công khai (quyết định 97, dẫn tới việc IDS tự giải thể để phản đối)... Chính sự cấm đoán này đã dẫn tới kết quả mà chính quyền không thể ngờ : số độc giả của báo chí giảm sút, và hơn 17 triệu lượt người vào mạng bauxite Việt Nam để tìm hiểu sự thực, trong vòng 7 tháng. Lại đối phó : trong khi toà án TP HCM "khẩn trương" xử và kết án trong vòng một ngày thì ở Hà Nội, thì giáo sư Nguyễn Huệ Chi (chuyên gia về văn học Lý Trần) phải "làm việc" từ sáng đến tối tại cục an ninh.

Mạng Bauxite Việt Nam do Nguyễn Huệ Chi điều hành đã bị đánh sập từ cuối tháng 12.2009. Chưa biết nhóm côn đồ internet này ở đâu (Việt Nam, Hồng Kông...), nhưng ở tu viện Bát Nhã, rõ ràng côn đồ không xuất phát từ Hồng Kông... Tại Đồng Chiêm, phá thánh giá dựng trên một điểm cao (chính quyền nói là xây dựng trái phép, có thể) là cả một lực lượng cảnh sát hùng hậu (mang khiên đề chữ to CSDC, rồi cả POLICE nữa, như trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng). Thật khó giải thích cách hành xử thô bạo và thất sách này, khi người ta nhớ rằng trong vụ "Toà Khâm" ở 42 Nhà Chung, chính quyền đã khôn ngoan biết chuyển bại (mưu đồ của quan chức thành phố Hà Nội biến thửa đất này thành khách sạn, chia chác tiền phát mãi) thành vườn hoa (nghĩa là thành "thắng" cho người dân, cả lương lẫn giáo).

Người ta có thể "nhân bản" những thí dụ cho thấy sự bất cập của chính quyền trong thời gian vừa qua để xử lý trăm công nghìn việc của đất nước (vụ bà Tư Hường chiếm đất ở Nha Trang, các vụ biểu tình bảo vệ chủ quyền ở Hoàng Sa - Trường Sa, các vụ Trung Quốc hãm hại và làm tiền ngư dân, vụ xi-căng-đan Huỳnh Ngọc Sĩ, các vụ việc lớn nhỏ về giáo dục, nhà đất, tham nhũng, vụ Đào Duy Quát...). Với tình hình hiện nay (và với triển vọng Đại hội XI của ĐCS họp đầu năm 2011), có thể tin chắc rằng các vụ việc sẽ tiếp tục, ngày mỗi nhiều và nghiêm trọng hơn, báo chí tuy đã được ép vào "lề phải" một cách nghiệt ngã sẽ không thể nào bịt kín.

Vấn đề là sự ứng phó và khả năng của chính quyền.

Chính sách đàn áp, xiết chặt báo chí, ngăn chặn internet... tiến hành từ mấy năm nay chứng tỏ nhà cầm quyền thấy rõ triển vọng tình hình và hiểu rõ họ không còn uy tín trong dư luận xã hội (kẻ cả trong đa số đảng viên).

Cách đây 20 năm, trước sự đổ sụp của Liên Xô, trong lãnh đạo ĐCSVN đã có một xu hướng không lành mạnh là dựa vào Trung Quốc (cuộc họp Thành Đô, giải pháp "Cam pu chia đỏ"...), tuy không thành nhưng cũng đã để lại những bài học chua xót. Song nhờ tiếp tục đổi mới về kinh tế, và nhờ sự thoả hiệp mặc nhiên với xã hội dân sự (để cho người dân chủ động làm ăn, sản xuất), người dân cũng như chính quyền (và các cường quốc) đều không muốn có sự đảo lộn..., Việt Nam đã chuyển từ một chế độ mệnh danh "xã hội chủ nghĩa" sang hình thái tư bản chủ nghĩa hoang dại với chế độ độc đảng chuyên quyền, với những thay đổi to lớn theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Lịch sử 20 năm qua cho thấy chế độ cực quyền đứng vững và đạt được những thành quả đáng kể vì song song với trấn áp, nó biết tạo ra và nương dựa vào một sự đồng thuận nhất định của xã hội.

