Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2009

Quần đảo ngục tù (4)

Nguồn : Talawas
Kỉ niệm 39 năm Nobel văn học
Aleksandr I. Solzhenitsyn (8/10/1970)

Quần đảo ngục tù (4)
Aleksandr I. Solzhenitsyn

Ngọc Thứ Lang, Ngọc Tú dịch

Phần II - Đến đi, đi đến

1. Những chuyến tàu đi đảo

Quần đảo nằm đâu? Nó rải rác một dọc dài cả ngàn hòn, từ eo Bering chạy tuốt xuống vịnh Bosporus! Nó lù lù đấy nhưng vẫn là vô hình. Cũng như những thằng dân quần đảo, đám nô lệ có trọng lượng, cũng choán một khối lượng phải chuyển dịch từ đảo này sang đảo khác không ngừng nghỉ nhưng chớ cho ai thấy.

Chuyển dịch bằng phương tiện gì, đi tàu nào?

Có chứ? Có bến lớn là những khám tạm, chờ di chuyển. Bến nhỏ là trạm tiếp nhận. Chuyên chở đã có những con tàu vỏ thép nằm ngoài kè đợi những toa xe zak cũng bọc thép chở người đến đúng ngày đúng giờ. Nếu cần gấp rút sẽ có cả đoàn công voa chuyên chở rặt tù, đưa từ bến này tới bến kia.

Đừng tưởng thường! Đó là cả một lịch trình sắp xếp nghiên cứu cả chục năm dài bởi những đầu óc nhàn nhã, no đủ để tiến hành công tác sao cho nhịp nhàng, có hệ thống. Ngày lẻ công voa Kineshma nằm chờ ở nhà ga lớn Mạc Tư Khoa đúng 17 giờ chiều để đón tù từ các khám Butyrki, Krasnaya Presnya, Taganka. Ngày chẵn công voa Ivanovo sẽ tới đúng 6 giờ sáng để đón thêm người từ các khám Nerekths, Bezhetsk và Bologeye đưa đi luôn.

Công tác chuyển vận đều đặn, đúng ngày giờ như vậy, gần gụi kể như đụng vào mắt anh vậy mà vẫn không thấy. (Thấy làm gì, nhắm mắt lại!) Cố nhiên vì lý do an ninh bảo mật, đám tù bẩn thỉu đâu có đi chung sân ga với hành khách. Đã có sẵn toa riêng ở tuốt xa xa, chỉ nhân viên phụ trách đường rầy hay biết. Ở các ga nhỏ những hành lang sẽ được cấp thời dựng lên, ngăn ra bít bùng. Người ngoài nhìn vô không thấy mà tù có muốn nghênh ngó nhìn ra để kiếm người nhà cũng vô phương. Nhiều khi khỏi cần nhìn thấy toa xe, cứ theo chân thằng đi trước mà đặt bước. Kẻ trước người sau dồn tới, chỉ khựng lại chút đỉnh nếu bục lên xuống ở toa xe cao cỡ lưng chừng ngực. Dọc hai bên hành lang kín mít đã có toán hộ tống chia nhau đứng chặn luôn miệng hối thúc, nạt nộ: "Mau lên, gấp gấp lên chớ?" Nếu cần sẽ có những mũi lưỡi lê thúc kèm theo!

Anh có thể ra ga đáp xe lửa đi cùng chuyến xe nhưng hối hả, bận con nít và hành lý đâu có để ý được tới một toa hàng hoá vừa móc thêm vô đoàn xe. Toa chở hàng nào chẳng bít bùng, không dấu hiệu? Nhưng ở đầu toa, chỗ chòi cao cao tại sao lại ló ra một người lính? Mỗi người ngồi một đầu, xe ngừng là trèo lên nóc toa, tay cầm súng đi lại, mắt dòm chừng xuống dưới.

Xe chuyển bánh mang theo toa tù. Cùng đoàn xe với anh, cũng chạy ngang ngần ấy phong cảnh cũng dọc theo đường rầy ngoằn ngoèo rắn lượn, cũng thở chung làn khói với anh (trước anh vài giây đồng hồ) và cùng chung sinh hoạt đoàn xe có một đám người chen chúc nhau, dồn cả trăm mạng vào một toa. Những con người thân xác từng đau khổ, rã rời vì hành hạ tra tấn, tinh thần đang căng thẳng vì số mệnh chưa biết đưa đẩy tới đâu. Ca-bin ngồi 4 người anh còn lấy làm khó chịu vì chật chội, chung đụng – Toa zak đằng trước ca-bin cũng chừng ấy chỗ mà 14 người, 24 người và có thể 34 người đấy!

(Bạn đừng lấy làm lạ, Zak mà. Trong "kỹ nghệ ngục tù" các ông lớn ưa xài danh từ đặc biệt. Phải zaklyuchennye là "toa xe chở tù" mới nghề nghiệp! Danh từ dài lòng thòng đó chỉ nằm trong hồ sơ nhà tù, vì tù quen xài chữ tắt, chỉ zak là đủ. Họ còn gọi toa xe Stolypin hay Stolypin, lấy tên ngay ông kỹ sư đã chế ra kiểu toa đặc biệt chở tù hồi đầu thế kỷ).

Cho đến cuối thế kỷ XIX nhà nước đưa tù đi đày Tây Bá Lợi Á còn áp tải bộ hoặc xe ngựa. Năm 1896 xe lửa khá phổ thông nên Lenin đi đày Tây Bá Lợi Á được đi toa hạng 3 và ngồi chung với hành khách. Nghe nói người còn la nhân viên Hoả xa xe quá chật chội! Bức danh hoạ Đời sống muôn nơi của Yaroshenko cho thấy toa xe hành khách hạng 4 cải biến thành xe chở tù chẳng có gì khác, ngoài 2 lớp lưới sắt chăng cửa sổ. Năm 1927 vẫn xài y kiểu toa xe đó, chỉ phân biệt nam nữ. Theo tù già Trushin đảng viên Cách mạng Xã hội thì thời Nga hoàng chở tù đi đày có toa xe Stolypin mỗi ca-bin 6 người thay vì 4.

Một toa Stolypin đại khái chia 9 ca-bin thì tù chỉ choán 5 (đó là luật quần đảo: thầy chú một nửa, tù một nửa!). Ở giữa chừa lối đi, ca-bin nằm bên, ngăn chấn song sắt từ sàn tới nóc, toa in hệt chuồng nhốt thú. Dĩ nhiên ca-bin không có cửa sổ mở ra ngoài nên trông như toa chở hàng. Chỉ có một hàng lỗ thông hơi ở lưng chừng, gần nóc toa. Cửa vô ca-bin là cửa kéo, bằng sắt. Nhà hoạ kiểu sắp xếp cho 6 tù ngồi 2 hàng ghế dưới, 3 đứa nằm ngăn giữa và giá để hành lý gần nóc toa còn thêm được 2 mạng. Mỗi ca-bin 11 tù nhưng thực tế bao giờ cũng thêm ít nhất 11 mạng nữa mà lính gác ấn vô bằng đế giày. Vậy phải sắp xếp lại. Giá hành lý vẫn co ro 2 đứa nửa nằm nửa ngồi, 5 đứa chiếm chỗ nằm ngăn giữa (đây là chỗ danh dự của các đàn anh, nếu không phải giải quyết bằng tay chân. Nếu tù chính trị và tư pháp đi chung thì đương nhiên đây là giang sơn của dân chơi!) Còn lại 13 thằng thì 10 đứa chia 2 hàng ghế dưới, 3 thằng chiếm sàn cộng thêm những gói, ba lô, va li quần áo ngổn ngang trên dưới thì đủ chỗ như trong một hộp cá mòi!

Chật chội như vậy nhưng đừng nói tù bị hành hạ! Chiến sĩ lao động Cải tạo, phải giữ gìn cho họ còn đủ sức khoẻ mới sản xuất đủ tiêu chuẩn chớ. Nhưng đòi hỏi tiện nghi du lịch thì khỏi! Công dân tự do đi xa có trả tiền còn mệt mỏi thì dân quần đảo đi đến nơi về đến chốn là may rồi. Bộ chàng rể đưa vợ về thăm nhạc gia chắc?

Trước năm 1950 xe lửa Xô Viết chạy như rùa bò, thời khoá biểu co giãn nên đi tù đày là phải mất mấy ngày cá hộp liền. Bây giờ văn minh hơn, chỉ một ngày tới ngày rưỡi. Thời chiến và mấy năm sau chiến tranh mới là cực khổ tối đa. Tù đi đày chất trong toa xe Stolypin cỡ 7 ngày là thường quá. Ăn uống, bài tiết, thức ngủ gì cũng giới hạn hết trong ca-bin, không có vấn đề xê xích, di chuyển. Tháng 8 năm 1945, Susi được đưa từ Kuibyshev tới Chelyabinsk mỗi ca-bin lính gác tấn vô 35 mạng bắt buộc tù phải nằm sấp lớp đè lên nhau, tranh chỗ nhau chí chóe suốt ngày đêm và đánh nhau lục đục (Ai bảo tù cong cưng, ngoan ngoãn không dám chiến đấu?).

Kỷ lục cá hộp và thời gian chịu đựng hình như là của Timofeyev-Ressovsky trong chuyến chở tù từ Petropavlovsk về Mạc Tư Khoa mùa thu năm 1946. Cũng toa xe Stolypin chia 9 ca-bin và tù chiếm 5. Mỗi ca-bin nhét 36 mạng tù đi, đúng 3 tuần lễ liền [1] . Mỗi lần hồi nhớ lại chuyến xe trở lại tự do nhà bác học đều rùng mình: không hiểu mình nằm hay ngồi nhưng chắc chắn Timofeyev-Ressovsky đã kẹt khúc giữa. Nghĩa là phía dưới người nằm la liệt, phía trên cũng chen chúc những người. Nhiều ngày liền cứ lơ lửng vậy vì chắc chắn chân không đụng được sàn xe! Dĩ nhiên những thằng nằm dưới bị đè nén cách đó thì chết quá dễ. Quả vậy, ngày thứ nhất chưa có chuyện. Từ ngày thứ hai trở đi, lính áp giải đã phải nắm chân những xác chết kẹt phía dưới kéo ra. Bớt được thằng nào đỡ khổ những thằng dở sống dở chết! Số xác kéo ra không được ghi nhận, chỉ biết dần dà 3 tuần lễ cũng đủ rộng chỗ để những thằng sống sót đi đến nơi về đến chốn.

36 con người dồn vào ca-bin vẫn dành cho bốn hành khách! Quả có ghê rợn, nhưng kỷ lục thì chưa chắc vì nước Nga dưới chế độ Xô Viết không có gì là giới hạn. Do đó nếu muốn nhét 37 mạng thì sau cùng cũng vẫn phải được. Vấn đề là phải thu gọn con người, sắp xếp lại để sử dụng tối đa từng phân khối khe hở còn sót lại ở các hóc kẹt, ở giữa khoảng những đầu, mình và chân tay, tổng hợp lại thế nào chẳng dư ra một chỗ? Vả lại sớm muộn thế nào chẳng có thằng chết kẹt, chết ngạt? Lôi bớt ra được một xác cố nhiên bớt đi được một chỗ cho đám còn lại. Hoặc nhét thêm vô nhiều thằng nữa!

Nhân chứng Korneyeva từ Mạc Tư Khoa bị đi đày cũng ngồi toa Stolypin, 30 đàn bà nhét một ca-bin đa số lại là những lão bà lãnh án tôn giáo. Tới trại thì 28 người phải cáng đi nhà thương. Tuy nhiên không bà nào bỏ mạng trong cabin vì may mắn trong đám có năm bảy cô trẻ đẹp mang án "giao du với ngoại nhân". Cứ thấy mặt lính áp tải là họ xúm lại rủa xả:

"Mấy anh khốn nạn, tàn nhẫn quá! Đày ải cả mấy bà già đáng tuổi mẹ mình, nằm ngồi chết chồng gần chết thế này sao?"

Mấy thằng tù mà "có ý kiến" vậy là chết chắc. Các em dù sao cũng dễ thương hơn nên lập tức những bà già nào coi bộ chịu hết nổi được chuyển ngay sang cát-xô thụ hình. Nếu trong khám cát-xô là địa ngục thì trên toa xe stolypin lại là thiên đường! Như đã nói ở trên một toa chia 9 ca-bin thì tù chỉ có 5. Bao nhiêu mạng cũng dồn vào 4 ca-bin, để dành ra 1 ca-bin làm cát-xô để cô lập những thằng cứng đầu, vô kỷ luật. Cát-xô chia làm 2 ngăn và tối đa cũng chỉ nhốt 3 hay 4 thằng phạm tội. Do đó được nằm cát-xô là tiện nghi không thua nhân viên Hoả xa đi theo chuyến xe!

Vấn đề ăn uống trên xe mới cực khổ trần ai. Tù mà đòi hỏi đồ ăn nóng, rau trái tươi trong khi di chuyển sao? Dĩ nhiên súp chẳng thể cho ăn sống được nên mới có truyền thống cá khô. Bánh mì có sẵn, để khô. Thảy cho mấy con khô là tiện lợi biết mấy. Cũng gọi là đồ ăn, chịu đựng mấy ngày có chết chóc gì. Chỉ có khát nước vô số kể, nhưng đâu phải nhà tù cố tình hành hạ cho chết khát. Chế độ cá khô áp dụng mọi thời, mọi nơi, từ Tây Bá Lợi Á xuống Ukraine. Vẫn biết toa Stolypin nào chẳng có một khu nho nhỏ gọi là nhà bếp bỏ túi nhưng lính áp tải xài còn không đủ, đâu đến mấy thằng tù hưởng. Cũng như mấy món đồ hộp vô cùng quý giá vậy!

Hãy có cá khô mà ăn! May mắn được một miếng khô cá chép biển Caspian, hay phân nửa con khô chầy. Nhưng được vứt tận tay thì cứ giữ lấy, bọc kỹ lại hay nhét lén trong túi áo. Phải chờ coi ga tới có được phát chút nước ngọt nào không đã. Hấp tấp, tham ăn là có chầu khát nước bỏng cả cổ họng.

Nửa con khô chầy gọn gàng, nhét vô đâu không được. Nó có lầy nhầy, nhám nhúa như mấy con khô trạch ranh con lổn nhổn những muối bột chát đắng. Khô trạch thuộc loại ướt át, dơ dáy để dành không được, nếu không các thầy chú đã chẳng hốt một mớ, thảy vào manh áo thằng nào đó để liệu mà chia nhau. Khô trạch là thứ phải vốc bằng tay, giữ không được liệng thì tiếc mà ăn vô chỉ khát nước mà khổ. Chẳng bù với khô cá chép to tướng liệng nguyên con vô sàn xe, tù có thể để lên đầu gối xé chia nhau mỗi đứa một miếng. [2]

Thông thường lính áp tải có lệ "có gì phát nấy" cho tù. Phát khô là có bánh mì, lâu lâu còn có cục đường. Chỉ sợ nhất lúc gã trưởng toán ghé đầu vô tuyên bố: "Bữa nay ráng nhịn nghe. Mấy người không có khẩu phần". Thế là nhịn thật vì không có khẩu phần thật! Có thể vì ban lương thực nhà tù "tính lầm", có thể lính áp tải hụt bánh, nên "mượn" của mấy thằng tù. Không phát bánh mì là nửa con cá khô cũng không luôn. Thà truất luôn thể cho đỡ bại lộ. Sức mấy tù dám kêu ca.

Ăn tiếng vậy còn đỡ lo. Nước uống mới là mối đe doạ thường xuyên vì xe lửa đâu có chở theo nước uống. Tới ga nào tiếp tế chẳng được, dù lâu lâu ưa kẹt bậy và vận chuyển khó khăn (không lẽ chiến sĩ Hồng quân thời bình mà phải quần quật xách nước lo hầu hạ đám phản động?) Số lính áp tải giới hạn, công tác quá nhiều lại phải chia 3 ca. Làm việc 8 giờ một ngày thôi chớ. Nào canh gác trong xe, ngoài xe, tới ga lo đi kiểm soát thành toa xe, leo lên nóc, chui xuống gầm gõ từng chút một. "Lỡ tù âm mưu đục một lỗ, đào tẩu dọc đường thì sao?" Còn phải lau chùi súng ống, học tập chính trị, quân sự mỗi ngày,

Thực sự toa tù phải đậu ra xa một chỗ khuất, công tác đi xách từng thùng quả có nặng nhọc. Phải chi tù được phép mang theo bầu nước, ca nước riêng! Mỗi ca-bin cổ lệ chỉ có 2 gáo uống nước của nhà nước phát, liệu chia tua mà xài với nhau cái điệu một thằng uống mấy thằng chầu nuốt nước miếng mà nước uống có ngon lành gì. Có khi nước lấy ở nồi súp de đầu máy ra đục ngầu, sặc sụa mùi dầu máy. Ăn thua gì, có mấy khi ở trong ca-bin có đủ ánh sáng đâu. Cũng như nguyên tắc thì "mạnh khoẻ, vô bệnh tật uống trước, sau đó đến ho lao và mấy thằng mắc chứng giang mai phải đợi sau rốt". Nhưng lát sau ca nước lại vục vô chậu, múc thêm nước, có tẩy uế gì đâu.

Đời sống trên công voa là vậy. Lo cơm nước, canh chừng đám tù đã là cả một trách nhiệm phiền phức. Lại còn vấn đề bài tiết mới rắc rối! Có ăn uống là phải có "cho chúng nó ăn nhiều chỉ mất công đưa đi vệ sinh". Luật lệ hộ tống buộc phải vậy thì càng cho chúng ăn uống ít đi càng đỡ mệt.

Đâu thể cho phép tù "bậy" trong ca-bin. Cả toa xe chỉ có một cầu vệ sinh ở đầu toa, đưa 1 thằng đi là phải 3 người "hộ tống": 1 binh nhất, 2 binh nhì chia nhau canh. Đứng trấn sao cho nó hết hy vọng vùng chạy, kể cả đứng sát vào cửa cầu tiêu mở he hé. Luật lại buộc chỉ cho đi từng thằng một mới là phiền phức. Một thằng đi mất 3 người đưa, còn 30 thằng chở trong ca-bin và tính cả toa xe là 120.

Vì vậy giờ cho đi cầu ầm ĩ rối loạn những hối thúc: "Lẹ lên, mất thời giờ quá!" Đi cũng như về bị 3 người hối thúc, nhiều thằng té thảm thương. Nhất là trường hợp gã Schultz một người Đức năm 1949 từ Mạc Tư Khoa đi Kuibyshev. Bị xô đẩy quá, hắn cuống cuồng nhảy lò cò làm trò cười cho mọi người. Một lần quá vội Schultz vấp té chỗ cửa cầu tiêu bị lính "hộ tống" giận dữ đánh đấm túi bụi, cất đầu dậy không nổi. Hắn đành phải bò lết vào trong cầu tiêu để tránh đòn. Vậy mà bà con còn cười được, cười lớn hơn! Nghĩ đến danh từ "thần tượng hoá cá nhân" của Stalin không khỏi xót xa.

Than ôi ngồi trên cầu vẫn còn bị hối! Còn gã lính gác ngồi ngất ngưởng chỗ chòi cao phía ngoài toa xe "theo dõi" bằng mắt và miệng chõ vô hét: "Đi cấp tốc, đủ rồi, còn chờ đợi gì nữa? Thằng số một vô là vừa rồi. Lẹ lên". Có cái la-va-bô nước dơ dáy tính thò tay vô rửa qua là bị nạt: "Đừng có thọc tay vô! Cút ra,". Còn nói gì tới xà bông có cũng không dám giở ra, lấy khăn lau sơ cái tay cũng hết dám! Đành lại lẹp kẹp đôi dép trên sàn cầu cực kỳ dơ dáy, vội vàng đi như ăn cướp trở về ca-bin. Đôi dép đó điềm nhiên bước qua tay, qua vai đồng bọn trước khi trở về đúng chỗ cũ trên nócc ca-bin, treo ngất ngưởng trên chân để mặc cho nước cứ thế nhỏ giọt,

Đàn bà đi "công tác vệ sinh" đại khái cũng vậy. Cửa ngoài không được phép đóng mà phải mở hé, vì một chiến sĩ Hồng quân vẫn phải đứng sát cửa trong canh chừng. Cũng có gã trưởng toán ra lệnh đóng cửa ngoài luôn. Sau cùng một phụ nữ bắt buộc phải công tác cọ rửa, lính canh bắt buộc vẫn phải đứng bên "theo dõi" kia mà.