Sự đồng thuận ấy đang cạn kiệt, trấn áp đơn thuần chỉ dẫn tới thất bại và hỗn loạn. Xã hội Việt Nam có thể, và chỉ có thể vượt qua được cuộc khủng hoảng hiện nay, đất nước Việt Nam chỉ có thể đứng vững trước hiểm hoạ "quyền lực cứng và quyền lực mềm" của chủ nghĩa đại hán trên bộ, trên biển, trong nội bộ và trên quốc tế, trên cơ sở một đồng thuận mới. Đó là sự đồng thuận về quyền lợi của quốc gia, lợi ích lâu dài của các thế hệ, về sự tồn tại và phát triển của xã hội dân sự và công dân.

Sự đồng thuận ấy tuỳ thuộc vào nhận thức của toàn xã hội cũng như vào sự thức tỉnh từ chính quyền.

Nguyễn Ngọc Giao


Share/Save/Bookmark

Cẩm nang vượt tường lửa

Nguồn : Dân Luận

Soạn bởi Tqvn2004

Mục đích của tài liệu này là phổ biến tới độc giả các phương thức vượt tường lửa hiệu quả và phổ biến nhất. Tài liệu gồm hai phần, phần thứ nhất đi thẳng vào giới thiệu cài đặt và sử dụng các chương trình vượt tường lửa, dành cho những người không có nhiều thời gian để tìm hiểu sâu. Phần thứ hai mô tả chi tiết cách thức vận hành của tường lửa, và qua đó giúp độc giả hiểu rõ hơn tại sao các phương pháp vượt tường lửa ở phần thứ nhất lại giúp mình qua được tường lửa. Chúng tôi khuyến nghị độc giả tham khảo kỹ phần thứ hai để hiểu và từ đó có thể “vận dụng sáng tạo” hơn các cách vượt tường lửa được giới thiệu ở phần thứ nhất.

Chúc độc giả sử dụng thành công các phương thức được hướng dẫn tại đây. Xin hãy lưu lại tài liệu này (có sẵn ở dạng PDF lẫn HTML) cùng các chương trình hỗ trợ, để tra cứu và sử dụng lúc cần thiết. Và chúng tôi cũng rất biết ơn nếu độc giả có thể giúp phổ biến tài liệu này một cách rộng rãi khi có điều kiện.

Nếu gặp trục trặc hay thắc mắc, xin các bác phản hồi ở đây, tôi sẽ cố gắng trả lời hoặc đính chính nếu tài liệu có sai sót…

===>> Xem tài liệu trực tuyến (dạng html) <<===

===>> Xem tài liệu trực tuyến (dạng pdf) <<===

===>> Tải xuống tài liệu dạng PDF <<===

Nguồn : http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm


Nguồn : http://danluan.wordpress.com/

Danh sách proxy để vượt tường lửa


Dưới đây là một số proxy mà bạn đọc Dân Luận có thể sử dụng để vượt tường lửa. Nếu biết có proxy nào khác, xin báo cho chúng tôi để bổ sung vào danh sách:

  1. www.zend2.com
  2. www.webwarper.net
  3. vtunnel.com/
  4. http://anonymouse.ru:8000/cgi-bin/nph-proxy.cgi
  5. http://anonymouse.ru/cgi-bin/nph-proxy2.cgi
  6. w2.hidemyass.com
  7. go2-bd.appspot.com
  8. www.webproxyserver.net
  9. live-proxy.com
  10. phproxy.ebumna.net

Hoặc xem Dân Luận hoặc Facebook qua trang web khác bằng IFrame:

  1. http://kom.aau.dk/~hcn/danluan.html
  2. http://kom.aau.dk/~hcn/facebook.html

Hoặc xem Dân Luận qua Google Translate:

  1. http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=ar&tl=en&u=http%3A%2F%2Fdanluan.org

Share/Save/Bookmark

Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2010

Chủ nghĩa phản-trí thức trong văn học Việt Nam

Nguồn : Tiền Vệ
Nguyễn Hưng Quốc



Phản-trí thức là tâm lý hoài nghi, hơn nữa, thù nghịch với trí thức, xem trí thức không bằng kinh nghiệm, lý trí không bằng trực giác, lý thuyết không bằng thực hành, lý luận không bằng quyền lực, tư tưởng không bằng tín điều. Trong tâm lý phản-trí thức, tất cả những gì liên quan đến học thuật và những gì có tính chất trừu tượng và uyên bác đều bị xem là "cao vĩ", "viển vông", thậm chí "vu khoát"; chúng không những không đáng tin cậy mà còn đáng bị ghét bỏ, chế diễu và loại trừ. Có thể nói một cách vắn tắt, phản-trí thức thực chất là phản-lý thuyết, từ đó, nó dẫn đến thái độ phản-hàn lâm và việc nghi kỵ những sự phân tích có tính sách vở nói chung.

Tâm lý phản-trí thức có thể xuất hiện cả ở những người vốn quen được nhìn như những người trí thức nếu họ chỉ học như vẹt, học một cách nhồi sọ, học với thái độ sùng kính kiến thức từ trong sách vở như những chân lý hiển nhiên và bất biến. Đó không phải là nghịch lý vì bản chất của trí thức không phải chỉ ở kiến thức mà chủ yếu là ở lý trí; mà lý trí, ít nhất là từ cuối thế kỷ 17 trở đi, đặc biệt với Kant, được hiểu như đồng nghĩa với năng lực phê bình,[1] trong khi phê bình, tự bản chất, lại có tính chất nghi vấn, muốn đặt mọi sự thành vấn đề. Chính vì thế mới có khái niệm chính sách giáo dục ngu dân dưới các chế độ thực dân cũng như phát xít; cũng chính vì thế mà mặc dù các lãnh tụ của họ lúc nào cũng kêu gọi nâng cao trình độ văn hoá cho dân chúng trong nước, nhưng các chế độ cộng sản, từ Liên Xô cho đến Trung Hoa và cả Việt Nam nữa, trên căn bản, đều là những chế độ phản-trí thức; và cuối cùng, cũng chính vì thế mà tâm lý phản-trí thức có thể là một hiện tượng phổ biến ở ngay cả những quốc gia có trình độ dân trí khá cao hoặc rất cao.




Share/Save/Bookmark

Phe nước mắt

Nguồn : Diễn đàn

Khi Google định "đứng về phe nước mắt"

Phe nước mắt

Tản mạn của Phạm Toàn

Được đọc các bài Trung Quốc ngạc nhiên khi Google dọa rútTrung Quốc phản ứng với Google trên trang BBC (ngày 14 và 15.1.2010), thấy rất thú vị vì cái nết ngây thơ của người Trung Quốc.

Nói “ Người Trung Quốc ” đây dĩ nhiên không phải là vơ đũa cả nắm trọn vẹn cái lục địa đầy những người là người ấy ! Một tập đoàn người thôi. Không nhiều. Nhưng là “ những con người làm nên lịch sử ”. Tức là những con người có khả năng bóp méo (hoặc bóp bẹp) lịch sử.

Cỡ như người bạn to lớn đứng giữa Hà Nội dạy dỗ người Việt Nam muốn giải quyết những xung đột thì cần dựa trên đại cục. Lẽ ra ông ấy định làm nên lịch sử và nói “ đại Hán cục ” kia đấy ! Nhưng ông ta lại tìm cách nói nhịu đúng vào lúc cần nói nhịu, và ông đã kịp dừng để chỉ nghĩ và nói đến “ đại cục ”.

Tương ứng với hành vi đi lại nghênh ngang kia, thì cái guồng máy đào tạo ra các thái thú cũng biết cách giả vờ tròn mắt ngạc nhiên trước “ vụ Google ”.

Nhắc lại một nét lịch sử cũng là cần. Năm 2006, cái đại công ty tìm kiếm trên mạng, cái thư viện dùng chung không thể thiếu của loài người trên con đường hiện đại hoá ngày nay, công ty Google đã tìm cách đặt chân lên lục địa da vàng mênh mông kia bằng những thoả hiệp chết người. Ngay từ bước đầu, chỉ vì không thể bỏ qua lòng ham lợi nhuận, họ đã thoả hiệp những điều cơ bản. Theo yêu cầu của chính phủ Trung Quốc, công ty đã đồng ý lọc (nói thô thiển tức là đồng ý kiểm duyệt) một số từ khoá, như cuộc phản đối tại Thiên An Môn năm 1989, phong trào đòi độc lập cho Tây Tạng, hay phong trào Pháp Luân công.