Dù có hối thúc như điên thì 120 con người vẫn không thể làm xong công việc trong 120 phút. Phải trên 2 giờ! Mất đứt đi một phần tư ca còn gì? Dù tinh thần cao đến đâu, "hộ tống" mãi cũng phát mệt và tởm. Đó là lý do lính canh không bao giờ chấp nhận cỡ nửa giờ sau lại: "Xin phép sếp, cho đi". Thằng nào bày đặt đám đòi đi thêm là phải làm ngay trong ca-bin rồi phải tự tay bốc hốt mang xuống dưới cầu! "Ăn cho lắm vào". Cái mùi xú uế đó ai chịu nổi?

Thôi thì cứ giới hạn khẩu phần trước là vừa! Nước uống chỉ nhìn nhín thôi. Để giới hạn mọi phiền phức. Nhưng bánh khô, cá khô vẫn giữ phải phát. Luật bắt buộc vậy.

*


Xin đừng hiểu có sự cố tình hành hạ. Chẳng qua luật lệ bó buộc và sao cho tiện việc, như dân La Mã ngày xưa bị nhốt cũi sắt, lè những cái lưỡi khô rớm máu cho lính canh đổ muối lên mà thôi. Có mấy khi cố tình nhốt chung thường phạm cùng ca-bin với những người đi đày vì điều luật 58. Blatari vẫn cho đi riêng! Nhưng tù nhiều, xe ít , thời gian hẹp quá. Có 5 ca-bin thì 1 là cát-xô, 1 dành cho đàn bà. Còn có 3 cái thì sắp xếp, chọn lựa tư pháp chính trị mất công quá. Sao bằng sắp theo thứ tự nơi đến? Cùng đến một nơi nhưng nhốt chung cùng 1 ca-bin mới thuận tiện, hợp lý! Ngày xưa Pontius Pilate cho đóng dinh Đấng Christ, treo giữa 2 quân trộm cướp đâu phải nhằm hạ nhục. Tình cờ rơi trúng nhằm ngày hành hình, chỉ có một đỉnh Golgotha mà thời gian cũng gấp rút quá nữa. Vậy Đấng Christ có bị chết treo chung với bọn trộm cũng có sao đâu.

*


"Tôi chắc nếu mình là thường phạm sẽ bị đối xử tệ hại lắm. Bề nào chính trị phạm tôi cũng được bọn áp tải từ lính đến quan vì nể rõ, tiếng bị đưa đi đày khổ sai nhưng ngồi xe tương đối dễ chịu, có ca-bin riêng không phải chung đụng với thường phạm. Mớ hành lý cỡ hai chục ký lô còn có xe đẩy đi, không phải tự tay vác lấy".

Xin bạn đọc để ý giùm mấy hàng chữ trên in trong ngoặc kép. Ngoặc kép còn để làm gì, nếu không muốn gợi ý ngược lại một cách chua chát? Hay muốn phân biệt ra cho rành rẽ.

Vì đoạn văn trên chẳng phải của tôi mà trích từ hồi ký của tù già Yakuhovich cực tả đời sống tù tội những năm 1890, vừa được xuất bản ở Mạc Tư Khoa để ghi nhận một thời kỳ tăm tối, đau thương. Tolstoi cũng ghi nhận trong tập Hồi sinh. Hồi đó tàu chở tù đi đảo thì chính trị phạm cũng được dành ca-bin riêng, có lối đi dạo cho đỡ chồn chân. Ông Hoàng Nebkhlyudov còn được phép vô thăm hỏi. Cũng chỉ chờ 3 chữ mầu nhiệm chính trị phạm ghi lầm bên cạnh tên (chính đương sự thú nhận) mà đến trại khổ sai Ust Kara, phạm nhân Yukabovich được sếp giám thị vị nể.

Chính trị phạm là phải đổi khác, không được phép đánh giá như tù tư pháp. Thời buổi quý hoá vậy chớ. Đảng viên Cộng sản Oliminsky viết rằng: "năm 1899 thường phạm ra ga đi đày bị sắp hàng đi diễu ngoài phố để hạ nhục trước công chúng. Chính trị phạm có xe ngựa chở đến. Ngay ăn cũng không phải ăn cơm tù, có phụ cấp ẩm thực và có quyền nhận đồ ăn chính do nhà hàng đưa tới. Vì vậy khẩu phần nhà thương bị tôi từ chối vì nấu hỗn tạp quá!" [3] .

Thậm chí quản đốc khám Butyrki có lần phải xin lỗi chính trị phạm Olminsy vì một giám thị dưới quyền lỡ ăn nói xấc xược. Ông ta giải thích rằng: "Ở đây lâu lâu mới có chính trị phạm nên thuộc viên của tôi không quen tiếp xúc với mấy ông!".

Chao ôi, thời buổi sung sướng. Butyrki lâu lâu mới có chính trị phạm! Thời ấy chính trị phạm nằm đâu? Đâu đã có khám đường Lubyanka hay Lefortovo?

Nhà văn Radishehev bị xiềng xích đưa đi đày thật. Gặp trời lạnh được vứt cho một mảnh da cừu tươi, dơ dáy lấy đỡ của một phu Hoả xa. Nhưng sau đó chính Nữ hoàng Catherine ra lệnh phải trút bỏ xiềng xích và người cần cái gì phải cung cấp trong thời kỳ đưa đi đày. Ngược lại tháng 11 năm 1927 giữa mùa giá lạnh nhất, nữ phạm nhân Anna Skripnikova bị đưa từ Butyrki ra đảo Slovetsky vẫn phong phanh chiếc váy vải hoa, mũ rơm mùa hạ. Từ lúc bị câu lưu là nhà cửa niêm phong cứng, có ai cho phép gởi quần áo lạnh?

Thử hỏi giữa thường phạm và chính trị phạm có gì khác nhau, nếu chẳng phải quan điểm cá nhân? Tù chính trị có quan điểm, có lập trường do đó họ có ý thức tự do ngay cả khi bị bắt. Nhưng kể từ khi nhà nước có nhãn hiệu phản cách mạng (bọn KR!) và đến đảng viên Xã hội còn bị tước đoạt luôn mác chính trị thì chẳng gì làm mấy ông cai ngục ôm bụng cười và phạm nhân ngạc nhiên cho bằng xác nhận "Tôi là tù chính trị. Yêu cầu!" Lập tức giám thị sẽ long trọng tuyên bố: "Vô đây thằng nào cũng là thằng tội! Đó là một sự thực!"

Đó là sự thực ngỡ ngàng mở mắt thằng tù chính trị ngay từ hồi còn kẹt ở khám giam cứu hay trên chuyến xe đi đày. Nếu những trận đòn tra tấn tàn nhẫn, những mục thẩm vấn quay quắt liên miên đã khiến anh không dám xếp hạng những ông Mật vụ mũ xanh (họ là cán bộ Cơ quan, không thể nhầm lẫn!) thì hiển nhiên anh cũng phải nhận ra sự đồng loại giữa những thằng tội với nhau, những thằng đang chia sẻ một thân phận. Dù căn bản, trình độ và thực tế cuộc đời khác hẳn nhau. Có gây gổ nhau hay bị họ chèn ép, đàn áp thì cũng đến vậy. Cũng thằng tội như nhau! Chen chúc cùng một ca-bin toa xe Stolypin với nhau hiển nhiên là một đám cùng chung cảnh ngộ tù đày. Những kẻ thù, những thằng từng hành hạ mình nhất định phải ở bên kia, không thể cùng ở bên này, trong đám này.

Khốn nạn, vậy mà lúc ngước mắt nhìn lên ca-bin phía trên anh bỗng nhận ra 3, 4 khuôn mặt một lúc. Mặt người không phải mà mặt khỉ cũng không! Mặt khỉ phải lành hơn, có dáng suy tư hơn nhiều chớ. Không phải những khuôn mặt chịu đựng đau khổ đang xấu xa nhăn nhó. Nếu vậy đã có phần nào người! Rõ ràng 3, 4 khuôn mặt ác độc, hung dữ, biểu hiện của cả một thèm khát, nhạo báng. Hình như mặt nào cũng chăm chăm vào anh như nhận rình ruồi và anh đã bị màng lưới của nó giam hãm kỹ. Trên khuôn mặt đó hình như hai cánh môi đang mấp máy, nhem nhép sửa soạn táp mồi. Hình như chúng cũng cất tiếng nói. Không, chúng phát âm thì đúng hơn vì âm thanh gì rít rống, ấp úng khác lạ quá!

Những thân hình kỳ cục không người không khỉ đó thường đánh chiếc áo thun cộc. Ca-bin Stolypin hầm quá mà. Chợt hiện ra những phần cổ nổi ngắn, những bờ vai ăm ắp, những lồng ngực xâm trổ đến khiếp. Không gầy gò, trơ xương tù chút nào. Ô hay, ai thế? Họ từ đâu đến? Bỗng đâu lủng lẳng nơi cần cổ hiện ra một vật nho nhỏ, đong đưa. Một cây thánh giá xinh xinh, dĩ nhiên phải bằng nhôm. Anh chợt nghe lòng ấm hẳn lại, tin cậy hẳn. Dù sao có nó là còn có Đức Tin. Còn là người, không có gì e ngại hết!

Đúng lúc đó thì niềm tin vừa hình thành trong anh sụp đổ cái rụp. "Con người" mang thánh giá vừa buộc miệng chửi thề, tiếng chửi thô tục các ngài, lai căng, đểu giả. Thế rồi nó chĩa ra hai ngón tay, ngón trỏ và ngón giữa đâm thẳng ra và dứ dứ chọc vào mắt anh. Nó muốn nói: "Ê, thằng quỉnh, Ông móc mắt mày ra bây giờ!". Nó đâu có hăm doạ suông. Nó dám làm thiệt và làm tức thời, ngay đây, vì triết lý sống, đạo sống của nó là vậy!

Than ôi, cặp mắt quý giá của anh còn dám bị nó móc ra khơi khơi thì những gì của anh, bám vào người anh nó có tha bao giờ! Thốt nhiên cây thánh giá đua đưa, thấp thoáng trước cặp mắt và khuôn mặt ngơ ngẩn, khờ khạo của anh. Đầu óc anh choáng váng. Này, còn biết suy nghĩ gì nữa, trời? Nó điên hay anh điên. Thằng nào sắp điên?

Phút chốc bao nhiêu quan niệm của anh về cuộc đời này, về con người bỗng đổ sập. Thế này còn gì nữa? Cuộc đời anh trước khi bị bắt kể bỏ đi. Nhưng ngay cả sau khi bị bắt thì người với người giao tiếp với nhau vẫn phải bằng lời. Bằng tiếng nói của người. Thẩm vấn, hạch hỏi cũng vẫn người nói với người, để rồi người có thái độ, người phản ứng. Hoặc ra lệnh, hoặc chấp nhận cũng vẫn là con người nói với nhau. Nhưng động tác anh vừa chứng kiến đã vượt ra khỏi ngôn ngữ của loài người, ở ngoài hẳn sự tương quan giữa người và người. Một đại diện trong số 3, 4 khuôn mặt ấy sẽ mò xuống – thông thường là một đàn em côn đồ, mất dạy ra mặt. Chính nó cởi gói đồ của anh, thọc tay vào túi anh, điềm nhiên như của nó. Vậy thì anh còn gì nữa? Anh ngây người ra như tượng gỗ, thây kệ cho nó bóc lột. Lên tiếng phản đối, la lối hay một cử chỉ phản kháng, giằng co làm gì với nó hoặc với mấy thằng trên ấy? Chúng nó đâu phải người. Đúng thế, với thằng đàn em, hay 3, 4 thằng già đầu kia chỉ có một cách đối phó và đập. Đừng nói. Đập là xong.

Từ dưới này đập với lên sao được? Mà thằng khốn cướp trắng trợn bỉ ổi thật nhưng nó cũng không ổn. Hay là xô nhẹ nó ra? Không được. Ngay bây giờ chính nó có thể xô tới cắn phập một phát cho anh đứt mũi. Hay bất thần từ trên dộng xuống cho anh bể đầu. Dao nhọn chúng có, nhưng với anh thì rút làm chi, lụi làm chi cho dơ lưỡi dao?

Anh đành liếc nhìn bè bạn chung quanh, mấy thằng điều 58 Hình Luật như nhau. Để coi, có nên kháng cự lại chăng? Ô hay, sao họ im lặng, họ dửng dưng như không thấy gì, chính họ là những người từng bị lột dễ dàng in hệt? Họ ngồi co ro, gục mặt và hỡi ơi rõ ràng họ nhìn anh như mọi lần vẫn nhìn. Họ toạ thị điềm nhiên trước một chuyện ắt phải xảy ra, như cỏ mọc như mưa rơi!

Mà thôi, xét ra đúng lúc phải chống cự nhất thì họ cũng như anh đã điềm nhiên toạ thị mất rồi, lúc phải nhìn lại gương Struzinsky châm lửa thiêu sống trong xà lim ngục Vyatka, lúc bị nhà nước gán mác "phản cách mạng".

Vậy anh mới để cho mấy thằng côn đồ "mượn" đỡ chiếc áo lạnh, lục lọi trong người "mượn" luôn tờ giấy bạc 20 rúp khâu kín dưới ve áo và ngó bọc đồ của anh bị thảy lên trên đó để chúng lục soát "tịch thu" tất cả những gì bà vợ yêu gởi cho chồng mang theo đi đày. Đúng, chúng thảy xuống cho anh thì còn gì đâu, ngoài chiếc bàn chải răng?

Phải nói thật là không phải ai ai cũng chịu để chúng "thịt". Khoảng 1930, 1940 chẳng hạn, chỉ 99 phần 100 thôi [4] . Khốn nạn, toàn những đàn ông, chiến sĩ tiền tuyến cả!

Thì ra muốn làm gan đập thì phải biết mà chuẩn bị sẵn, chờ chúng ta ra tay là đập. Không ngờ có chuyện này xảy ra, không ngờ bọn blatnye bóc lột là hỏng! Cứ ngây thơ tưởng đã làm cảnh tù đày chỉ phải đối phó với thầy chú là sai lầm tai hại. Còn phải "đụng độ" chán mới thấm thía rằng côn đồ với thầy chú chỉ là lá mặt lá trái của một cây bài, đúng định luật câm: "Chú khi ni, mi khi khác". Mới đi tù quen tự coi mình tù chính trị, đứng về phía nhân dân chống lại nhà nước ắt không khỏi bốn phương tám hướng đều có kẻ thù chia nhau xâu xé. Lúc bấy giờ đầu óc mới quay cuồng, không biết đường nào mà mò cho đến lúc tỉnh táo nhận ra rằng Mũ xanh hay xâm ngực vốn tuy hai mà một.

Muốn gan dạ đập lại thì ít nhất phải có cảm giác an toàn. Sau lưng có chỗ dựa, hai bên sườn là đồng minh và, chân đi vững vàng trên đất. Những điều kiện đó tù đi đày điều 58 không có! Về mặt vật chất thì ngồi trên xe Stolyphin thân thể đã bầm dập, tơi tả, không còn hơi sức sau những trận đòn, nhịn ăn, cấm ngủ, biệt giam gần chết cóng. Tinh thần là cả một sự sụp đổ để thấy rằng tư tưởng mình sai lệch, cuộc đời đi không đúng hướng và bạn bè đồng chí cũng chẳng cần biết gì, chẳng còn gì. Chỉ cần sống. Điều 58 Hình Luật quả có tác dụng đè bẹp một con người, tách rời nó một lần và vĩnh viễn. Nó sẽ thấu hiểu rằng lỗi lầm trọng đại và tệ hại nhất hồi còn tự do ở ngoài đời là dám nghĩ đến việc kết hợp nhau đi khác con đường của Đảng, của nhà nước. Thậm chí trong tù nó đâm sợ bất cứ cái gì làm chung hay có dây dưa với một người nào khác. Hai thằng tù cùng thắc mắc một điểm, cùng ký tên chung một bản thỉnh nguyện. Nghĩ đến hợp tác, cộng tác là ngán và còn ngán lâu. Ngán đến độ không dám sẵn sàng hợp lực để đối phó với côn đồ nữa! Ở trên xe, ở khám dọc đường tù "chính trị" đâu dám nghĩ đến một con dao, một cây gậy. Một là dao, gậy để làm gì, để đánh ai? Hai là đã bị dính vô điều 58 mà giở đến dao đến gậy dám bị ra toà xử lại, xử bắn lắm. Ba là chưa dùng đến mà bị lính xét lòi ra dao, gậy cũng nguy hiểm quá. Thường phạm chỉ vì phạm luật nhà lao hay côn đồ là cùng. Dân 58 thì chắc chắn là khủng bố hết chối.

Sau hết, đa số những kẻ bị đi đày điều 58 đều thành phần hiếu hoà, nhiều người có tuổi hoặc thể chết yếu đuối. Đó là những người cả đời chỉ văn chương chữ nghĩa chớ không chuộng quả đấm. Bị bắt cóc rồi cũng vẫn vậy chớ không hơn.

Trong khi đó đám trộm cướp tuy cùng chuyến xe đi đày nhưng họ đâu bị thẩm vấn, điều tra. Hai chầu hỏi cung, một phiên xử là thành án mà án cũng chẳng mấy khi ở hết. Không khoan miễn giảm án cũng vượt ngục [5] . Sung sướng nữa là thời kỳ giam cứu, chưa thành án vẫn có quyền nhận đồ tiếp tế từ ngoài gởi vô. Tiền "làm ăn" còn giữ được, thân nhân hay đồng nghiệp phụ trách "thăm nuôi" thì phải biết là no đủ! Họ có nhịn ăn một ngày, gầy ốm đi ký lô nào. Di chuyển lại có quyền ăn trên lưng bọn tù Frayera [6] mà họ liệt vào hạng nhà quê, cả quỉnh làng xã. Đối với dân blatnye, luật pháp không xuống tay nặng đã đành mà hình như họ còn vinh dự vì 3 chữ "tù tư pháp!" Thái độ của thầy chú còn làm cho họ có lý do "lên" nữa:

"Cướp, trộm hả? Có sao đâu, cho dù có mang án sát nhân, cũng còn hơn mấy thằng phản quốc! Có cơ hội là còn cải hoá được".

Ưu điểm của tù tư pháp còn thấy rõ ở điểm không bị những khoản 11 chi phối. Tù điều 58, thêm khoản 11 là CÓ TỔ CHỨC rồi! Trái lại luật pháp không nhằm đối phó với bọn ăn cướp có tổ chức, nhà nước không trừng trị tổ chức cướp, trộm. Cướp trộm có tổ chức cũng quét dễ cái một!) Có dấu võ khí cũng chẳng sao, luật lệ giang hồ còn được tôn trọng (thì ăn trộm, ăn cướp hiển hiện là vậy rồi!) Thậm chí giết người trong xà lim không bị chồng án mà xem ra còn được vị nể thêm.