Share/Save/Bookmark

Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2010

Chăm, Đau Khổ, Kiêu Hãnh Và Bí Ẩn (trích Chương 9, Tự Sự: Inrasara & Chăm & Chữ, Đang In)

Nguồn : Hợp Lưu

INRASARA

Thế giới đã nói nhiều về bí ẩn của kĩ thuật xây tháp Chàm. Làm thế nào các viên gạch chồng khít và gắn kết vào nhau mà không cần lớp vữa, đến nỗi đập vỡ còn dễ hơn tách hai miếng gạch? Tại sao gạch Chăm không bị mốc sau hàng ngàn năm, trong khi các viên mới tháp vào chưa tới chục năm đã bị rêu bám? Chăm làm xong tháp rồi chất củi nung, là giả thiết ngây ngô nhất. Nỗi hiện diện của bao nhiêu lò gạch suốt miền Trung bác lại điều đó. Các viên gạch được mài chập vào nhau cho đến khi kết dính, cũng là một giả thuyết. Hay người Chăm xưa xài đến dầu thực vật? Còn bao nhiêu giả thuyết nữa? Ông Chỉnh miệt mài ra tay thử và thử, cuối rồi cũng xong ngôi tháp hiện đại đầu tiên. Còn nó sẽ trụ vững không và trụ đến đâu thì chỉ có ba đời Ma Hời mới hiểu. Dù gì đi nữa, kĩ thuật siêu tuyệt kia đã biến. Biến mất cùng vương quốc hùng mạnh và ngạo nghễ một thời. Như kĩ thuật đóng tàu viễn dương đã. Cả các bài thuốc gia truyền, thiên văn học, vân vân nữa.

Người ta đã nói nhiều về kĩ thuật tạo dáng hay lối chạm trổ tuyệt kĩ của nghệ nhân Champa xưa trên các đồ trang sức bằng vàng, bạc. Vũ Kim Lộc mày mò tìm ra chất "khằng" hỗn hợp của nhựa thông và đất sét đơn giản nhưng đầy bí ẩn đó. Các nhà nghiên cứu cũng đã đề cập về huyền thoại loại giếng vuông Chăm còn phơi mặt dọc duyên hải miền Trung nắng hạn nhưng không bao giờ khô nước, về gốm Bàu Trúc - một trong vài làng mà kĩ thuật chế tác và nung gốm cổ sơ nhất Đông Nam Á còn tồn tại dai dẳng, về vị vua đầu tiên của Đông Nam Á thuộc Ấn Độ giáo - vua Gangaraja ở đầu thế kỉ thứ V, vừa lên ngôi đã nhường lại ngai vàng cho cháu, để làm cuộc vượt đại dương sang bờ sông Hằng... Người ta đã nói nhiều về chúng, tốn bao giấy mực lí giải sự ra đời và biến mất của chúng - những bí ẩn Chăm xa xưa với bao nhiêu kỉ lục. Tôi thì khác, tôi muốn kể câu chuyện về những huyền bí của đời sống Chăm hiện đại. Chăm đương sống cuộc sống kì diệu của ngày hôm nay.




Share/Save/Bookmark

Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2010

Khi sĩ phu ngoảnh mặt (Nguyên Ngọc)

Nguồn : e-ThongLuan
Photobucket - Video and Image Hosting

Khi sĩ phu ngoảnh mặt
Nguyên Ngọc

“…Gần đây có hiện tượng rất đáng lo: một số người vốn rất có trách nhiệm, là trí thức lớn của đất nước, đã tỏ ra chán nản, thậm chí tuyên bố sẽ im lặng. Đó là điều mà Lê Quý Đôn xưa đã gọi là “sĩ phu ngoảnh mặt”. Là dấu hiệu báo động. Vậy mà người ta đang điếc với cả báo động đó!…”

Hội nhập văn hoá “về hình thức” là gì, thưa ông? Việc chúng ta rất hãnh diện với các loại hình văn hoá phi vật thể được thế giới công nhận trong đó có ca trù được đưa vào danh sách Di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của UNESCO có là bình thường không, thưa ông?
Tôi không hiểu lắm mấy chữ “về hình thức” trong câu hỏi. Hội nhập thì bao giờ cũng là hội nhập về thực chất, sao lại có chuyện “về hình thức”? Nhưng nhân đây có thể nói một điều theo tôi là cần thiết và quan trọng. Tôi thấy hình như chúng ta thường không hiểu đúng và không nói đúng về hội nhập, bàn về hội nhập chúng ta thường nói đến chuyện du nhập hay không du nhập cái này cái nọ vào xã hội, vào đời sống văn hoá của ta. Và rồi tranh cãi về những cái đó. Hoặc lo lắng hội nhập thì được gì, mất gì… Nghĩ như vậy thì hẹp và đúng là “hình thức” quá, lúng túng, rối ren, và chẳng có ý nghĩa gì nhiều. Có lẽ cần đặt vấn đề một cách khác. Chắc cũng có thể nói một cách đơn giản, dễ hiểu, mà lại cơ bản hơn: hội nhập nghĩa là cố gắng sống được một cách văn minh cho bằng thiên hạ bây giờ, và theo cách của mình.

Có thể như thế được không? Theo tôi là có. Vì ta từng sống văn minh. Vừa rồi tôi sang Lào, đi khắp từ nam đến bắc, gần như tuyệt đối không hề nghe thấy tiếng còi ô tô. Người lái xe, đến ngã tư bao giờ cũng từ tốn dừng lại, nhìn trước nhìn sau, nhường đường cho người khác, nhẹ nhàng và đúng luật. Tôi nghĩ trong một chuyện nhỏ đó có cả hai mặt: họ biết thực hiện giao thông hiện đại một cách văn minh, và sự từ tốn văn minh đó lại cũng bắt nguồn từ tính chất dân tộc ôn hoà lâu đời. Vậy đó, họ đã hội nhập hơn ta nhiều, họ tự nâng mình lên đến trình độ giao thông văn minh của thế giới trên cơ sở bản tính tốt đẹp truyền thống của dân tộc. Thật đáng buồn, chắc ai cũng hiểu không biết đến bao giờ ta mới “hội nhập” được cho bằng họ, chẳng hạn về mặt này! Ở đây có chuyện tương tự như trong kinh tế: muốn thu hút được nhiều vốn tốt bên ngoài thì ta cũng phải có “vốn đối ứng” mạnh. Chính vì vốn đối ứng văn hoá của ta đã bị suy sút nặng nề nên ta rất lúng túng về hội nhâp, vừa lạc hậu vừa yếu, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, và lại rối ren trong tiếp nhận.


Share/Save/Bookmark

Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2010

việt nam khai quốc: lời mở đầu (the birth of vietnam: author’s foreword)

Nguồn : Da Màu
Keith Weller Taylor
Chuyển ngữ: đinh từ bích thúy nhuận sắc

LTS: Học giả Keith Taylor hiện là giáo sư Khoa Khảo Cứu Á Châu (Asian Studies) ở đại học Cornell, New York. Ông thông thạo tiếng Việt và là cựu chiến binh đã sang đánh trận ở Việt Nam vào đầu thập niên 1970. Quyển The Birth of Việt Nam (Việt Nam Khai Quốc) được thành hình từ luận án tiến sĩ của ông (hoàn tất năm 1976 tại đại học Michigan), dựa trên những khảo cứu của rất nhiều tài liệu Trung Hoa, Nhật Bản, và Việt Nam, cùng những bằng chứng từ những địa thế được khai quật vào giữa thế kỷ 20. Ông sắp ra mắt quyển A Concise History of Vietnam (Lịch Sử Việt Nam Tóm Lược (Cambridge University Press). Gần đây, ông đã xuất bản tuyển tập biên khảo/nhận định Monde du Viet Nam (với Frédéric Mantienne) để tỏ lòng thành đối với Giáo sư Nguyễn Thế Anh (Paris: Les Indes Savantes, 2008).