Tù tư pháp thực sự được chế độ ưu đãi từ lâu. Họ bất quá chỉ bị roi như vô kỷ luật, không tôn trọng luật pháp. Làm cách mạng phản đế nương dựa được vào bọn họ! Năm 1901 Stalin còn bị các đồng chí cùng ở tù kết án lợi dụng tù tư pháp để chống lại các đối thủ chính trị và từ 1920 trở đi nghiễm nhiên coi họ như "đồng minh". Quan điểm Makarenko cũng vậy khi ông ta khẳng định "tội ác thực sự bắt nguồn từ môi trường phản cách mạng" do đó trộm cướp còn cải hoá được. Thành phần rác rưởi, vô phương cứu vãn là đám kỹ sư, tu sĩ, đảng viên Men-xơ-vích, Cách mạng Xã hội.

Vì vậy mấy chục thằng phản động nhát nhúa quen cong lưng chống cự sao nổi vài ba đứa "vô kỷ luật" hè nhau bóc lột? Gọi là "đồng minh" cố nhiên người nhà nước đã lờ đi cho họ làm. Đó là sự thực trắng trợn, ngờ ngờ! Bằng không nếu không dám đấm đá, giằng co thì những thằng bị lột vẫn còn mồm để thưa gửi, kêu cứu chớ. Chỉ cần la một tiếng là lính gác phụ trách hành lang bắt buộc phải nghe thấy. Cách nhau có 1 mét không lẽ người nhà nước không can thiệp.

Người nhà nước không can thiệp vì nạn nhân không cầu cứu. Cầu cứu làm chi khi chính xác các đồng chí hộ tống cũng cùng quan điểm Makarenko? Tệ hơn nữa là bao lâu quen dung dưỡng "đồng minh", người nhà nước nay bọc xuôi theo "đồng minh", và đặc biệt trên công voa hộ tống thì làm "đồng minh" luôn.

Lính hộ tống thực sự cũng bóc lột tù, cũng ăn giựt. Nhất là trong khoảng 10 năm giữa thập niên 1930 và 1940, thời kỳ tù phản cách mạng bị đàn áp mạnh nhất, tù tư pháp dám làm lộng nhất! Nạn bóc lột gần như công khai nhưng có nghe nói lính hộ tống chưa can thiệp một lần nào. Chỉ thấy trước mắt vô vàn những chia chác giữa "đồng minh". Có "mượn" được món đồ tốt là đút lót các đồng chí hộ tống, đổi lại được tiếp tế Vodka, săng-úych và nhất là thuốc lá! Xét ra cũng chẳng có gì lạ. Thầy đội trưởng toán áp tải có súng thật nhưng tất cả mọi vật sở hữu trong người từ chiếc áo dạ, đôi giày đến cà-mèn cơm đều là đồ nhà binh phát, nghĩa là những vật dụng hạng tồi. Có dễ gì trấn áp được khi thấy thằng tù phản động dưới tay mình nào áo nào mũ nào bốt-da toàn thứ chiến? Lại đầy một bọc đầy những vật lạ trưởng giả thành thị tại sao không động lòng tham? Tại sao không có quyền tịch thu, huống hồ đã có "đồng minh" ra tay thay và sẵn sàng nạp lại? Nếu có sự phân cách, tại sao không san bằng chính cái hố sâu ngăn cách đó?

Hai năm 1945-1946 lớp tù đi đày phản động từ Âu châu trở về. Họ mang trong người, bọc trong hành lý nhiều món đồ lặt vặt, hiếm có quá! Sĩ quan đi hộ tống cũng động lòng tham, cứ gì trung sĩ? Thời chiến không được ở ngoài mặt trận để vơ vét chiến lợi phẩm, thời hậu chiến có dịp sao không bọc lột lại?

Thì ra chẳng phải vì ít thì giờ, vì thiếu chỗ nhốt hoặc vì muốn thuận tiện công việc mà có vụ giam lẫn lộn thường phạm và tù chính trị trong cùng một ca-bin toa xe Stolypin? Phải tạo ra sự chung đụng, hỗn tạp, các "đồng minh" blatnye mới có cơ hội "làm ăn". Con mòng có những cái gì đáng lột và lột bằng hết để những gì đáng chuyển giao thì cho chúng chạy vào ba lô các thầy chú hộ tống! Nào trash (những quần áo, giày dép giá trị của nhà giàu) nào bao nhiêu thứ bacilli béo bở (đường, sữa, bơ).

Muốn lột con mòng thì phải có các "đồng minh" nhằm sẵn trong ca-bin. Nhưng có phải muốn có "đồng minh" lúc nào cũng được? Lỡ trên xe không có, chuyến xe sắp chuyển bánh và những khám đường cũng không có thì sao?

Năm 1947 có toán lính hộ tống được lệnh áp tải một số tù ngoại quốc từ Mạc Tư Khoa tới Trung ương khám đường Vladimir. Điệu này trúng mối lớn! Chỉ nhìn chỗ hành lý, bao nhiêu va-li căng phồng mở ra xét qua là biết hết. Một cuộc tịch thâu diễn ra tức thời. Để không giấu lén được một cái gì, tù phải cởi trần truồng ngồi thứ tự trên sàn xe, ở sát nhà cầu. Xét món nào là "di chuyển" món ấy. Có lẽ toán hộ tống choá mắt quá quên bằng một điều sơ đẳng: đám tù này không đưa đi trại Cải tạo mà đến một khám đường! Đến khám đường là có tổ chức đàng hoàng, tù có quyền làm đơn khiếu nại. Do đó, Korneyer tố cáo.

Thế là phải điều tra. Toán hộ tống "ăn cướp" bị truy ra tức thời, từng người một bị khám xét và lòi ra gần đủ mặt "chiến lợi phẩm". Những món đồ mất không truy ra được nhà nước bồi thường bằng tiền mặt. Nghe nói mỗi vị hộ tống đều bị quất từ 10 năm tới 15 năm, nhưng án tư pháp dễ khoan hồng quá!

Phải chi ông trưởng toán sáng suốt một chút chắc đã không dám rớ tới "món hàng" ngoại quốc này. Càng mập càng khó nuốt! Trường hợp dưới đây khác.

Tháng 8 năm 1945 có chuyến đi đày từ Mạc Tư Khoa đi Novosibisk, có mặt cả Susi. Trên toa Stolypin không có một dân chơi. Đường xa, xe chạy rề rề. Đợi đúng lúc thuận tiện nhất, ông trưởng toán hộ tống ra lệnh khám xét. Từ ca-bin tù phải bước ra từng đứa một, cởi trần truồng đứng ngoài hành lang. Dĩ nhiên lúc bước ra phải xách theo hành lý. Đâu phải khám xét những món đồ bất hợp pháp. Kêu từng người ra thì chuyền tay nhau giấu trong ca-bin quá dễ. Ông sếp chỉ giương cặp mắt hau háu ngó đám ba-lô, ngó túi mấy thằng tù tình nghi con mòng. Bề nào cũng sĩ quan, không lẽ tự tay xét? Đành kiêu kỳ đứng một bên để gã trung sĩ đàn em "làm ăn". Nhưng vẫn không giấu được ai vì không quen giấu được sự thèm muốn! Phải chi có một "đồng minh" thì tiện biết mấy.

Không có dân blatnye chính hiệu thì coi, thế nào, chẳng có thằng đi dây điều 58 đổ đốn, sẵn sàng làm công việc "đồng minh". Tù khổ sở quá, những gương ăn cắp nhan nhản, tội gì giữ tư cách mãi. Thế là có 2 ông sĩ quan, 1 Hải quân là Sanin, 1 Bộ binh là Merezkhov động lòng và đồng tình xung phong.

Bắt thóp được sự thèm muốn của Trung úy trưởng toán, Sanin bèn tự nhận đại diện ca-bin xin gặp sếp. Đó là một sự lạ nhưng sếp cho gặp liền. Ca-bin kế bên cũng có ông đại diện tương tự.

Ngay sáng hôm sau, giờ phát bánh mì có chuyện lạ. Cổ lệ khẩu phần ăn đường hàng ngày của tù là 450 gam bánh. Sáng nay chỉ có 180 gam. Bánh phát xong là bà con xầm xì. Xầm xì chớ đâu dám lên tiếng, thay mặt tập thể chất vấn. Mãi sau mới có thằng dám hỏi gã phát bánh:

"Sếp coi, khúc bánh mì này cỡ bao nhiêu gam?"

"Đúng khẩu phần hàng ngày".

"Sếp cho cân lại. Khẩu phần này tôi từ chối".

Hắn lớn tiếng. Ca-bin lặng thinh. Có thằng tính bẻ bánh ra ăn cũng chùn lại. Lỡ ra được cân lại thực thì sao? Sĩ quan trưởng toán hộ tống xuất hiện, quân phục chỉnh tề, oai nghi hơn thường lệ và oai vệ hỏi gặng:

"Thằng nào vừa phát ngôn chống nhà nước đấy? Thằng nào?..."

Cả ca-bin nghẹt thở. Cha thằng nào dám hó hé, dám đứng lên nhận ngay cái tội tày đình? Đang lãnh án đi đày vì tuyên truyền chống nhà nước mà lại bị quất thêm tội phát ngôn trước công chúng và người nhà nước thẩm quyền thì nát xương!

"Thằng nào hó hé, toan xách động phiến loạn vì mẩu bánh mì đấy?"

Bao nhiêu cặp mắt chiếu vô thằng tội phạm ghê gớm! Chẳng trốn chạy nổi, gã đứng lên ấp úng:

"Trình sếp, tôi chỉ muốn nói..."

"À, mày! Thằng khốn, mày tính chống đối?"

(Đúng, hắn chống đối thực sự. Chống mẩu bánh quá nhỏ chớ chống nhà tù, nhà nước làm chi? Biết vậy thà bóp bụng một chút còn hơn!).

"Thằng phản động tồi bại! Tội mày đáng treo cổ, cho ăn là tốt còn đủ can đảm đòi cân lại bánh. Nhà nước không bỏ đói, cho mày ăn uống mà còn dám bất mãn. Mày muốn chết chắc? Lính đâu, lôi cổ thằng khốn ra. Tống nó xuống cát-xô đã, nào còn thằng bất mãn nào ra đây? Còn thằng nào xách nhiễu bánh ít bánh nhiều không?"

Thấy "thằng bất mãn" bị kéo cổ ra, cha thằng nào dám xách nhiễu! Bây giờ không phải bánh ít, bánh nhiều nữa. Mà từ nay sẽ là bánh phạt, cho cả ca-bin, cho tới khi đến Trại! Phải hiểu bánh đã thiếu thì sức mấy còn đường? Số bánh mì, đường đã bị sung công, tiếp tế thêm cho toán hộ tống công voa. (Vụ ăn chặn bánh và đường đã diễn ra đúng vào năm Hồng quân chiến thắng 2 kẻ thù lớn nhất là Đức và Nhật).

Một ngày thiếu bánh chỉ khó chịu. Ngày thứ hai bắt đầu thấm mệt để thấy bị phạt bao tử chỉ có thiệt. Chống đối là ngu. Lúc bấy giờ "đại diện" Sanin mới có một ý kiến khôn ngoan:

"Cứ đà này anh em mình sợ chịu hết nổi. Sức đâu chống chọi cho đến khi tới nơi? Theo tôi, tội gì anh em mình chịu đói? Anh em nào có chút đồ giá trị chút đỉnh không? Đưa tôi coi, tôi có cách ngoại giao, trao đổi với họ".

Một vài người chịu đói may mắn chìa ra, gom góp vô để Sanin làm bộ chê món này, nhận món này. Một vài người không chịu. Thà đói! Một vài người ngần ngừ, chìa thêm đồ ra. Sau cùng Sanin cũng thâu được một mớ và lấy tư cách đại diện xin ra gặp Trung úy. Cả Merezkhov cũng xin theo ra.

Lát sau 2 kẻ từ ca-bin gác bước ra, mang theo một mớ bánh mì xắt khoanh thực ngon. Lại có thêm mớ thuốc rê! Đại diện Sanin làm công tác chia chác. Dĩ nhiên thằng nào có lòi đồ ra mới có quyền thụ hưởng, cộng thêm 2 ông sĩ quan có công "ngoại giao". Anh em khác nhịn hết. Đó là một sự công bằng, hợp lý mà anh em không trách vào đâu được. Bản chất của trao đổi là vậy mà. Mấy người mất đồ cũng tự an ủi thà bỏ ra bây giờ còn no bụng chút đỉnh. Khư khư giữ lấy đồ có chắc gì giữ được mãi không?

Có thêm mớ bánh là hể hả lắm. Dù kẻ ăn người ngó! Lát sau thế nào chẳng có tí khói vì thuốc rê chia chác cho nhau dễ chớ đâu có khó khăn như mấy lát bánh mì. Quả nhiên "khói tập thể" bốc lên, khét um cả ca-bin. Lúc bấy giờ mấy anh có đồ mới tiếc, tới Sanin gạ đi "ngoại giao" giùm nhưng hắn từ chối, để khi khác!

Mấy năm hậu chiến xe lửa chạy chậm rề rề. Mỗi lần thấy toa, móc toa Stolypin mất quá nhiều thời giờ nằm ga chờ đợi nên đi Kuibyshev phải mất một tuần lễ. Vì vậy lính hộ tống mới đủ điều kiện sắp đặt vụ bóc lột tỉ mỉ và nói cho cùng chỉ những năm quá thiếu thốn ấy con người ta mới thèm muốn quá đáng những thứ thật tầm thường. Một tuần lễ liền mỗi ngày tù được phát không hơn 200 gam bánh (và cá khô, nước lã). Muốn được đủ phần bánh của nhà nước phát phải có gì trao đổi, mà số cung mỗi ngày vượt quá xa số cầu nên lính hộ tống còn có quyền kén chọn.

Kuibyshev chỉ là khám tạm dọc đường. Đặc biệt tù được xuống xe áp tải đi tắm rồi trở về toa xe cũ. Từ đây đổi toán hộ tống mới nhưng công tác đổi chác vẫn tiến hành in như cũ vì lính cũ lính mới đã có cuộc "bàn giao" cần thiết. Điều đó chứng tỏ nạn bớt bánh đổi đồ phổ biến mạnh trong tất cả các đơn vị hộ tống.

Vừa đặt chân xuống nhà ga Novosibirsk, còn đứng ngơ ngác giữa hai đường rầy đã thấy một ông sĩ quan tất tả chạy ra đón. Câu hỏi đầu tiên là: "Có ai thắc mắc, khiếu nại gì về đoàn hộ tống không?" Chẳng thằng tù nào lên tiếng, đến được là may rồi! Nước Nga vốn dĩ vậy, sếp đoàn hộ tống đầu tiên nghĩ ra công tác trao đổi thật hay.

*


Tù đi đày xe Stolypin còn khác mọi hành khách ở chỗ không hề biết sẽ đi đâu. Đi miễn phí, khỏi mua giấy không được coi bảng ghi trạm đến thường treo ở vách toa hành khách. Ngay lúc lên xe cũng là một bí mật: toa Stolypin có chỗ đậu riêng xa sân ga mà Mạc Tư Khoa có tới 8 nhà ga khác nhau. Người nhà hay tin có muốn đi đón cũng chẳng biết nhà nước đưa đến ga nào.

Tù ngồi cả mấy giờ trên xe đợi toa đầu máy tới kéo đi, móc vào chuyến xe đang đợi sẵn. Nếu là mùa hè sẽ nghe tiếng máy phóng thanh cất lên rành rẽ: "Xe đi Ufa chuyển bánh ở đường số 3, xe đi Tashkent chuẩn bị", chỉ cần nghe vậy là dân đi đày kinh nghiệm sẽ biết đang ngồi ở nhà ga Kazan. Vậy là mình không đi Vortuka và Pechora rồi: đi đày 2 trại này phải ra ga Yaroslavl kìa! Mà nhất định không phải Kirov và Gorky nữa [7] . Thời buổi này nhà nước có gởi đi đày Byelorussia, Ukraine, Caucasus đâu? Dưới đó làm gì còn chỗ? Nếu đi Ufa hay Takhsent thì đã đi rồi. "Xe đi Novosirbirsk nghe đây, ai đưa tiễn làm ơn xuống giùm. Hành khách cho coi vé xe".

Thế rồi xe chuyển bánh. Đi hướng Novosibirsk thì đúng rồi nhưng còn thiếu gì trại khác ở trung vực Volga, ở miền Nam Urals? Bên Kazakhstan, bên Dzhezkazgan còn thiếu gì mỏ đồng? Ở Taishet cũng có trại vậy chớ? Ở đấy chuyên sản xuất các tà-vẹt đường xe lửa. Nghề làm tà-vẹt này độc lắm: nước thuốc xi ngấm vô xương, hơi thuốc vô phổi dễ bệnh vô cùng mà bệnh là chết chắc. Ngả đường này còn đi Tây Bá Lợi Á luôn: nào Sovetskaya Gavan, Kolyma, Norilsk.

Gặp mùa đông thì cửa xe đóng kín bưng, chẳng nghe tiếng máy phóng thanh nữa. Nếu lính hộ tống giữ đúng kỷ luật là chịu, không thể biết đi đâu. Nằm co quắp vào nhau nghe bánh sắt nghiến xuống rầy rầm rầm nhưng chỉ biết đi là đi. Hai bên đường là rừng rậm, đồng bằng hay thảo nguyên cũng chịu luôn. Chỉ những thằng nằm ngăn giữa, liếc mắt nhìn qua cửa sổ bên kia hành lang may ra thấy thấp thoáng mấy cái cột điện chạy giật lùi. Nếu khuôn cửa không bị băng giá làm mờ mịt thì ngó qua ngó lại cũng có thể đọc lên mấy nhà ga. Nhưng những Avsyunino, Undol, nghe lạ hoắc, có biết nó nằm địa phương nào? Ngần ấy người có ai biết? Đành ngó mặt trời để biết đại khái đang đi hướng Đông hay ngược lên miền Bắc vậy! Tới ga Tufanovo chẳng hạn, có thêm mấy mạng tù mới được nhét lên. Họ kháo nhau lên Danilov lần này không biết toà xử nặng, nhẹ thế nào... mới hay mình sắp đi ngang Yaroslavl khuya nay và Vologda sẽ là trạm đầu tiên đổi đoàn hộ tống. Mấy tay sành sỏi trong đám sẽ lên mặt thầy đời: "Coi chừng nghe mấy bạn! Dân Vologda nói trọ trẹ thật, nhưng không biết nói đùa đâu!".

Dọc đường này thiếu gì khám tạm? Không hiểu họ sẽ cho xuống nhằm khám nào? Uktha, Inta, hay Vortuka coi vậy còn đỡ. Kẹt ở Công trường số 501 mới là đau khổ! Đắp đường xe lửa băng ngang thảo nguyên, địa cầu phía Bắc Tây Bá Lợi Á đâu phải chuyện chơi!

5 năm sau Thế chiến, các đợt đi đày đã sắp đặt xong, MVD đã kiện toàn cơ sơ, Bộ Nội An đã lập xong cả triệu hồ sơ cá nhân nên mỗi thằng đi đày đều có một phong bì dày dán cứng đi kèm. Đưa vô Trại nào, đi đường nào đã chừa sẵn một lỗ hổng nho nhỏ đủ để lính hộ tống liếc vô và liệu sắp đặt. (Hồ sơ bên trong bọn Hộ tống không có quyền mở ra coi, lỡ tiết lộ bí mật hay đe doạ làm tiền thì sao?). Nếu anh nằm ngăn giữa, thầy chú cầm hồ sơ đứng gần bên và mắt anh lại tinh, đọc ngược chữ dễ dàng thì liếc vô lỗ hổng có thể biết thằng nào đi đâu ngay. Tình cờ thấy tên anh, đi Kargopol.

Ủa, trại Kargopol nằm đâu? Bà con có ai biết không? Kargopol sản xuất gì nhỉ? Xây cất, khai mỏ, biết được là biết ngay thiên đường hay địa ngục!

Thì ra anh sẽ vô trại Cải tạo Kargopol. Người nhà cứ tưởng anh còn nằm trại Stalinogorsk mới là khổ. Tìm không ra, không biết tin là họ lo sốt vó, mà Trại Cải tạo thì cổ lệ một năm chỉ được gởi một lá thư về nhà. Anh bồn chồn, nghĩ đủ mọi cách để thông báo gấp. Tôi đi Kargopol rồi. Nhưng thông tin cách nào? Vô phương! Ủa, có một cách nhưng hy vọng mong manh quá. Cứ thử coi, biết đâu chừng.

Anh còn viết chì rồi. Phải xoay 1 miếng giấy cỡ đầu ngón tay. Càng dày, càng cứng, càng may! Nắn nót bức "thông điệp" vắn tắt mà phải che đậy cho khéo, đầu phải nằm quay ra hành lang mà lính vẫn không hay (luật đi xe Stolypin mà đưa chân ra hành lang là bị trừng trị nặng!). Anh phải gấp tờ giấy lại, đợi giờ được đi cầu; đoán chừng sắp đến hay đi ngang một nhà ga là lấy người che khuất tầm mắt thầy chú đứng canh đi cầu để liệng nó qua cái lỗ thoát nước. Tờ giấy sẽ dơ dáy nhưng nó sẽ nằm đâu đó giữa hai đường rầy hoặc gió tạt ra ven đường,

"Thông điệp" khẩn của anh thế là có dịp dầm mưa dãi nắng, chịu gió bão đến rã rời, manh mún. Hay được một bàn tay nào đó lượm lên coi. Đời này thiếu gì người xót thương thân phận tù tội và không khoái Đảng. Họ sẽ chép lại hay cho vô phong bì đàng hoàng, gởi đến tận nhà anh. Đồng ý "thông điệp" khó thọ lắm lắm, nhưng thực tế rất nhiều gia đình vẫn nhận được tin người nhà từ trên trời rơi xuống vậy đó. Thông thường thư không tem và người nhà chịu phạt nhưng ít ra nhờ mấy nét chữ mờ nhạt của anh trên mảnh giấy dơ dáy, nhàu nát cũng còn biết anh lưu lạc trại nào,

*


Đi tù đi đày hãy tốp những "thông điệp" kiểu trên. Đừng làm dân quỉnh, làng xã tức những thằng bị bóc lột mãi! May lắm "thông điệp" của anh tới nhà được cỡ 5%. Mà có tới cũng chẳng tạo hạnh phúc cho gia đình. Cuộc đời anh kể từ khi lọt vô Trại Cải tạo thời gian đâu có kể ngày kể giờ nữa. Đến hay đi tính bằng thập niên, bằng một góc thế kỷ đi. Trở lại sự thực thế giới của anh ngày xưa thì không bao giờ nữa. Cho nên quên được gia đình và gia đình quên được anh đi sớm ngày nào hay ngày ấy, càng dễ sống ngày ấy.

Đồ vật cá nhân – những cái gì bám vào người anh – càng ít càng tốt. Khỏi nơm nớp sợ mất. Chớ có giữ lại cái va-li! Nhốt chung chạ 25 mạng người một ca-bin mang va-li đi để cho thầy chú đạp dẹp nó sao? Mà không đạp thì để làm gì? Đồ lên chiến, áo khoác ngoài đúng mốt, bốt hách đừng mang theo người. Sớm muộn gì cũng bị bóc lột, bị tịch thu hoặc bị trao đổi ở trên xe, ở trong khám điều tra hay khám dọc đường. Có ai đòi hỏi hãy nạp mau mau vì giữ không nổi sợ còn thêm nhục ôm đầu máu mà rút cục mất vẫn mất. Mang những thứ đó trong người là đối tượng của những bầy kên kên dòm dỏ, xâu xé. Mãi lo ôm đồ, mất đồ, anh còn bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng là sống và quan sát.

Trước hết là tìm hiểu những con kên kên ở quanh anh. Xưa nay qua các hình tiểu thuyết của Kipling, Gumilyev, các nhân vật giang hồ, sống ngoài vòng pháp luật được họ mô tả đặc sắc, có nét lắm chớ. Đâu có tồi bại như bọn blatnye cặn bã này. Dân giang hồ chỉ đẹp trong tiểu thuyết, thực tế cuộc đời chỉ có những tù tư pháp!

Còn gì nữa? Với đám blatnye nhà tù mới đích thực là nhà. Dù nhà nước có dung túng, pháp luật có nhẹ tay và án tù có ân giảm liên miên thì trước sau họ cũng có ngày tái ngộ "thế giới của họ". Họ có đặc quyền "dân quần đảo" là phải. Anh có bị bóc lột trơ thân cụ cũng là phải. Ngoài đời chế độ tư hữu tài sản có còn đâu mà mai mỉa ở chỗ chính những đấng có thẩm quyền truất hữu lại khoái chiếm hữu! Ở quần đảo họ thiếu tại sao anh thừa? Anh lạc hậu, có tí mỡ tí đường và thuốc lá cũng giữ xài một mình, không chia chác cho anh em? Họ phải lột anh bằng hết để cho một bài học. Đừng thắc mắc, đôi giày bốt thứ chiến cũng như chiếc áo lên nhà giàu họ vừa "trao đổi" với anh (lấy đôi giày rách, tấm áo công nhân dơ dáy) chính họ cũng chẳng giữ được bao lâu. Qua lại năm ba canh bài thì bốt chiến cũng đi mà áo len sẵn sàng thảy ra đánh đổi chai Vodka, khoanh xúc xích! Cũng có ngày họ trơ thân cụ như anh cho đúng luật động nhiệt học vạn vật đồng nhất thể. Hết khác biệt.

Chớ giữ của, chớ giữ của. Phật Thích Ca hay Đấng Christ đã từng dạy. Các bậc thánh nhân, vô vi cũng bảo vậy. Giản dị có thế sao không chịu hiểu? Há chẳng biết có của là sa sút linh hồn?

Vậy thì có được phát cá khô thì hãy nhét vào túi đợi đến trạm sau, đừng có hỏi xin miếng nước. Phát hai khẩu phần bánh đường một lượt cũng thanh toán cái một cho rồi! Khỏi phải giữ, khỏi sợ mất cho thư thái cõi lòng!

Chỉ giữ những cái không ai lấy được. Đó là kinh nghiệm hiểu đời hiểu người. Là ngôn ngữ, là mớ ký ức mà anh sẽ ghi nhận lại mãi mãi để sau này ắt có dịp sử dụng. Hãy mở mắt nhìn kỹ những người chung quanh. Biết đâu anh chẳng nhớ vĩnh viễn một khuôn mặt nào đó và sau này mới tiếc hùi hụi hồi đó chẳng chịu tìm hiểu sâu xa thêm. Cố mà tìm hiểu, cố nói ít nghe nhiều. Biết bao nhiêu nhân vật lạ anh có thể gặp trên những ngả đường chi chít dẫn đến quần đảo. Gặp đấy, sống cạnh nhau đấy nhưng chỉ một đêm thôi lại xa nhau vĩnh viễn. Anh phải dỏng tai ra nghe chuyện họ cũng như nghe nhịp bánh xe lăn xình xịch trên rầy sắt. Tiếng bánh xe lăn xình xịch như dòng đời vùn vụt trôi. Biết bao nhiêu chuyện lạ cần ghi nhận lại?

Như gã người Pháp liến láu đang nghênh ngó ở vách ca-bin. Hắn tìm kiếm cái gì, ngạc nhiên vì cái gì đó. Có ai biết tiếng Pháp xề tới bắt chuyện ắt phải cười đau bụng vì chuyện đi đày nước Nga của Marx Nanterre, quân nhân Pháp. Tính nết lăng xăng cái gì lạ cũng ghé mắt vô, hệt như hồi còn ở quê nhà, ở mảnh đất Pháp tự do. Một hôm đi qua trại tiếp cư những người Nga hồi hương, Max thấy lạ, đứng nghênh ngáo mãi. Bị lịch sự mời đi hắn chưa chịu đi vội. Nên được mấy ông bạn Nga mời lên chơi, làm một ly thân thiện. Rồi không biết trời đất gì nữa, tỉnh lại thấy nằm cong queo trên sàn phi cơ, mình mặc chiến y Hồng quân. Một đôi bốt đưa ra trước mặt dậm doạ. "Anh bị 10 năm trại Cải tạo".

Max Nanterre bật cười. Cái gì kỳ lạ vậy? Chắc phải có chuyện lầm lẫn gì đây, và thế chẳng giải thích xong? Hắn được giải thích thật: 10 năm là 10 năm! Có gì đáng ngạc nhiên? Hai năm 1946-1947 những vụ Max Nanterre quá thường! (Sau này ở Trại Cải tạo Max còn bị quất thêm bản án 1 phần 4 thế kỷ. Tính ra nếu không có gì thay đổi còn phải nằm ở Ozerlag tới 1957.)

Chuyện Max Nanterre quân nhân Pháp bị đày Trại Cải tạo Nga giản dị có vậy. Chuyện công nhân Nga Ivan Koverchenko bị bắt sau khi đại náo Toà Đại sứ Pháp và cũng đi đày dưới đây thì nhiều màu sắc, nhiều hơi rượu và phi lý hơn nhiều. Xét ra chỉ Nga mới có nổi vở tuồng bi hài khủng khiếp tới cỡ này.

Nếu ở đời có những người ngoại khổ, không thể gò ép vào khuôn nếp như những người khác thì Ivan Koverchenko phải là kiểu mẫu của sự ngoại khổ. Hắn không thể sống mẫu mực được, dù người tầm thước và trí óc minh mẫn sức khoẻ không thua ai và nhậu Vodka số dách. Câu chuyện Ivan bị bắt, lãnh án chính trị và đi đày thì chính hắn sẵn sàng cười ha hả kể mọi người nghe chơi cho vui. Đi đày là đi đày, chớ chính trị hay không thì ăn nhằm gì!

Chẳng hạn hồi Nga - Đức còn chiến tranh thì Đức bị tố cáo dám sử dụng "võ khí hoá học" còn Nga dĩ nhiên không. Kẹt vụ triệt thoái Kuban gấp rút quá mấy thằng Quân Cụ ngu như bò dám bỏ sót lại nguyên một hầm bom hơi ngạt gần một phi trường. Không thủ tiêu kịp, bọn Quốc Xã sẽ nắm lấy bằng chứng cụ thể thì còn gì thể diện Hồng quân? Trung úy Dù Ivan Koverchenko người tỉnh Krasnodar được giao trọng trách tiêu hủy kho tang vật bằng cách nhảy dù cùng 20 đồng đội xuống phía sau phòng tuyến Đức (Bạn đọc Quần đảo ngục tù hẳn suy đoán Ivan bị Đức cầm tù và sau ngày được giải thoát sẽ lãnh án phản quốc 10 năm chớ gì? Không phải vậy!). Trung úy Koverchenko phá được kho bom, dẫn đồng đội về an toàn không hao một mạng nên được đề bạt làm Anh hùng Liên bang Xô Viết.

Muốn chính thức làm Anh hùng thì chờ công văn đi lại ít nhất cũng 1, 2 tháng. Trong khi chờ đợi làm anh hùng thiệt thọ, Ivan không gương mẫu như các đồng chí anh hùng khác. Vừa máu hăng vừa ham nhậu Vodka nên Ivan chịu sao nổi mấy thằng Quân tiếp vụ bần tiện dám từ chối phát cho anh hùng 1 lít rượu. Bất mãn quá hắn bèn cưỡi ngựa thúc lên lầu 2 để hỏi thăm đồng chí trưởng ban. Phải cả người lẫn ngựa lên lầu (như Caligula thời La Mã) đòi thêm rượu mới hách và chắc ăn! Sau đó Ivan bị bắt chăng? Không! Chỉ làm mất Anh hùng, đành lãnh Huy chương Hồng kỳ vậy.

Khoái Vodka mà nhà binh phát không đủ thì Ivan phải xoay sở lấy. À, nhờ hắn tiến chiếm kịp thời bọn Đức không kịp phá nên cây cầu này mới còn chớ. Có chiến công phải chiến phẩm, Bộ Tư lệnh chưa tới thì mấy thằng dân Balan muốn qua lại cây cầu được đúng một ngày, vừa đủ mua Vodka nhưng chán chết, có ở đây mãi đâu? Đại úy Koverchenko bèn cho gọi đám dân địa phương đến, đề nghị bán lại cây cầu. "Tao cứu được, tao không xài. Tụi bay muốn xài cầu thì bỏ tiền ra!" Dĩ nhiên dân Balan không chịu. Nhưng Đại úy Ivan vẫn không bị bắt vì vô kỷ luật. Hắn bỏ đi. "Đấy, giữ lấy cầu mà xài. Có tí tiền mà bần tiện!".

Năm 1949 Ivan lên lon Thiếu tá, giữ chức Tham mưu trưởng một Trung đoàn Dù đóng ở Balan, nhưng Phòng Chính trị Sư đoàn tối kỵ gã Thiếu tá ba gai không thể giác ngộ chính trị. Xin giấy Sư đoàn đề bạt đi học Đại học Quân sự thì Phòng Chính trị cũng cấp nhưng vừa liếc qua Ivan đã vứt trả lại: "Mấy anh giới thiệu điệu này thì Đại học Quân sự chó gì? Kể như gởi gấm với bọn phản loạn Banderovtsy đúng hơn!"

Nếu bị bắt vì vụ này và lãnh 10 năm đi đày thì đáng đời hắn quá rồi!

Đúng lúc đó Tham mưu trưởng Ivan ký một giấy nghỉ phép cho thuộc cấp bất hợp lệ. Và bản thân ông Thiếu tá thì say rượu, lên xe phóng như điên làm lật xe nhà binh hư luôn. Làm sao không bị phạt? Nhưng bị 10 ngày trọng cấm chớ đâu phải 10 năm? Phạt trọng cấm, nằm 10 ngày dưới phòng Kỷ luật nhưng có sao đâu? Bọn đàn em vẫn khoái người hùng Ivan Koverchenko, đêm đêm mở cửa cho đàn anh "ra phố" chơi lu bù! Đáng lẽ hắn cũng ráng nằm đủ 10 ngày phạt nếu mấy ông ở Phòng Chính trị Sư đoàn không hăm he đưa ra Toà Quân sự.

Mấy chữ "đưa ra Toà Quân sự" làm hắn nổi sùng: "Thế ra cần đi phá kho bom thì thằng Koverchenko này xung phong mà mới làm hư có cái xe ranh con đã ra Toà Quân sự hả?" Ivan bèn cạy cửa sổ, mò ra bờ sông, bơi qua sông Dvina. Bên kia sông có chiếc xuồng máy của thằng bạn nằm chờ, hắn lái dông đi luôn. Hắn nhắm thằng địa giới Lithuania.

Bất quá như một hơi rượu say, Ivan có hận chỉ hận mấy thằng ở Phòng Chính trị Sư đoàn. Nhưng hắn quyết phục hận, tình nguyện giúp sức bọn quốc gia Lithuania đang võ trang chống lại nhà nước Xô Viết mới là ngoại khổ! Nào ngờ nghe ông Thiếu tá Dù bảo: "Mấy anh cứ thử nhận tôi coi. Tôi sẽ đánh cho chúng chạy cúp đuôi", cấp chỉ huy Lithuania cũng ngán, chỉ sợ bị gài!

Ivan còn có một giấy giới thiệu khâu kín dưới lớp ve áo, có vé xe lửa đi Kuban nhưng trên đường đi Mạc Tư Khoa hắn ghé vô một nhà hàng nhậu say quá. Thế là hắn xuống ga Mạc Tư Khoa, kêu tắc xi. Tài xế hỏi đi đâu. Hắn bảo "Đến Toà Đại sứ". Toà Đại sứ nước nào? "Thì nước nào chẳng có Đại sứ. Toà Đại sứ nào chẳng được!". "Ô hay, phải nói rõ Toà Đại sứ nước nào chớ?". "Thế hả? Cho lại Toà Đại sứ Pháp đi!"

Có lẽ đầu óc Ivan lúc bấy giờ choáng váng, nếu có ý định đến một toà Đại sứ nào đó thì cũng đổi rồi. Nhưng làm gì còn đủ tỉnh táo để sai khiến chân tay? Chẳng cần để ý mấy thằng lính canh cửa làm gì. Cứ bức tường ngang nhảy một phát là vượt cái một. Cao 2 đầu người chớ mấy? Vô trong sân là dễ rồi. Chẳng thấy ai hỏi hay chặn đường. Cứ thế Ivan đi phòng này sang phòng khác và lọt vô một phòng có bàn tiệc bày sẵn. Ra chúng sắp tiệc tối! Vẫn không thấy ai, trên bàn bày nhiều món ăn quá chừng nhưng chỉ mấy trái lê là ngon mắt. Ivan quơ đại ít trái nhét vào túi quần túi áo trận.

Mấy người bước vô bàn tiệc. Thấy Ivan họ chưa kịp hỏi hắn đã xông tới: "Tụi bây Pháp hả?". Hắn hỏi là đập liền. Với Nga thì cả thế kỷ nay Pháp chỉ làm hại không. Vừa đập túi bụi Ivan vừa lè nhè chất vấn: "Tại sao tụi bay không làm cách mạng coi? Đưa de Gaulle lên nắm quyền để làm cái gì? Tụi bay còn yêu sách gởi lúa mì Kuban cho nữa? Đâu có được!" Mấy người Pháp lúc bấy giờ cuống quít hỏi: "Ông là ai? Ông ở đâu vô đây". Lúc ấy Ivan còn tỉnh táo nồ: "Là ai hả? Là Thiếu tá KGB được không?" "Thì cứ cho là vậy đi, nhưng ông đâu có quyền xâm nhập nơi đây. Ông tính vô làm gì?"

Ivan hét lớn: "Hỏi gì? Câm họng hết!" Sự thực lỡ nồ rồi đành phải nồ tiếp. Làm gì hắn không nghe họ đang quay điện thoại ở phòng bên. Bèn kiếm cách rút lui tà tà nhưng nhè lúc đó mấy trái lê trong túi ông "Thiếu tá KGB" mới rớt ra. Ivan bèn tháo lui cấp tốc giữa tiếng cười ầm ĩ. Chạy gì nổi và chạy sao thoát? Đi còn không vững, nhưng không hiểu sao vẫn đi được!

Sáng hôm sau tỉnh dậy Ivan thấy đang nằm ở nhà ga Kiev (bộ tính dông xuống Ukraine chắc?). Lúc bấy giờ mới bị người nhà nước vồ.

Dĩ nhiên một ca đặc biệt như thế phải được Bộ Nội An chiếu cố đặc biệt. Đích thân ông Bộ trưởng Abakuma thẩm vấn Ivan và chắc là nặng tay lắm nên mấy chiếc thẹo sau lưng hắn bây giờ còn bằng bàn tay một. Lý do không phải vì mấy trái lê hay nhục mạ ở Toà Đại sứ mà để tra hỏi cho ra hắn thuộc tổ chức nào, được tuyển mộ hồi nào. Và đặc biệt như ca Ivan Koverchenko là phải lãnh án 25 năm đi đày, dĩ nhiên.

*


Chuyện đi đày như trên thì thiếu gì. Nhưng đi đường dài xe nào chẳng phải ngủ, kể cả toa tù Stolypin? Ban đêm là phải ngủ, khỏi phát cá phát nước hay cho đi cầu. Đêm đến chỉ nghe tiếng bánh xe lăn đều một nhịp nhưng nếu không thấy bóng lính hộ tống ngoài hành lang thì những vụ thì thào liên lạc giữa các ca-bin mới bắt đầu, kể cả với ca-bin nhốt đàn bà.

Hình như thông lệ nhà lao là vậy, có trò chuyện với đàn bà con gái là phải ăn nói tử tế, đàng hoàng. Dù chỉ nói chuyện tù tội, án gì, bao lâu, dưới đây là một vụ trò chuyện điển hình, hồi tháng 7 năm 1950.