Bác Nguyễn Lê Vỹ, thân hữu của Da Màu, đã mua bản quyền tiếng Việt của quyển Việt Nam Khai Quốc từ vị dịch giả hiện không muốn để tên trên bản dịch. Sau khi được sự chấp thuận của học giả Keith Taylor trong việc phổ biến bản dịch trên mạng, bác Nguyễn Lê Vỹ đã trao tặng Da Màu toàn bộ bản quyền tiếng Việt. Da Màu xin trân trọng cảm ơn bác Nguyễn Lê Vỹ.

Những chương trong quyển Việt Nam Khai Quốc sẽ được biên tập và lần lượt đăng tải trong mục học thuật của Da Màu.




Share/Save/Bookmark

Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2010

Top Ten ấn tượng Việt 2009

Nguồn : X-Cafe
Trương Duy Nhất

1. Bauxite, phản đối ấn tượng nhất: Có lẽ trong lịch sử, chưa có một chủ trương lớn nào bị giới công thần, trí thức và dân chúng phản đối dữ dội như khai thác bauxite Tây Nguyên. Tuy không làm thay đổi và chặn đứng được, nhưng không phải là sự thất bại. Ngược lại, đó là một thành công lớn cho liều thuốc thử dán mác trí thức, là một cuộc tập dượt công khai cho những phản biện xã hội buộc Đảng và Chính phủ phải giật mình cảnh giác và cẩn trọng hơn trước những quyết sách lớn.

2. Vụ kiện ồn ào nhất- kiện Thủ tướng: Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ phát đơn kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vì cho rằng Thủ tướng ký quyết định “trái pháp luật'' khi cho thực hiện các dự án khai thác bauxite Tây Nguyên. Đây là sự kiện lần đầu tiên trong lịch sử, một công dân dám viết đơn kiện Thủ tướng.

3. Câu nói “ấn tượng” nhất: “Hoàng Sa- Trường Sa là bãi hoang chim ỉa” (ông Ba Náo, nguyên Bí thư chi bộ, hiện là Chi ủy viên chi bộ cấp phường (TP HCM) phát biểu trong cuộc họp kiểm điểm nguyên Tổng biên tập báo Lao động Tống Văn Công).

4. Hình ảnh phản cảm nhất: Bị cáo Thiếu tướng công an Trần Văn Thanh bị khiêng đến tòa trong tình trạng nằm thở o-xy, bất động trên băng ca để xét xử về tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.

5. Hình ảnh phẫn nộ nhất: Hải quân Trung Quốc đuổi bắt, cướp và bắn ngư dân Việt.

6. Sự “đầu hàng” ấn tượng nhất: Nhóm trí thức thuộc Viện nghiên cứu phát triển IDS tuyên bố tự giải thể để phản đối quyết định 97/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

7. Bài báo gây phẫn nộ nhất: Báo điện tử đảng Cộng sản Việt Nam đăng bài tường thuật các cuộc tập trận của Hải quân Trung Quốc trên vùng biển Đông, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, như thể thừa nhận đó là biển trời của… Trung Quốc!

8. Phát biểu khôi hài nhất: “Hơn 3 năm làm Thủ tướng tôi chưa xử lý kỷ luật một đồng chí nào” (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thừa nhận trước Quốc hội rằng suốt 3 năm đương quyền ông không kỷ luật bất kỳ ai, và còn bảo rằng mình phải học tập cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, vị Thủ tướng cầm quyền lâu nhất, khi trong suốt 33 năm Thủ tướng Đồng cũng không hề kỷ luật một đồng chí nào).

9. Chiến lược nhân sự “ấn tượng” nhất: Đến năm 2020, Hà Nội sẽ là “thành phố tiến sĩ” với mục tiêu buộc 100% cán bộ khối chính quyền diện Thành ủy quản lý phải có trình độ tiến sĩ!

10. Từ thiện kỳ cục nhất: Trào lưu cởi áo tụt quần chụp ảnh nuy để làm… từ thiện của các hoa hậu, người mẫu, diễn viên điện ảnh. (Đây là sự kiện văn hóa duy nhất lọt vào bảng topten ấn tượng Việt 2009).


Share/Save/Bookmark
Related Posts with Thumbnails