Chuyến xe đó ca-bin đàn bà chỉ trần một cô bé con gái một ông bác sĩ, bị vì điều 58/10. Đặc biệt như vậy nên cả ba ca-bin đều xôn xao vì sự hiện diện của người đẹp. Đột nhiên lính hộ tống ra lệnh ba ca-bin dồn vào hai. Làm liền, được hay không miễn thắc mắc! Thế rồi họ đưa vô một gã trông không ra vẻ tù chút nào. Tóc không hớt trọc mà để dài có lọn, dợn sóng trên khuôn mặt sáng sủa, con nhà lành. Gã còn trẻ, mặc bộ nhà binh Ăng-lê thật chững chạc. Coi bộ lính hộ tống cũng trọng vọng nữa (chắc họ liếc qua hồ sơ). Gã bước vô, không buồn nhìn ai, kể cả ca-bin đàn bà.

Nhưng thấy lính dồn ba ca-bin vô hai, để trống nguyên một ca-bin cho một mình gã, người đẹp buộc phải chú ý, kiếm cách liếc nhìn ra bằng thấy. Họ sắp đặt cho gã ở ca-bin bên cạnh, không cho liên lạc với ai thì cô bé càng ham bắt chuyện. Trên toa Stolypin vách ngăn ca-bin kín bưng nhưng chỉ nhìn không thấy nhau chớ ban đêm yên lặng nói chuyện giữa hai bên vẫn được nữa.

Đợi đêm xuống một lúc lâu, chắc chắn lính gác ngủ khoèo rồi cô nàng mới đứng sát vách vừa gõ ra hiệu vừa khẽ gọi. Gã lạ mặt làm đúng như lời nàng chỉ dẫn để hai bên ngồi, đối lưng tâm sự! Ngồi đúng chỗ, lưng tựa lưng, đầu ngoảnh lại thì thầm nói khẽ nghe cũng được. Hai lần vách lưới sắt đan dày cách nhau cỡ hai phân tây chớ mấy. Đúng là mặt kề mặt, môi sát môi nhỏ to tâm sự thì được nhưng không mong gì nhìn thấy mặt hay đụng chạm.

Ra gã không phải người Nga, tiếng Nga chưa nói rành. Cố gắng lắm gã mới nói được cho biết tên Erik Arvid Andersen và câu chuyện đặc biệt của gã (sau cùng ở khám tạm chúng tôi mới biết). Trái lại, nàng chẳng có gì để nói. Một nữ sinh bị nhà nước bắt đi đày vì vi phạm điều 58/10 thế thôi. Vậy mà Arvid nghe mê quá! Thì ra nước Nga, thanh niên Nga không giống mấy tờ báo tả phái Âu Châu quảng cáo hay gã quan sát thấy. Hai người nói chuyện thâu đêm. Đối với Arvid đó có thể là đêm mở mắt cho thấy sự thực: xứ sở gì lạ quá mà xe tù cũng lạ nữa! Tiếng xe lăn bánh đều đặn như nhịp tim đập. Giọng người con gái lạ mặt véo von, tiếng thì thầm nhẹ như hơi thở dài, hơi thở của nàng phả trên tai. Rõ ràng nghe nong nóng vành tai mà người đẹp vẫn không thấy mặt (cũng như một năm rưỡi rồi Arvid đâu có nghe thấy tiếng đàn bà).

Thế rồi nhờ giọng nói xa xôi đó Arvid chợt nhìn thấy và nhận ra nước Nga đích thực. Làm như chính xứ sở này lên tiếng với gã vậy. Được hướng dẫn như vậy làm gì chẳng nhận ra và ngày hôm sau gã mới để ý nhìn qua cửa sổ thấy những mái rơm thấp thoáng, kèm theo lời phụ đề buồn buồn của người con gái không hề thấy mặt.

Nước Nga là như thế này đây. Những thằng tù chen chúc trên toa xe, không phàn nàn. Cô gái khuất mặt bên kia vách sắt. Đám lính hộ tống ngủ khoèo, mấy trái lê lăn lông lốc, một hầm bom hơi ngạt và một con ngựa có người cưỡi thong thả lên lầu hai,

*


"Lính sen đầm, lính sen đầm kia rồi!". Đám tù chỉ chỗ, bàn tán. Từ đây trở đi được sen đầm hộ tống, sung sướng hơn lính hộ tống nhiều.

Xin lỗi, những hàng chữ trên không phải của tôi. Mà là trích của V.G. Korolenko trong tập hồi ký Thế hệ tôi ấn hành ở Mạc Tư Khoa năm 1955. Chúng tôi khác, không thể có cảm giác sung sướng được các ông Mũ xanh đi hộ tống! Chỉ trừ mắc kẹt dọc đường, nghĩa là tới nơi mà không có đại diện khám ra đón nhận đã đành phải ở lại trên xe cùng toán hộ tống. Đi tới đi lui mãi chừng thấy Mũ xanh đón đợi không mừng vui sao được?

Và ít nhất cũng khỏi đói.

Thông lệ một thằng tù được chỉ định xuống một nhà ga nào đó mà không thấy người địa phương ra nhận thì toán hộ tống chỉ đợi đúng 2 phút. Xe chuyển bánh là nó mắc kẹt, phải ở lại với toán hộ tống. Nhưng từ đó nhịn ăn, khẩu phần đâu mà chia? Không lẽ buộc lính đi áp tải nhường phần bánh? Có thằng phải xuống ga xép Tulun nhè địa phương đón hụt mà cứ phải "làm con thoi" 6 lần giữa Irakutsk và Krasnoyarsk, không được phát phần ăn. Mà đoạn đường đâu có ngắn ngủi! 18 giờ đồng hồ. Lần thứ 7 qua ga Tulun thấy lố nhố vài chiếc Mũ xanh mừng như sống lại!

Sự thực ngồi xe Stolypin gò bó, ngộp thở đến rã rời. Sắp tới một đô thị lớn đâm ra phân vân, không biết nên cầu mong xe chạy thẳng tới nơi sớm cho rồi, hay nghỉ ở khám tạm cho đỡ mệt. Chỉ khi nào thấy toán hộ tống xôn xao, xách ra lủ khủ những ba lô áo lạnh và dộng báng súng xuống sàn xe lộp cộp là dấu hiệu sửa soạn xuống hết.

Xuống xe cũng là vấn đề, có quy tắc đàng hoàng. Trước hết lính hộ tống nhảy xuống, quây tròn vây chặt cửa xe. Từng thằng tù nhảy xuống, chúi nhủi vài cái mà chưa ngồi đúng chỗ thì mấy cái miệng sẽ nhau nhau: "Ngồi, ngồi, ngồi xuống hết!". Họ hét đều, hét lớn buộc nó phải luống cuống, ríu ríu tuân lệnh. Không dám ngước lên nhìn mà ngoan ngoãn ngồi bệt xuống kế bên thằng xuống trước.

Xin nói rõ "ngồi" là phải ngồi bệt xuống đất. Không được ngồi cách nào khác. Chính tôi đã bị lần đầu tiên ở nhà ga Ivanovo: tay xách va-li, sàn xe cao, cú nhảy làm tôi choáng váng, hớt hải, không liếc nhìn coi anh em ngồi thế nào, thấy hô "ngồi" là ngồi lên trốc va-li, sợ ngồi bệt dơ hết vạt áo ngoài. Gã trưởng toán hầm hầm chạy lại, rõ ràng tính sút cho tôi một đá. Không hiểu sao hắn khựng lại, chỉ cho chiếc va-li một mũi giày và dộng thêm một gót giày lên trên có ý ra hiệu: "Ngồi thế này này". Thế là tôi nhìn quanh anh em và sụp xuống ngồi in như mọi người. In như chó ngồi canh cửa, mèo ngồi trấn trên bàn. (Chiếc va-li lãnh cú đá thay tôi giờ đây tôi còn giữ. Có dịp giở ra coi thế nào tôi cũng mân mê lỗ hổng, một "vết thương không bao giờ thành sẹo" đó!)

Đâu phải tình cờ có luật tù bắt buộc phải ngồi bệt. Ngồi bệt là bàn toạ thấp, hai đầu gối đưa cao trước mặt, trọng tâm thân thể sẽ chuyển hết ra phía sau cặp chân. Đứng lên khó mà thình lình nhảy dựng là không được! Ngồi bệt sát vô nhau đỡ tốn chỗ, ngồi sắp thành hàng lối, đấu mặt vào nhau thì muốn xông ào lại tấn công lính gác cũng đụng đầu, lộn xộn mất vài giây!

Ở nhà ga tù ngồi đợi thường chỉ đợi xe Mũ xanh đưa đi từng chuyến, nếu không áp giải bộ. Tù sẽ bị quây vô một chỗ kín đáo, ít người thấy. Cùng lắm mới cho ngồi sân ga, ngã tư. Người qua lại ngó nhiều khi phiền là đằng khác. Có ai dám đứng lại nhìn một cách thương hại, có cảm tình (để bị mời đi hay lấy tên tuổi tức khắc). Nhưng chẳng ai nỡ nhìn căm thù, khinh khi (trừ bọn Yermilov tâm thần sao!) Hầu hết cúi đầu bước đi, coi như không ngó thấy. Lâu lâu mới có một bà già dám liệng cho khúc bánh mì hay một "lão tù" từng nếm cơm nhà lao thương tình đồng cảnh quăng cho gói thuốc. Gói thuốc còn ném xa vào trong được nhưng mẩu bánh mì sẽ có hy vọng nằm đấy, thây kệ mấy thằng tù đói.

Mỗi lần được ngồi đợi sung sướng biết mấy! Nhất là lần ở nhà ga Omsk, dù ngồi khuất và bất cục cựa giữa hai đoàn xe dài. Không thấy ga thấy người mà chỉ được ngồi lên trên những hòn đá xanh đường rầy còn ấm hơi nắng tháng 8, tai nghe lao xao tiếng nhạc khiêu vũ, tiếng người cười nói cũng ấm hẳn lòng. Hai mươi phút quý giá: ngước lên trời cao còn thấy sao, xa xa ánh đèn néon xanh đỏ thấp thoáng. Chao ôi, nhờ những phút giây này mới sống nổi để những ngày tù tội mà không phát điên lên.

Để đề phòng lúc áp giải bộ dọc đường đã có lệnh "Ôm nhau mà đi, thằng trước thằng sau!" Ôm nhau gọn gàng, bằng một tay (vì tay kia còn xách bọc nặng) thì cả bọn sẽ biến thành một đám tàn phế, nương dựa vào nhau đi lặc lè đến thảm hại. Nhưng dù sao cũng còn dễ chịu hơn cái lệnh ác nghiệt: "Đi sát vào nhau. Tay chấm đất!" Phút chốc đám tù biến thành một bầy ngỗng. Gọi là chấm đất nhưng thực tế chỉ nắm được gần cổ chân. Khom lưng đi tới như vậy không khó nhọc sao và một đám vài ba chục thằng tù nhìn nghiêng không giống một bầy ngỗng? Xét cho cùng chẳng phải sếp hộ tống muốn hành hạ tù cho bõ ghét mới bắt đi lặc lè, đi lom khom. Hắn chỉ sợ trách nhiệm, sợ áp tử tù từ xe đến khám không đủ số đó thôi!

Tháng 8 còn đỡ. Gặp mùa đông như đợt áp giải tù đến khám tạm Pertopavlovsk tháng 12 năm 1946, hàn thử biểu xuống quá 10 độ dưới zê-rô mới là cực khổ. Mệt nhọc đã đành. Lạnh cóng người cũng không sợ bằng lỡ có nhu cầu bài tiết dọc đường! Mấy giờ trước khi đến ga họ đã cấm tuyệt vụ "Xin sếp cho xuống cầu" để đỡ phải mất công coi chùi rửa cầu lần nữa mà.

Càng về chiều càng lạnh càng mắc đi đái. Vô cùng khó chịu. Nhất là đàn bà! Phải chi là ngựa thì cứ đứng sững lại, làm một bãi lụt lội, ngập ngụa ra đó là xong. Là chó thì ghếch chân sau lên gốc cây, hàng rào cũng được vậy. Là người, thân phận tù đày không có quyền đứng lại hay ghếch chân thì đành đái trong quần, vừa đi vừa đái cho xong. Đất nước này của mình, có gì đâu hổ thẹn? Ở khám tạm thế nào quần chẳng khô.

Phải vừa đi vừa đái, nhớ vậy. Khựng lại có một bước để cúi xuống lúi húi lo xiết dây giày mà Vera Korneyeva bị gã hộ tống suỵt chó trận tới táp một phát ngay bàn toạ. Cũng may mà Vera mặc thủ mấy lớp vải dày! Phải chi là đàn ông đã ăn no đòn hộ tống: chỉ báng súng, gót giày cũng đủ nằm chết giấc.

Công tác bắt buộc phải vậy, có chi bi thảm? Có chụp hình gởi đăng báo Daily Express đâu mà sợ. Phải vậy trưởng toán hộ tống mới sống lâu lên lão làng, chẳng ai đả động đến!

*


Đọc Balzac phải biết đến thứ xe chở tù bít bùng. Xe của Mũ xanh cũng bít bùng vậy. Chỉ khác là di chuyển nhanh hơn và chất tù chật chội hơn nhiều, chật cứng.

Những năm 1920 trở đi tù còn được áp giải bộ đi phố phường Leningrad rất thường. Đến ngã tư là xe cộ, bộ hành ngưng lại hết đợi những cột tù đi hết đã. Biết bao nhiêu ánh mắt chiếu vào "những thằng phạm pháp"? Người như thế kia mà bất lương! Mấy ai thời đó đã biết đến những đợt tù tống vô quần đảo? Nhưng dần dà Cơ quan phải tiến bộ hơn, chở tù cũng phải cơ khí hoá.

Những xe tù đầu tiên xuất hiện đen sì sì, khi hệ thống đường sá còn nguyên vẹn chưa canh cải. Đường lát đá tảng xanh gồ ghề, nhíp xe thì quá yếu. Ngồi bên trong chịu đựng cả một sự lắc lư, hành hạ nhiều khi nhảy dựng người. Nhưng ăn thua gì, tù có phải là đồ sứ, đồ thủy tinh đâu mà sợ hư bể dọc đường? Cho đến 1927 vẫn còn kiểu xe kín bít, không một lỗ hổng, không thèm bắt một ngọn đèn nho nhỏ. Ủa, không khí còn thiếu thì cần gì ánh sáng? Dĩ nhiên lên xe là tù phải đứng, đứng xuôi tay cho đỡ tốn chỗ. Nhét được thêm thằng nào là cứ nhét. Có bao giờ không thiếu xe mà đòi rộng rãi?

Mấy năm sau xe tù sơn màu xám xịt. Chỗ nào viết được, vẽ được đều có danh hiệu nhà tù cho phân biệt. Sau Thế chiến II, ở mấy đô thị lớn mới có vụ ngụy trang lớp sơn ngoài rằn ri hay mấy màu tươi tắn, vẽ bảng hiệu quảng cáo hãng thịt, lò bánh hoặc một mác rượu nào đó.

Bên trong xe gần như không bao giờ thay đổi. Sườn thép, vách thép cang cảng và trống trơn như một cái hộp sắt khổng lồ. Nếu có bắt mấy hàng ghế sắt ở hai bên chỉ khổ cho mấy thằng tù: số người nhét vào xe đã ấn định rồi, đứng sát vào nhau còn chật ních huống hồ bị ghế chiếm bớt diện tích sàn xe? (Gặp ca này tù lại phải chất nằm, để lớp nọ nằm lên lớp kia cho đủ số vậy). Gặp kiểu xe chia ô tức có vách thép ngăn ra từng ngăn – tức "cát-xô" trên xe – còn khổ nữa.

Tuy nhiên xe tù đâu phải đứng lâu, nằm lâu mà sợ. Di chuyển giữa công voa xe lửa và khám tạm chỉ 20 phút, 30 phút chớ có mấy khi một giờ liền. Chậm trễ cũng không nổi với mấy ông Mũ xanh thấy mặt là thấy "Lẹ lên, gấp rút lên!" Vì gấp rút quá nên thây kệ những thằng ôm đồ kềnh càng hoặc có chiều cao trên trung bình! Đầu có đập vô cửa xe, thân thể có bị ép vô cũng ráng nhét cho đủ số, trong thời gian kỷ lục. Vì vậy đi xe Mũ xanh (đúng hơn là, chất đứng trong lòng xe) 20 phút là 20 phút hành hạ xương cốt kinh khủng, 20 phút tiếc nuối ca-bin Stolypin. Phải trông chờ từng cái nhảy nhổm để có dịp nhấc chân, nhấc tay đổi thế một chút cho đỡ mỏi.

Chật chội, chen chúc như vậy có khổ thật. Nhưng thà chật cứng, chật ních... chật ních, thằng nào cũng phải đứng xuôi tay, không cục cựa, còn đỡ cho bọn làng xã, dân quỉnh! Vì 20 phút trên xe bít bùng vẫn là cơ hội tốt cho dân blatnye mò mẫm, làm ăn. Không cần di chuyển đôi chân, chỉ cần nhích được tay, quơ qua quơ lại tạm được là bọn kên kên thừa thời giờ "làm thịt" những bacilli, những trash! Họ cất nhắc được đôi tay là những ba lô, những gói của thằng làng xã đứng gần sẽ bị mò mẫm thật thản nhiên. Xe chật chội thế này không lẽ kêu la oái oái, hay trao đổi vài quả đấm? Có đấm được một vài cú, chặn đứng được tệ nạn bóc lột thật nhưng chỉ lúc bấy giờ thôi. Về đến khám tạm là anh phải biết: một mũi dao nhọn sẽ nhằm lưng anh ấn một phát thật đúng lúc! Biết ai mà kêu, biết nắm thằng nào bây giờ? Cũng có thể thầy chú sẽ phải điều tra, nhằm đầu đích danh thủ phạm. Nhưng dân blatnye đâu có ngán điều tra. Sợ rằng họ còn được nằm lại khám tạm (khỏi phải đi xa hơn nữa) trong khi chính anh nếu có sống được thì cũng đành ôm vết thương kỷ niệm lên đường lưu đày, lưu đày xa nữa.

(Vậy thà là đứng chật, chật như nêm cối để kên kên cũng phải bó tay, phải không nào?)

Nếu đầu óc anh ngây thơ tin rằng đứng xe bít bùng không dễ gì bóc lột đồ vật của người khác – hoặc chật chội hoặc không đủ thì giờ – thì anh hố lớn! Dân blatnye từng lập thành tích hiếp dâm tập thể, ngay trên xe bít bùng, theo lời một nhân chứng khả kính là Đại tá hồi hưu Lunin, nhân viên Ban Chấp hành Hội Osoaviakhim (một tổ chức yểm trợ Quốc phòng, Hàng không ở lãnh vực chế biến hoá học).

Trong xà lim Butyrki, ông Đại tá già đã kể lại "thành tích đặc biệt" mà dân blatnye đã lập được trên chuyến xe bít bùng đi từ pháp đình Mạc Tư Khoa đến khám đường Taganka, ngày mồng 8 tháng 3 nhằm Ngày Phụ nữ Thế giới (!) Cô thư ký xinh đẹp sáng hôm ấy còn trang điểm sáng sủa hơn ngày thường để ra hầu toà (chắc để gieo ấn tượng tốt nơi quý vị thẩm phán). Tội danh có gì đâu. Chỉ là "bỏ sở đi chơi, nghỉ không xin phép" mà ông sếp thuyết phục làm nhân tình không được nên bịa đặt ra. Vậy mà trước Toà cũng lãnh án 5 năm vì điều 58 và lên xe bít bùng đã bị "bề hội đồng". Dù xe bít bùng nhưng vẫn là giữa ban ngày và giữa đám đông công chúng là những người có mặt trên chuyến xe. Những "công chúng" đã làm lơ, coi như không có chuyện gì xảy ra. Đừng hỏi tội về ai, về đám blatnye vô lương tâm, vì lính hộ tống đồng lõa, hay vì ông sếp đốn mạt!

Mà có phải chỉ hiếp dâm mà thôi. Với blatnye còn phải có bóc lột. Cô bé đáng thương đã mất trinh tiết còn bị cưỡng đoạt thêm đôi giày cao gót và chiếc áo vét duyên dáng mặc ngoài! Chúng đã được thảy lên cho thầy chú hộ tống. Thầy chú ngừng xe lại, đổi lấy Vodka và dĩ nhiên cũng chia chác "chiến lợi phẩm" cho bầy kên kên.

Tới khám Taganka dĩ nhiên cô bé nạn nhân phải khóc lóc, thưa gởi. Ông sĩ quan trách nhiệm vừa nghe vừa ngáp và đi đến quyết định giản dị như sau:

"Nên nhớ nhà nước không thể cung cấp phương tiện chuyên chở cho từng cá nhân. Nhà nước không có những tiện nghi ấy.

Vậy là thống nhất đường lối và quan điểm! Ở quần đảo không có vấn đề nhốt riêng tù chính trị, tù tư pháp trong xe Stolypin thì nhà nước cũng chẳng sẵn phương tiện chuyên chở riêng cho đàn ông, đàn bà! Dân blatnye chỉ mong được nhốt chung để bóc lột thì truất quyền chuyên chở chung để bóc hốt của họ trên xe bít bùng sao được? Phải cho chung đụng như vậy để đền bù lại. Bao nhiêu năm tù đày có bao giờ họ được dịp gần gũi, đụng chạm với chút đỉnh hơi hướng đàn bà. Phải có những chuyến xe bít bùng chung chạ thế này họ mới có dịp ngửi lại hơi đàn bà, nghe giọng nói đàn bà và nhất là đụng chạm da thịt đàn bà chớ.

Chúng tôi cũng có lần được gặp một người đàn bà trên một chuyến xe bít bùng, dĩ nhiên hiểu theo nghĩa khác. Đó là vào năm 1950, chúng tôi được chở từ Butyrki ra ga trên một chuyến xe lý tưởng: xe có hai hàng ghế sắt mà chỉ có 14 người. Đang ngồi thoải mái thì họ tống lên một phụ nữ. Người đàn bà rụt rè ngồi xuống băng xe ở sát cửa sau, ngồi riêng rẽ hẳn ra mà mắt vẫn không ngừng dáo dác. Nhưng chỉ một vài câu ngăn ngắn trao đổi là biết ngay toàn người nhà. Cùng điều 58 với nhau, có gì đâu mà phải sợ.

Bà ta tự giới thiệu tên Regina, có chồng Đại tá bị bắt trước ít lâu. Bỗng nhiên một khuôn mặt gầy gò nãy giờ khuất lấp bỗng thò ra. Đúng týp sĩ quan nhưng trẻ thế kia chắc chỉ Trung úy là cùng! Hắn đột ngột lên tiếng:

"Có phải chị bị bắt cùng với Antonina không?"

"Ủa, anh là chồng Antonina hả? Anh là Oleg chớ gì?"

"Tôi đây".

"Ra anh là Trung tá Oleg I. ở Viện Đại học Quân sự Frunze đấy?"

"Đúng thế!"

Ôi chao, còn gì bất ngờ, sung sướng cho bằng những tiếng ngắn gọn: "Tôi đây, đúng thế!". Cả một nỗi bàng hoàng mà sau đó không giấu nỗi sợ sệt, hãi hùng của một kẻ sửa soạn phải nghe một hung tin đau thương. Trung tá Oleg bèn chạy lại ngồi kế Regina, hối hả thăm hỏi. Còn may mắn nào bằng tình cờ gặp đây? Ánh nắng vàng úa buổi chiều chiếu lọt qua những kẽ hở trần xe, nhảy múa trên hai khuôn mặt kề cận nhau. Gã đàn ông hốt hoảng, chờ đợi.

"Anh biết không, chị ấy và tôi chung xà lim tới 4 tháng liền. Chị ấy đang đợi thẩm cung".

"Chị nói sao? Nhà tôi hiện giờ ở đâu?"

"Tội nghiệp chị ấy! Nhắc đến anh hoài. Chỉ lo anh bị bắt, và sau này suốt ngày cứ cầu mong cho anh lãnh án nhẹ".

"Nhưng nhà tôi hiện giờ ra sao?"

"Khoan, để nghe tôi nói đã. Chị ấy tội nghiệp cho anh, chỉ vì vợ mà phải dây dưa, tù tội! Chỉ bấy nhiêu đó mà khổ".

Mắt Oleg long lên. Hắn săn đón hỏi tin vợ, vậy mà cứ nói chuyện gì đâu! Nhưng Regina đưa tay lên vai hắn vuốt ngực an ủi như một người thân:

"Chị biết nhà tôi hiện ở đâu chớ?"

"Đừng sợ, có sao đâu? Chẳng qua chị ấy quá lo đó mà thôi. Chớ người như chị ấy có đời nào chịu khuất phục? Nhưng sau cùng cũng phải chịu vậy, thế rồi bọn chúng tách rời chị ấy ra, đưa đi một chỗ khác. Từ đó mới bặt tin luôn".

Hai người mãi chúi đầu vào nhau to nhỏ. Thời giờ sao ngắn ngủi thế? Chỉ có lúc này để thăm dò tin tức người vợ thân yêu. Xe bít bùng vẫn cứ phóng vùn vụt trên đại lộ 6 đường xe chạy. Đèn đỏ cũng ngừng lại, quẹo cũng ra dấu như bất cứ thứ xe nào khác. Trên xe những vách sắt rung lên từng nhịp, như hoà điệu với câu chuyện nhỏ to,

Trung tá Oleg I. thì tôi vừa mới gặp trong lao Butyrki xong. Tụi tôi một đám được đưa ra "nhà ga" chờ làm thủ tục đi đày. Ai cũng phải sắp hàng chờ ngoài hành lang để cán bộ Cơ quan lục soát lại lần chót trước khi trả lại mớ đồ đang nằm ở nhà kho. Tình cờ hai đứa tôi sắp hàng bên nhau.

Bên trong phòng mụ nữ giám thị mở va-li, rũ tất cả mọi thứ chứa bên trong ra sàn nhà. Không hiểu sao lúc bấy giờ nó còn kẹt được? Một chiếc cầu vai vàng óng ánh với mấy ngôi sao nho nhỏ cấp bực Trung tá. Mụ giám thị cũng không nhìn thấy nên mới sơ ý giẫm chân lên chiếc lon.

Tôi vội bấm hắn: "Thấy không, thấy tận mắt chưa, Trung tá?". Hắn nghiến răng chịu đựng. Không thể để chà đạp lên một tượng trưng cho những năm phục vụ. Nhưng thôi, chẳng thể làm gì được. Chỉ đau cho chiếc lon vừa bị chà đạp. Cũng như bây giờ đang xót thương cho con vợ chưa biết lưu lạc đến phương nào.



[1]Cũng nên nhắc Timofeyev-Ressovsky là nhà quang tuyến Sinh vật học lừng danh của Nga, có phòng thí nghiệm ở Đức từ 1922 đến 1945. Sau khi "hồi hương để kiến quốc" bị Stalin tặng 10 năm cải tạo. Sống sót trở về Mạc Tư Khoa, như trên thì các Sĩ quan Nội An chờ sẵn ở sân ga, chia nhau bồng bế (thay vì nằm cáng đã quá tử tế) ra xe riêng đưa đi tĩnh dưỡng để nhà bác học có dịp phục hồi sức khoẻ phục vụ Tổ quốc.
[2]Tập hồi ký Thế giới tù đày của Yakubovich, xuất bản năm 1964 ở Mạc Tư Khoa viết về những năm đói kém hồi 1890 tù đi đày Tây Bá Lợi Á được phát mỗi đầu người 10 kopeck tiền ăn đường Hồi đó ổ bánh mì lớn, ngon nhất là 5 kopeck… một bình sữa 3 kopeck và ở trại Irkutsk xa xôi, đời sống đắt đỏ tới 10 kopeck một nửa ký thịt nên tù đi đày KHỔ SỞ, THIẾU THỐN. Than ôi, với những thằng đi đày "cá khô làm chuẩn" thì chỉ mong sao "thiếu thốn" được nửa ký thịt một ngày!
[3]Yubahovich ghi rõ ràng: "… chỉ vì những đòi hỏi đặc biệt này mà tù thường phạm thường mệnh danh chính trị phạm là những "đàn anh đớp híp". Xin bạn đọc phê phán xem có oan hay không?
[4]Tôi cũng nghe nói có vài trường hợp chống cự hẳn hoi, nhất định không cho bọn côn đồ "làm thịt". Có điều những chiến sĩ đó không bảo vệ Công lý, bênh vực mấy thằng già yếu bênh cạnh mà chỉ tự bảo vệ lấy thân, đúng nguyên tắc "võ trang bất can thiệp".
[5]Bằng cớ là ông bạn V.L. Ivnov nay ở Uktha, trong thời gian đi chơi đã dính Điều 162 (trộm cắp) chín lần và Điều 82 (vượt ngục) năm lần. Nếu ở đủ án thì phải 37 năm nhưng thực sự Ivanov chỉ ăn cơm nhà lao từ 5 đến 6 năm.
[6]Trong ngôn ngữ của giới Blatnye thì danh từ frayera chỉ bọn người ở ngoài giới nhưng "nhà quê, làng xã" chớ không phải blatnoi hay Chelovek (con người, người đàng hoàng).
[7]Tên nhà đại văn hào mà lấy đặt tên cho Trại Cải tạo thì quả thực trớ trêu! Sao không có trại Pushkin, Gogol hay Tolstoi? Giữa Elgen và Kolyma còn có mỏ đồng Gorky.

2. Cửa vào quần đảo

Hãy lật bản đồ Tổ quốc ra mà coi. Nhớ lựa một tấm lớn để coi cho rõ. Những chấm đen đậm là tỉnh lỵ, là nơi những đường giao nhau, là những trạm chuyển tiếp. Đường sông, đường núi ngoằn ngoèo.

Những chấm đen đậm sao mà nhiều thế? Chỗ nào cũng có chi chít mọc như đầu ruồi dễ sợ lạ! Không, đó chỉ là tấm bản đồ đặc biệt ghi rõ những cửa vào quần đảo. Nhưng không phải những cửa biển, những bến tàu thơ mộng trong truyện Aleksande Grin, nơi rượu ngon gái đẹp tràn trề.

Ở xứ này có thằng Zek nào không biết năm ba trạm tiếp nhận hay Trại Cải tạo? nhiều người còn nhớ đến mười, mười lăm, và gọi là Con đẻ Cải tạo là phải nhớ vanh vách 50 tên trại! Nhưng ghi nhận bằng ký ức dễ lẫn lộn quá. Trại nào chẳng giống trại nào? Này đám lính hộ tống mù chữ “đánh vật” với bản điểm danh, những buổi chiều chầu chực chờ đợi giữa mưa phùn nắng gắt, những phiên tra xét cỡi trần cởi truồng hết, lục lọi mãi. Này hớt tóc dơ dáy, tắm nước lạnh nhờm tởm, cầu tiêu thối hoặc hành lang ướt át sâu hun hút. Này xà lim tối om chật cứng hơi người hầm hập xông lên, từng dãy dài đầu người lố nhố ngoi lên khỏi ổ. Bánh mì muôn năm nhão nhoẹt, cháo toàn đồ phế thải nấu lại.

Trí nhớ bén nhọn, nhớ không sót từng đặc điểm từng trại thì cố ngồi nguyên một chỗ chẳng một hệ thống trạm dọc đường in sâu trong óc từ hồi nào bỗng hiện ra một loạt. Novosibirsk hả? Còn lạ gì, từng ở đó mà. Cả dãy nhà lao kiên cố, cột kèo bự kinh khủng chớ gì? Irkutsk là chỗ đặc biệt cửa sổ cũng xây gạch từng lớp bít bùng, hết lớp này đến lớp khác, phải không? Còn Vologda thì phòng giam ọp ẹp, tháp canh vây quanh, cầu tiêu lầu trên nằm ngay lầu dưới, ngó thấy hết! Trại Usman thì vô địch về kiến trúc cổ lỗ và về rệp. Có điều tù đông rệp còn đông gấp bội, mỗi lần chở tù ra xe thì rệp rớt lộp bộp nằm từng đống dọc đường chớ gì.

Nếu anh tính qua mặt “dân trong nghề”, bảo rằng “thỉnh thoảng cũng có tỉnh lỵ không có khám tiếp nhận chứ” thì anh hố ngay. Họ cả quyết chẳng tỉnh nào không có khám tạm. Đúng như vậy! Anh tưởng ở Salsk không hả? Có chứ, nó nằm trong KPZ nằm chung với khám giam cứu. Quận lỵ cũng bắt buộc phải có, ít ra là một. Tầm thường như quận Sol Iletsk cũng có. Quận Rybinsk có khám số hai, ở chỗ tu viện cũ đó. Khám tạm cấp quận có khác. Yên tĩnh lắm, sân lát đá tảng rêu mọc xanh um, mấy cái bồn tắm bằng cây ghép kiểu xưa thật sạch sẽ! Quận Chita có khám số 1, quận Naushki rõ ra khám tiếp nhận dọc đường. Còn ở Torzhok khám đặt tuốt trên đồi cao, cũng tu viện cũ.

Vậy thì yên chí đi. Chỗ nào có toà xử là có nhà giam và khám tiếp nhận tù ở dọc đường, ở trạm lại ít ngày thì quả thực mỗi nơi mỗi vẻ chẳng thể so sánh hơn kém. Ba bốn thằng Zek họp mặt, mỗi thằng chịu một khám là thường quá! Hãy nghe họ “ca ngợi” như sau:

“Mấy anh tưởng khám tiếp nhận Ivanovo không nổi tiếng sao? Thử hỏi những thằng từng ở đó hồi 1937-1938 coi. Mấy mùa Đông đặc biệt, phòng giam lạnh ngắt, khỏi có lò sưởi. Lạnh chết người là thường quá. Vậy mà trong xà lim ở mấy cái ổ trên phải cởi bỏ quần áo thì biết sao! Lại phải đập bể mấy khuôn kính cho bớt hầm. Xà lim 21 đúng nguyên tắc chỉ nhốt 20 tù mà phải nhét ba trăm hai mươi ba mạng kia mà. Ổ nằm sờ chỗ nào cũng nhơm nhớp, lép nhép những nước! Ổ đâu ra? Hơi người bài tiết, hơi giá từ mấy khuôn kính bể lọt vô, đâu có thua ánh đèn điện thì mấy thằng nằm ổ trên hay đứng dưới sàn đã chắn mất hết còn đâu? Chen chúc như thế đi cầu là cả một sự lách né, xô đẩy khó khăn. Tụi nó bám cứng cả bên ngoài rìa ổ nằm.”

Hồi đó phát thức ăn là phát cho tổ. Không phát từng cá nhân. Cứ mỗi tổ 10 người. Tổ nào có một thằng chết dại gì khai báo vội. Hãy nhét đỡ nó xuống gầm ổ, để tiếp tục chia nhau chỗ khẩu phần của nó. Nghĩa là 9 miệng hưởng 10, chừng nào xác có mùi hẵng hay! Chen chúc khốn nạn vậy mà nhà tù cứ nhét thêm và tù cứ ráng chịu: bao nhiêu cũng vừa. Phiền nhất là đông như vậy tù chỉ được phép, 3 tháng tắm 1 lần. Chấy rận nảy nở khỏi nói: Chúng hút máu đến nỗi chân cẳng thằng tù nào cũng đầy nhọt áp xe. Bệnh chấy rận tệ hơn nhiều. Vì bệnh dịch quái ác này mà cả khám bị cô lập đúng 40 ngày.

Đồng ý. Nhưng không riêng mình Ivanovo cực khổ. Trại thời buổi đó đồng đều hết. Vì 1937-1938 thì đến đá cũng phải cực hình nữa là tù nhốt tạm trong khám tiếp nhận. Như Irkutsk có phải khám tiếp nhận đặc biệt đâu mà năm 1938 bác sĩ đi khám bệnh đâu có dám nhìn vô xà lim. Họ đi mau mau ngoài hành lang để sếp gác chạy theo ghé miệng vô hô: “Bác sĩ tới, thằng nào bệnh nặng đâu? Ra đây.”

Đúng thế thật. Thời kỳ 1937-1938 thì toàn quốc đều cám cảnh như nhau. Tệ hại nhất in hình ở biển Okhotsk và ở cảng Vladivotosk thì phải. Tối đa tàu biển chỉ chuyên chở nổi 30 ngàn tù một tháng. Trung ương không cần biết cứ cho lệnh chở tới. Kẹt cả trăm ngàn người một lúc.
  • Một trăm thằng tù kẹt? Ai đếm đâu mà biết.
  • Thằng nào công việc đếm, bắt buộc phải đếm chớ sao.
  • Đúng thế. Có đếm đâu chớ? Tháng hai năm 1937 ở khám tiếp nhận Vladivostok chẳng hạn, đâu có trên 40 ngàn tù, phải không?
Nên nói rõ khám tiếp nhận chỉ là nơi tù ở những nơi khác di chuyển tới ở tạm chờ phân phối đi những chỗ khác. Ở tạm cỡ năm bảy tháng, chen chúc ngần ấy con người. Đó là lúc rệp nảy nở như cào cào châu chấu, mỗi ngày ½ ca nước. Nước ở đâu ra cho đủ, lấy người đâu xách về. Có nguyên một trại tù nhốt toàn dân Cao Ly mà chết dần dần không còn một mạng chỉ vì một chứng kiết lỵ. Mỗi sáng lính vô mỗi trại xách ra không dưới một trăm cái xác. Hồi đó đang phải xây nhà xác nên tù chết hay đá tảng cũng đi cùng một xe. Hôm nay còn kéo xe, mai nằm xe đi là thường quá. Tháng 8 năm ấy dịch chấy rận bắt đầu làm cỏ khám tiếp nhận Vladivostok. Vậy mà thằng nào chết cũng nằm đỡ trong kẹt ít lâu để anh em hưởng khẩu phần đỡ ít ngày! Thuốc chữa thì tuyệt đối không có. Không có bất cứ một thứ thuốc gì nên tù khốn khổ quá phải lết ra tận hàng rào gào lên: “Thuốc đâu? Cho chúng tôi thuốc!”. Gào lớn quá thì lính gác nổ ít loạt súng cho át đi.

Sau cùng nhà tù đành phải lập riêng 1 trại chấy rận. Những thằng ngắc ngư cũng được đưa đến vậy, nhưng trở về thì hiếm quá! Trong xà lim này những ổ ngủ đều chia 2 từng trên dưới: Lỡ từng trên có thằng bệnh nặng quá không mò dậy nổi là chỉ chết những thằng nằm từng dưới. Từng trên ỉa đái thì từng dưới lãnh đủ chớ sao? Trại chấy rận một ngàn năm trăm thằng tù bệnh, mà An ninh, Trật tự đều do blatnye phụ trách hết. Đó là lý do những xác chết không bao giờ còn được một chiếc răng vàng. Ngay người sống còn bị “nhổ răng” khơi khơi!

Ủa, tại sao mấy anh cứ 1937-1938 mà nói mãi? Năm 1949 ở khám tạm Vanino không khổ sao? Trại số 5 chẳng hạn?

Số tù đâu có ít. Ba mươi lăm ngàn con người, chen chúc nhau sống 5, 7 tháng liền. Kẹt chở đi Kolyma mà. Không hiểu sao Trại Vanino hồi đó có cái lệ khó hiểu là đêm nào cũng có vụ dồn phòng, đổi khu luôn xoành xoạch? Đổi để làm gì không biết. Nhưng lính xông vô ra lệnh là phải là cho thật lẹ: “Ra mau! Ra bằng hết, thây kệ thằng nào kẹt bên trong”. [1] Thầy chú đã có lệnh cấp tốc như vậy thì dĩ nhiên phải chạy. Chạy cho thật nhanh, vì có việc gì ở đây được làm chầm chậm đâu? Đi lãnh bánh mì hàng ngày cũng chạy, cả trăm thằng hối hả, chen chúc nhau. Lãnh cháo cũng chạy, dù chạy tới nơi hộc tốc chẳng lấy gì để đựng cháo, ngoài vạt áo hay lật ngửa nón ra. Nhà tù dọc đường không chén dĩa. Tại sao anh có tay không ngửa ra lãnh phần cháo mà còn kêu ca cái nỗi gì? Cũng như nước xe chở lại từng bồn lớn, không có vòi nước, không có vật dụng gì có thể chứa nước được. Giản dị quá, lính gác chỉ nổ một vài loạt vào bồn thì muốn bao nhiêu vòi chẳng có? Thằng nào muốn uống chạy lại ghé miệng vào vòi. Muốn uống cho đã thì ráng tiến chiếm hàng đầu. Mà coi chừng tranh nhau, đánh nhau vì miếng nước lính trên tháp canh xả súng bắn là chết cả.

Cảnh tranh từng miếng nước này đau khổ không khác gì trong các trại giam Quốc xã. Có lần nói đã diễn ra trước sự hiện diện của Đại tướng Derevyanko, chỉ huy trưởng hệ thống Trại Cải tạo miền Đông Bắc (vùng Kolyma). Thấy lính gác trên chồi cao dám chĩa súng nổ đám tù đói khát một gã Không quân ức quá, vùng chạy lên phía trước, xé áo banh ngực ra hét lớn: “Chúng bay hãy coi đây! Tao 7 huy chương, 7 thành tích giệt giặc đây này. Ai cho phép chúng bay nã bắn vô lối thế?”

Đại tướng Derevyanko quát lớn hơn:

“Tao cho phép hắn. Cứ bắn nữa đi. Bắn đến chừng nào chúng hết dám ba gai thì thôi.”

*


Tất cả những nhà giam vừa nói trên chưa chính danh khám tiếp nhận. Phải như ở Kirov kìa! Khỏi cần chọn khoảng thời gian làm chi cho mất công. Hãy lấy ví dụ năm 1947 đi.

Nên nhớ khám Kirov (tên cũ của Uyatka) đảng phải ở Hắc Hải, nhưng tù cũng đông vậy chớ. Muốn đóng cửa xà lim là phải 2 giám thị hiệp lực: Một ông đưa bốt sút, một ông mạnh tay lẹ làng sập cửa. Thây kệ bên trong thu xếp với nhau. Thời tiết tháng 9 mà tù phải cởi trần thì hơi người phải biết hầm hập cỡ nào! Ổ ngủ thì 3 tầng trên dưới nhưng nằm là thiếu chỗ. Chỉ đứng hay ngồi là cùng, phải chia phiên lần lượt. Đứng thì xách, ngồi thì phải ôm khư khư bọc quần áo trước bụng chớ làm gì có chỗ treo. Tuy nhiên dân blatnye vẫn có giang sơn riêng: Bọn họ có quyền chiếm ngăn trên cùng, sát cửa sổ để ngả lưng thảnh thơi. Nói về rệp thì khám Kirov chẳng chịu thua bất cứ khám nào: Ban ngày chúng cũng hoạt động như điên và từ trần nhà “thả xuống” nghe rào rào! Dù là khám tạm nhưng đã vô xà lim Kirov thì tối thiểu cũng kẹt 1 tháng, may mắn lắm mới là 1 tuần!

Nghe bọn tù đua nhau diễn tả đời sống ở những khám tiếp nhận dọc đường, tôi cũng muốn đóng góp vô những gì đã thấy ở xà lim khám Krasnaya Presnya tháng 8 năm 1945, đúng mùa Chiến thắng vinh quang. (Nó nằm gần gũi quá đi, mà tại sao dân Mạc Tư Khoa ít người biết?). Nhưng Krasnaya Presnya thực sự đã đi đến đâu? Dù sao đêm đến còn duỗi chân ra được chút đỉnh, rệp cũng như muỗi chỉ tấn công mức trung bình những thân thể trần truồng láng nhẫy mồ hôi dưới ánh đèn điện chiếu gắt suốt đêm. Dù sao xà lim của tôi mới nhét cỡ 100 người, có bước đi mới thiếu chỗ đặt chân. (Được cái ít người muốn cựa quậy, đi lại cho mồ hôi túa ra nhớp nháp. Mỗi bữa ăn đành phải chịu để ra mồ hôi vậy thôi). Dù sao cũng vẫn còn 2 ô cửa sổ con con “đậy nút” kỹ càng. Phải chi “nút đậy” thông dụng thì chỉ bị cản không khí mà thôi. Bằng thép đan lưới nên chúng giữ luôn hơi nóng quá lâu, “hầm” cả xà lim.

(Sau này mới hay đặc điểm của khám tiếp nhận là không có màu sắc gì đặc biệt! Muốn tả cho rành rẽ cũng khó biết nên vào vấn đề thế nào, nói cái gì trước. Càng nhiều tù tống vô khám càng phải giản dị tối đa để hoàn toàn là một bộ máy chỉ để tiếp nhận tù. Tù kẹt lâu là tai hoạ song cũng bất lợi cho toàn bộ hệ thống Trại Cải tạo vì nạn tù “ngồi không ăn sẵn” tháng này qua tháng khác. Tính cách máy móc biểu lộ rõ rệt ở bánh mì chở cả xe, xếp chồng chất như gạch. Một xe cháo chia sáu ngăn, sáu thùng cây, trút ồng ộc.)

Nếu cần sắp hạng các khám tiếp nhận thì Kotlas coi bộ vượt hẳn lên: Nó nằm trấn ngay địa đầu Đông Bắc bình nguyên nước Nga và tới Kotlas kể như làm dân quần đảo rồi. Những quy tắc phức tạp bỏ hết! Nó giản dị là một chuồng lớn có rào sắt lần nữa và khoá thép. Chẳng cần phải có hình thức thường lệ của một nơi giam giữ người. Chỉ cần giam được người.

Năm 1930 Kotlas đầy nhóc tù nông dân nhưng nhà tù vẫn chưa cần lợp mái. Đầu đội trời chân đạp đất như vậy có mạng tù nào sống sót làm nhân chứng? Năm 1938 vẫn sơ sài những dãy nhà trệt vách ván thùng ọp ẹp, phía trên che đỡ bằng một lớp vải bạt. Tuyết đổ hay nắng cháy vẫn chỉ có bấy nhiêu. Tù chen chúc, không tham gia sản xuất được nhưng cấm ngồi không cho quen lì lợm, làm biếng. Không đi làm nhưng điểm danh lu bù, cả ngày lẫn đêm. Bất kể giờ giấc có hiệu lệnh tập hợp là 20 ngàn con người phải vùng dậy chạy ra sắp hàng cho cơ thể có dịp vận động và xếp kiểm soát từng đầu một.

Dần dà thêm lều vải, thêm ít dãy nhà cây tiếng là hai tầng nhưng để tiết kiệm cây ván không có sàn lầu 1. Ngoài một diện tích tối thiểu hẹp như boong tàu biển ở sát ổ ngủ thì lầu 1 chẳng còn gì nữa! Mỗi “lầu” 3 tầng ổ ngủ trên dưới nay có 6 tầng ổ ngủ nên phải kể như có lầu 1 luôn. Lên xuống đến ổ ngủ thứ 6 cao chót vót cũng chỉ có mấy bậc thang cây thô sơ, người khoẻ trèo cũng mệt rã rời huống hồ bọn tù ốm đói thường xuyên. Nhưng để vận động cơ thể thì những bậc thang quả là dụng cụ lý tưởng!

Mùa Đông năm 1944-1945 khu nào cũng có mái che đầy đủ nhưng sức chứa tối đa của khám tiếp nhận Kotlas chỉ tới mức 7 ngàn 5 trăm tội phạm với số tử trung bình 1 ngày 50 mạng. Ban Vệ sinh khám làm việc trối chết – nhất là tiểu ban khiêng cáng xuống nhà xác – nhưng Ban Quản đốc Kotlas hài lòng vì tỷ lệ tù tử vong luôn luôn dưới mức 1%. Tính ra một thằng tù nằm Kotlas còn sống được tới 5 tháng, theo toán học. So với các Trại Cải tạo thì nơi đây còn là CÕI THỌ (Cứ vô đi, rồi biết!)

Ở các địa hạt sản xuất khác, kế hoạch gia nhà nước không chịu chấp nhận, một mức độ hư hao lớn lao cỡ này. Hư đến 2 phần 3 của một phần trăm hàng hoá sản xuất hàng ngày – kể cả rau tươi, trái tươi nhập kho - hiển nhiên làm băng hoại kinh tế nước nhà! Đối với dân quần đảo càng đi sâu vào nếp sống Trại Cải tạo càng khám phá ra rằng hình thức nhà giam biến mất dần: Đúng là những nhà kho người để cho “nhập kho” đám tù từ các khám tạm chuyển tiếp các nơi chuyên chở đến.

Nhà kho Karabas tỉnh Karaganda trong năm bảy năm đã tiếp nhận nửa triệu tù để phân phối đi các trại mà. Năm 1942 Yuri Karbe đã ghé qua nơi này, vô sổ cái dưới số hiệu thằng tù thứ 433 ngàn. Con đẻ quần đảo thường coi Karabas là khám tiếp nhận tiêu biểu. Đúng vậy, nếu cần lưu lại một chứng tích lịch sử thì Karabas phải là Bảo tàng viện mới đúng. Tuy nhiên nhà nước đã xoá bỏ để lập nhà máy sản xuất dụng cụ xi-măng đúc. Đặc điểm Karabas là những dãy nhà đất thấp lè tè như hang, nền bằng đất nện. Nền đất lâu ngày láng coóng, mịn mặt nên Ban Quản đốc bày trò ngày nào cũng bắt tù xách hết đồ ra ngoài trời để Ban Mỹ thuật vô quét vôi nền nhà, vẽ những bức “bích hoạ” khổng lồ. Đêm đến tù vô nằm xoá bỏ bằng hết tác phẩm và sáng mai Mỹ thuật sáng tác lại từ đầu.

Khám Knyazh Pogost ở vĩ tuyến 63 đặc biệt là cả dãy nhà sàn, dựng trên bãi sình, vách là những tấm bạt căng chỗ kín chỗ hở. Từ những hàng cừ cắm sâu xuống sình đến cột kèo sàn nhà, ổ ngủ đều bằng nguyên cây gỗ không bào. Cũng 2 tầng ổ ngủ trên dưới nên lâu ngày cứ lún dần, sàn nhà muốn đụng mặt sình, nhiều chỗ sình dâng lên ngập ngụa, hôi thối. Đêm về phải biết là lạnh cóng nhưng xét ra cũng chưa sợ bằng những lúc phải di chuyển. Trên bãi sình dĩ nhiên mọi đường đi lối lại trong khám đều là cầu khỉ lớn nhỏ. Thân hình yếu ớt gió thổi bay, biết bao nhiêu mạng tù đã rớt xuống và chậm vớt lên là chết sặc. Cứng cáp, vững chắc sao nổi khi ngày nào cũng chỉ một món duy nhất, không ra cháo không ra cơm, lổn nhổn những vụn cháy và xương cá. Phải cho ăn cách này mới thuận tiện: Đỡ phải chén, bát, muỗng, dĩa. Khám tạm mà. Giờ “cơm” cứ 12 thằng một tổ được hướng dẫn vô lò: Có nón thì ngửa ra nếu không “túm” bằng vạt áo!

Khám Vogvozdino (cách tỉnh lỵ Ust Vym cỡ 10 cây số) ngày nay có ai biết nó nằm chỗ nào. Đấy là cửa di chót dẫn vào quần đảo, có lúc chứa tới 5 ngàn tù. Vô đây là tống ngay đi, thằng nào xui xẻo lắm mới kẹt cỡ 1 năm (!) chỉ vì chẳng Trại Cải tạo nào chịu nhận cho. Kẹt cỡ đó chỉ là dai sức lắm vì Vogvozdino đâu có dựng trên bãi sình mà chế độ khẩu phần cũng in hệt Knyazh Pogost! Món ăn duy nhất năm này sang năm khác cũng nửa cháo nửa cơm. Mỗi tổ 10 mạng lãnh về một chậu “la-va-bô”, nóng hay nguội cũng chỉ có một cách là lấy tay vét ăn. [2]

*


Xin nói ngay để bạn đọc đừng chê thô tục: Ăn đã vậy thì ỉa làm sao? Ôi chao, cả một cực hình!

Sự thực mấy ông nhà văn vốn nghèo chất liệu mỗi khi đả động đến nếp sống và phong tục quần đảo. Hình như mỗi lần muốn vạch rõ chế độ nhà tù hắc ám, phi nhân họ ưa nhấn mạnh và lên án cái cầu tiêu mà theo họ đó là tượng trưng rõ nét nhất về sự hành hạ, sa đoạ con người. Họ cứ tưởng đâu cầu tiêu là cả một ám ảnh hãi hùng đối với thằng tù. Chao ôi, họ đâu biết chính nó là cứu tinh – một ân huệ lớn của nhà tù ban cho thằng tù. Ám ảnh hãi hùng đệ nhất là bước vô xà lim không thấy nó nằm đâu kìa!

Có đi tù Tây Bá Lợi Á năm 1938 mới hiểu nỗi thống khổ của thằng tù không có cầu tiêu để mà ỉa! Làm sao cho kịp cầu tiêu, biết bao nhiêu cầu tiêu mới đủ cho nhu cầu tối thiết của những lớp tù dồn vô đông đến thế? So với những đợt tù dồn dập thì kỹ nghệ xây cất của Tây Bá Lợi Á tiến bộ sao kịp?

Thế là những nhà kho đợt mới thiếu đứt khoản cầu tiêu. Rồi những xà lim cũ bên trong có sẵn cầu tiêu cũng gỡ đi luôn. Để nó làm chi, khi nó không thực sự giải quyết được phần nào nhu cầu? Nó được chế tạo theo tiêu chuẩn cũ và nhiệt độ tù “nhập kho” vượt qua mọi tiêu chuẩn mà. Khám đường Minusink lập ra với sức chứa tối đa 500 tù (Lênin cũng từng ở đây nhưng người có đặc quyền di chuyển thong thả). Nay phải nhét vô 10 ngàn, thì chế tạo sao nổi những cầu tiêu trong xà lim với dung tích 20 lần lớn hơn?

Nhà văn Nga có lệ ưa tả những cái gì thanh cao, tránh bằng hết những danh xưng tục tĩu, thô bỉ. Họ không khoái mổ xẻ vấn đề chia ly, đặt kính hiển vi vào cả những thứ tầm thường, nhỏ mọn nhất cho các cây viết Tây phương để thấu hiểu cho nỗi khổ tâm của một thằng tù bị tống vô một xà lim với số tù chen chúc 20 lần nhiều hơn, mà mỗi ngày chỉ được phép dẫn đi cầu đúng 1 lần! Nhà văn Tây phương chú ý đến xã hội của họ không thể quan niệm nổi một nếp sống (dù là tù đày) mà người vô trước khuyến cáo người vô sau nếu mắc đái quá hãy tống đại vào lòng nón, và chiếc giày bốt dựng ngửa lên rồi lộn đầu trong ra ngoài, đặt xuống đất là có một cái cầu tiêu khá chắc chắn, xài tạm được. Những đầu óc Tây phương đó làm sao thấu triệt nổi nguyên tắc “ít ăn ít ỉa, ít uống ít đái” tốt đẹp ở khám đường Minusink. Mỗi tổ 4 người, mỗi ngày lãnh một chậu thức ăn, 1 ca nước uống. Có vậy thôi, liệu mà chia nhau! Có 4 thằng tù với nhau mà chia chác cho đều đâu phải dễ. Chưa kể đến thằng giành giữ chậu thức ăn, thằng đòi giữ lại phần nước, chưa uống vội. Những vấn đề không giải quyết nổi chỉ nhà tù không cung cấp đủ chậu đủ ca cho tù, dù 4 thằng xài chung 1 cái!

Chao ôi, lúc bấy giờ mới nảy ra tranh chấp, lúc bấy giờ con người mới để lộ ra tất cả những cái gì gọi là thú tánh kìm hãm mãi! Tôi không dám nói đùa. Phải chung chạ trong hoàn cảnh nghiệt ngã như thế đó cái đáy của con người mới nổi lên, hiện nguyên hình. Nhưng nhà văn Nga còn bận rộn nhiều chuyện khác, người đọc Nga cũng chẳng có thì giờ đâu để đọc vụ đó. Tôi đâu dám nói đùa, chỉ có thầy thuốc nhìn vô mới hiểu chỉ cần vài tháng sống trong cảnh ngặt nghèo đó đủ di hại cho cả một đời người. Không cần phải bị Yezhov đưa ra pháp trường xử bắn, con người không còn là người nữa. Dù có được Khruschhev phục hồi công quyền cũng vẫn đến vậy mà thôi.

*


Than ôi, nếp sống khám tiếp nhận là như vậy đó mà bọn tôi có hồi đã mơ màng, mong ước sao cho mau đến nơi để nghỉ ngơi cho thoải mái con người một chút! Chẳng là bị dồn ép mấy ngày liền trên xe Stolypin, chỉ khấp khởi mong đến một chỗ nào có thể duỗi chân ra một lúc, hay đứng thẳng lên được cũng đỡ khổ. Cứ tưởng bề nào cũng qua được cái nạn “đi cầu có hộ tống, 1 phút 1 đầu”. Nước uống ít ra cũng không hạn chế, không chừng còn được nấu sôi lên pha chút trà nữa! Và đồ ăn thì chắc chắn khỏi phải “trao đổi” quần áo mới đòi lại đủ khẩu phần của mình hàng ngày. Thế nào chẳng có đồ ăn chín, đồ nóng? Mà tệ nhất cũng phải có chút nước để tắm qua loa, xối nước lên người chỉ để phải gãi ngữa tối ngày chớ. Than ôi, quăng lên quật xuống mấy đợt trên xe bít bùng, xương cốt tụi tôi muốn rời rã. Tay đứa nào cũng giơ lên hết nổi sau những màn tay xách đồ, tay ôm eo thằng đằng trước, hoặc đi cúi lom khom như một đàn ngỗng.

Mà thôi, cứ cho rằng không có đủ ngần ấy thứ đi nữa tụi tôi cũng thấy lên tinh thần chán. Lên xe Stolypin là chỉ mong đến khám tiếp nhận cho xong. Thì bây giờ đến nơi rồi đấy. Chẳng khám tiếp nhận là gì đây?

Điều nhận xét trước tiên là nơi đây cũng có những cái ước mơ của tụi tôi trở thành sự thực. Nhưng cũng có nhiều diễn biến quả thực là không dám ngờ.

Chẳng hạn như vấn đề tắm táp sao đây? Chưa biết. Nhưng đột nhiên thấy ra lệnh: Đàn bà phải hớt tóc, cấm để tóc dài (khám Krasnaya Presnya, tháng 11 năm 1950). Lại còn cả dãy đàn ông cỡi truồng đứng sắp hàng cho đàn bà hớt tóc giùm nữa mới là khổ. Ở Vologda sếp phòng tắm là mụ mập Motya. Thấy đủ số cho đi tắm một lượt được rồi là mụ đứng dậy hô lớn: “Đứng dậy, mấy cha!”. Mụ sẽ đưa cả đám vô vòi nước nóng. Ở khám tạm Irkutsk lại khác: Phụ trách phòng tắm phải toàn là đàn ông! Khám Novosibirsk thì giữa mùa Đông tháng giá tù cũng ráng tắm nước lạnh cho quen. Có phản đối thượng cấp thì một ông Đại úy sẽ hầm hầm bước vô, khẽ đưa mấy ngón tay vô vòi nước, quát ầm lên: “Tao thấy nước thế này là đủ nóng rồi! Đòi hỏi cái gì? Nhưng thôi, thiếu gì nạn tắm đặc biệt. Cũng tắm, nhưng tắm cạn, tắm khô. Cởi quần áo ra, vứt vô chảo cho lên bếp lò rang khô (cho đúng cách hấp tẩy vệ sinh!). Cũng tắm nhưng tắm xong tù phải ở truồng, chân đất chạy trên tuyết mới lấy được quần áo mặc vô, như ở trại giam Ty phản gián, Mặt trận Byelorussia ở Brodnica năm 1945.

Đặt chân vô khám tạm anh sẽ nhận ra ngay những nhân vật mà anh phải tiếp xúc không phải là người nhà nước, giám thị hay sĩ quan chuyên nghiệp là những người ít nhất lúc hành nghề cũng tôn trọng luật nhà nước. Cấp thẩm quyền ở đây toàn thứ được đề bạt vào làm việc nhà lao, những khuôn mặt rất quen thuộc với anh từ trên toa xe Stolypin nhưng nơi đây họ sạch sẽ, chỉnh tề và nghiêm trang hơn nhiều. Mấy ông bạn blatnye chớ ai khác.

Bọn họ thì thằng sếp phòng tắm có thể chào đón vô duyên hạ cấp: “Rước quý ngài Phát-xít đi tắm chơi”, thằng cắt cử công tác tay cầm bản phân công tò mò, soi bói nhìn từng tên coi “thằng nào, nghề gì”. Thằng huấn luyện viên cuốn tròn tờ báo đập đập vào đùi mà mắt vẫn không ngừng “chiếu tướng” bên trong ba lô! Nghĩa là được đề bạt vào chức vụ thầy chú nhưng cái đuôi blatnye của họ vẫn sờ sờ: Thấy vật gì có thể chứa đựng những món đồ bóc lột được là động lòng tham ngó sững như muốn qua lớp vỏ. Làm công việc của thầy chú dĩ nhiên tha hồ đi lại. Đâu phải thằng tù nữa. Đó là người làm việc nhà nước, tư cách và long trọng đủ để thay mặt nhà nước áp dụng kỷ luật nhà tù. Quan sát kỹ thì đấy mới là thành phần bần cố tiêu biểu Nga, chính gốc bố cu mẹ đĩ. Cũng hai lỗ mắt, hai lỗ mũi như ai nhưng lỗ miệng kên kên rõ: Đó là chuyện bộ phận chuyên môn ăn đớp và phát ngôn những danh từ đặc biệt nhà nghề.

Phải hiểu tổ chức nhà lao. Có nhân viên phụ trách là phải có lương nhà nước: Tại sao ông Quản đốc ma lanh không bỏ túi một mớ lương nhân viên (sau khi đã chia chác) và “đề bạt” các anh em blatnye vô làm thế chân nhỉ? Chỉ cần vẫy tay một phát thì anh em xung phong thiếu gì? Đâu cần lương tháng. Chỉ đòi hỏi được quyền được ở lại khám tiếp nhận để tha hồ ăn trên ngồi trước, khỏi phải đi nông trường hay công trường Mỏ là được. Do đó dần dà các khám tạm đều có nguyên một bộ phận hành sự blatnye: Văn phòng thì có đủ thư ký, kích thước, thủ kho. Cán bộ thì sếp phòng tắm, sếp hớt tóc, sếp thợ may, sếp bếp, sếp cầu rửa, ngành nào cũng có sếp, có huấn luyện viên! Trên giấy tờ họ cũng vẫn là tù, vẫn có danh sách trong xà lim vậy. Ngoài khẩu phần chính thức tha hồ hưởng thực phẩm thặng dư ăn chặn của tù ngay từ dưới bếp, còn dư bao nhiêu bacilli lột được của bọn làng xã, dân quỉnh nữa chớ. Tội gì chúng không phục vụ khám tạm đắc lực để được nằm lại vĩnh viễn.

Than ôi, đã vô đến khám tiếp nhận để chuẩn bị làm dân quần đảo thì thằng tù nào chẳng xác xơ, có còn giữ được gì? Nhưng dù sao vẫn còn rút rỉa được, vì muốn ngàn mánh lới mà căn bản là không du ngoài võ lực cưỡng đoạt. Chỉ “mượn”, “giữ giùm cho khỏi mất” và “đền ơn” là cùng!

Chẳng hạn như khám vừa tiếp nhận đám tù thì vô sổ cũng người anh em lo, công tác quan trọng nhất là khám hành lý, lục lọi xét từng người cũng hoàn toàn người anh em phụ trách. Câu đầu tiên trước khi khám xét bao giờ cũng là: “Vô đến đây bà con đừng giấu giếm tiền nghe! Tốt hơn có bao nhiêu khai ra. Nhà tù giữ giùm có biên nhận hẳn hoi.” Dại dột thò tiền ra là mất luôn: Chẳng nhìn thấy tiền, sờ thấy biên lai vô sổ bao giờ!

Kế tiếp là một công tác vệ sinh rất hợp lý: Tù phải được đi tắm ngay để tẩy uế. Cởi quần áo ra, phân vân chưa biết tính sao đã nghe sếp tắm nạt: “Coi, tính xách quần áo vô tắm luôn sao? Để đấy, mớ giẻ rách ai thèm”. Đi trở ra thiếu đứt một số quần áo tốt nhất, áo lên, quần dạ không bao giờ còn! Có kêu ca, thưa gởi sẽ bị nghe câu chặn họng muôn thuở: “Mấy người lộn xộn, vứt bừa bãi quá! Chỉ mấy người lấy của nhau chớ ai ở đây mà thèm!”. Có khăng khăng làm tới thì: “Mất cái gì? Áo len hả? Màu gì?”. Xác nhận: “Áo len dài tay màu xám” cũng tối vô ích vì sếp kết luận: “Ồ, dài tay màu xám thiếu gì. Chắc mặc lẫn lộn của nhau! Hay tụi nó không biết quơ luôn xuống nhà giặt rồi. Để thủng thỉnh kiếm!“

Có bao giờ kiếm ra? Nó đã được người anh em “mượn” rồi. Cũng như chiếc va-li còn tốt, người anh em đề nghị “gởi kho” giùm là vô phương “xin lại”. Người anh em còn được “đền ơn” nhiều cách. Muốn được vô một xà lim đỡ khổ là phải có một cái gì. Hai thằng muốn gần nhau, nhờ người anh em thu xếp cho ở chung phòng ắt phải biết điều. Muốn có tên trong danh sách đi ngay, hoặc muốn được ở nán lại vài ngày cũng chẳng khó. Nếu có một cái gì để “đền ơn”.

Do đó không phải muốn làm “người anh em” mà dễ! Thiếu gì dân blatnye thứ thiệt nằm chết rũ trong xà lim, dù cũng đầy một ngực xâm trổ. Đó là những đấng ưa chọn chỗ gần cửa sổ, đợi có đám tù mới ngồi xếp hàng đợi phiên khám xét là hù, đại khái: “Mấy anh em mới tới bữa nay hả? Ở đây bọn chó đẻ xét khó lắm nghe. Thấy trà thấy thuốc lá là tịch thu liền! Muốn khỏi mất thì thảy vô đây bọn này giữ giùm , lát nữa vô lấy lại. Để chúng nó thấy là mất không còn một sợi!” Biết họ có tịch thu mấy thứ đó thật không? Dám có lắm. Không lẽ cùng thân phận tù tội với nhau họ lại bịp trắng trợn, nhỏ mọn thế? Mà lát nữa lỡ bị mất thiệt, anh em đã cho hay trước còn mất thì sao? Thế là không do dự, mấy gói trà, mớ thuốc lá được liệng vô cửa sổ và dĩ nhiên mất luôn! Bên trong xà lim các anh em cười hô hố: “Bọn phát-xít phản động, ngu muội!”

Thì ra khám tiếp nhận là như vậy. Không cần hô lớn, không viết thành khẩu hiệu dán vách nhưng thằng tù mới đến phải hiểu ngầm: “Nơi đây không Công lý, lẽ phải! Đứng nói đến tư hữu, của riêng. Có bao nhiêu đưa hết ra. Nộp hết đi, giữ sao nổi!”

Chao ôi, giữ không nổi thật, và giữ để làm gì? Lãnh bản án đi đày đã choáng váng, kể như chết nửa người rồi. Không biết cuộc đời sẽ ra sao đây, Vật vờ sống qua ngày mà đến đâu cũng bị bóc lột mãi thế này. Án chính trị là bị dồn ép mọi bề, ai ai cũng hành hạ thân xác được thì giữ làm gì những thứ không dính theo người?

Giữ làm gì khi bằng chứng của sự bóc lột, cưỡng đoạt dễ thấy quá. Đó kể như một hành động được công nhận. Này ông giám thị khám tạm Gorky đầu lúc lắc nhưng tay vẫn đưa ra nhận đỡ chiếc bành tô nhà binh thứ chiến mà Ans Berntein hể hả trao tay. Ít ra còn đánh đổi được 2 củ hành! Khám Krasnaya Presnya có thầy chú nào không diện một đôi bốt da láng coóng mà nhà binh không hề phát? Toàn là bốt của tù, do kên kên “làm ăn” được và chia chác cho chớ còn ở đâu ra? Còn nói làm gì khi khám Kem có mỗi một ông huấn luyện viên, trưởng ban Học tập và Văn hoá thì người lại là dân blatnye chính cống và chính ông dân chơi có hạng này lại phụ trách công tác báo cáo hạnh kiểm tù chính trị. Vô khám tạm Rostov còn nói làm gì đến Công lý và chống trộm cướp khi cả nước phải công nhận đây là sào huyệt đắc địa bậc nhất của họ nhà kên kên.

Không phải tất cả đều cúi đầu, chấp nhận mọi sự lộng hành, nhũng nhiễu của blatnye. Nghe nói năm 1942 ở ngay khám tạm Gorky một số tù chính trị cựu sĩ quan (trong đó có Gavrilov, kỹ sư công binh Sthhebetin,) đã uất ức, trừng trị đích đáng bọn kên kên, buộc phải chịu phép. Có thể có chuyện trên nhưng chỉ ở một nơi đó, trong thời gian nào đó thôi. Không bao giờ blatnye chịu khuất phục vĩnh viễn vì họ còn là “thành phần cải tạo được” không lẽ phải chịu thua “bọn phản động, rác rưởi, bỏ đi?”. Bề nào cũng còn các đồng minh Mũ Xanh mà. Chuyện can thiệp đã từng xảy ra ở khám Kotlas năm 1940. Đang xếp hàng trước Câu lạc bộ tiền cầm sẵn ra tay đợi lượt bước vô mà bị kên kên xông tới giựt thì chịu sao nổi? Tù chính trị hè nhau đập túi bụi, không mạng nào thoát ra nổi, nhưng biết làm sao hơn khi giám thị “can thiệp” không nổi đã có lớp lính gác ngoài hàng rào xông vô bên trong nhà tù giải tán tất cả bằng những họng đại liên.

Cũng phải nói dân blatnye lên chân được một phần cũng vì số người thích nhờ vả. Có gì đâu, kẹt trong xà lim không được nhờ những thằng có quyền chạy ngoài mua đồ giùm thôi! Họ xăng xái lắm chớ, có tiền mà. Nay thức ăn mai vật dụng, người có tiền dần dà đâm lụy thằng mua giùm, lệ thuộc vào nó chỉ vì chút tiện nghi vật chất. Từ nhờ vả, cầu cạnh đến chịu lụy và nô lệ quá dễ! Càng lệ thuộc vào tiện nghi vật chất thì càng khó lòng giữ bản sắc của một thằng tù dù tù tội cũng ráng giữ được tự do để đạt đến mức tinh thần thanh thản. Càng sa lầy càng khó vươn lên vì, lạc đà làm sao chui lọt lỗ kim? Cũng chỉ vì quá tha thiết mấy món vật dụng nên anh mới quên lúc ngồi xe bít bùng dân blatnye cũng đã đánh hơi và thèm chiếc ba lô của anh lắm, nhưng chúng không dám vì chúng có 2 mà bọn anh tới 50 người mà. Cũng thỉ vì lo sợ mất đồ nên ngồi chen chúc với nhau qua ngày thứ hai ở nhà ga Krasnaya Presnya ướt át anh đâu còn đầu óc để quan sát ngoại vật. Chỉ tính toán làm cách nào cho khỏi mất đây.

Lúc hành lý được khám xét xong anh thở phào ra nhẹ nhõm. À, xong rồi thì còn đồ! Nghĩa là lần này chưa, có mất phải lần sau! Ít ra cũng còn cầm tay được một gói, một bọc bên trong có thứ gì ăn được. Xem ra đám tù mới nhiều dân quỉnh con mòng quá. Vậy phải phân tán, chia đều ra các xà lim. Tình cờ tôi lọt chung phòng với anh chàng thầy bói sáng Valentin, chỗ quen biết từ ngày bị kêu lên lãnh án. Người long trọng và cảm động đề nghị lập một cuộc đời mới trong trại. Cũng dễ vì lúc đó xà lim còn chưa đến nỗi đông lắm, dưới sàn còn có chỗ đi lại. Ngay ở các ổ nằm cũng khoảng khoát.

Thông lệ thì ngăn trên cùng đã có anh em dân chơi bao trọn. Đàn anh gần cửa sổ, em út xa xa một chút. Ngăn dưới nằm lũ lượt một đống người. Không có chuyện gì xảy ra. Tụi tôi dân mới, thiếu kinh nghiệm có biết lựa chọn, thu xếp gì. Thấy chỗ trống phía dưới là chui vô, tuy gần ổ ngủ hơi thấp một chút nhưng cúi sát xuống, luồn vô cũng được. Hai đứa nằm duỗi dài cạnh nhau, dù nằm gần cũng khoan khoái lắm rồi. Ít ra cũng kề cận nhau, khe khẽ nói chuyện tâm tình. Miễn là không có chuyện gì xảy ra!

Nhưng làm sao không có chuyện cho được? Bao nhiêu thứ quý giá thồn vô, mỗi thằng một gói đầu giường thì chắc ăn quá rồi. Nào ngờ nằm chưa nóng chỗ đã có động!

Rất nhẹ nhàng hệt như những bóng ma, mấy bóng đen từ hai bên trườn tới đột kích. Dáng người thế kia thì người lớn sao được? Đúng, toàn con nít! Có đứa chỉ 12 tuổi là nhiều, 12 tuổi vẫn lãnh án đại hình, Toà vẫn xử như thường. Phải nói là chúng đã “tốt nghiệp” kể từ ngày lãnh án và những ngày nằm khám kể như “thực tập”, có các đàn anh sa cơ, thừa thì giờ truyền bằng hết kinh nghiệm quý báu.

Chúng lẹ vô cùng và tính toán “làm ăn” thần sầu. Chợt thấy chúng thì đã muộn rồi: 6 cánh tay luồn như rắn “mượn” luôn 2 gói bảo vật mà 2 đứa tụi tôi đang gối cứng dưới đầu. Chỉ thấy soạt một phát là những cái gì mình khăng khăng giữ lọt hẳn sang tay chúng để chúng chuồn đi như chuột cắp đồ! Cả hai chúng tôi trơ mắt ngó. Gầm sàn quá thấp, cất đầu sao nổi? Muốn rượt theo cũng vô phương vì chuồn ra chầm chậm cũng còn khó quá! Đành lấy mắt ngó theo, uất ức. Không lẽ bị cướp giật đồ khơi khơi mà cứ dằn lòng nằm mãi? Càng suy nghĩ càng thấy mình ngu: Khi không chui đầu vô hang cụt để thấy chuột cõng đồ đi mà ú ớ nằm nguyên chỗ. Từ từ cả hai đứa trườn giật lùi mãi mới thoát khỏi cái gầm.

Nằm khám bị 3 đứa con nít được ủy nhiệm lòn vô phỗng tay trên tất cả gia tài cùng nín thinh lúc bấy giờ. Tôi đâu có phải thằng hèn. Địch pháo như mưa bấc giữa đồng trống tôi vẫn xung phong, đường gài đầy mìn chống chiến xa vẫn dám lái xe đi như không, bị bao vây 4 mặt vẫn tỉnh táo kéo cả pháo đội ra an toàn còn trở lại lấy nốt chiếc xe chỉ huy. Vậy sao tôi không dám nắm đầu mấy thằng ranh mất dạy dọng xuống sàn dầu hắc? Nó con nít không nỡ thì đứa cầm đầu nó. Tôi không làm gì! Hay ở chiến trường hăng say tình đồng đội hoặc vì nghĩa vụ chiến sĩ lúc bấy giờ phải làm như vậy , trong khi lọt vào chốn hoàn toàn xa lạ này tôi mù mờ, không biết phải phản ứng cách nào cho đúng?

Tôi đi tới thằng sếp sòng. “Gia tài” bọn nhãi vừa cướp giật còn nằm sờ sờ cạnh nó, gần chỗ cửa sổ. Còn nguyên vẹn! Bọn chuột nhắt đâu dám đụng tới “chiến phẩm”. Mặt thằng chúa đảng chao ôi là cả một sự nhớp nhúa, buồn nôn! Đúng là phần trên dị hợm của con vật 2 chân gọi là người, quân kên kên săn mồi có khác. Nó thỏn lại điếm đàng và trâng tráo. Phần trán ngắn ngủi, cái sẹo ác ôn, hàm răng giả gớm khiếp. Cặp mắt ti hí thế kia có lẽ trời sinh ra chỉ để ngó cho thấy đường chớ đâu phải để tưởng thức những vẻ đẹp của thiên nhiên. Nó ngó sững tôi, đeo dính như rắn đeo mồi.

Rõ ràng nó chờ coi tôi làm gì. Tôi phải làm gì? Đập một phát bể khuôn mặt thú vật rồi ung dung đi về phía mình? Khốn nạn, tôi đâu có làm vậy! Không lẽ chịu quay trở về chỗ cũ, nằm bóp bụng chui vô gầm sàn? Cũng không. Tôi hậm hực bảo nó lấy hết đồ ăn thì ít nhất cũng thu xếp giùm một chỗ trên ổ đàng hoàng chớ. Uất ức, nhỏ mọn như vậy đó.

Thằng sếp sòng gật đầu. Làm gì nó không chấp thuận? Tôi đâu có đòi lại những món bổ béo mà còn yêu cầu “thu xếp” tức đã gián tiếp xác nhận chủ quyền của nó ở đất này còn gì? Vậy là tôi đồng ý quan điểm với nó, đè đầu được thằng nào là đè, nhằm những thằng yếu nhất. Lệnh của sếp sòng ban ra là có chỗ trống lập tức ở ổ dưới, 2 chỗ tốt nhất cạnh cửa sổ. Hai đứa đang nằm phải riu ríu “tản cư” đi chỗ khác. Tôi và Valentin điềm nhiên ngả lưng xuống mà vẫn tiếc hùi hụi hai bọc đồ: Mấy món nhà binh của tôi các người anh em không khoái mấy nhưng một đứa cứ vuốt mãi chiếc quần len của Valentin.

Đêm hôm đó mấy người nằm cạnh than thở với nhau. Sao lại có hạng người hạ mình nhờ vả bọn blatnye để tranh đoạt cả chỗ nằm của anh em nhà, những người cùng đi đày điều 58 với nhau? Lúc đó tôi sực nhớ lại cử chỉ hèn hạ của mình, càng ngẫm nghĩ càng thấm thía và nhục nhã (bao nhiêu năm sau mỗi lần nghĩ tới tôi còn đỏ mặt).

Dĩ nhiên tôi không biết 2 kẻ vừa bị truất chỗ là ai. Nhưng họ là bạn đồng tù. Họ lại là cựu tù binh hồi hương, thành phần bị đày đoạ nhất. Sau bao nhiêu ngày tháng dở sống dở chết trong trại tù binh địch tưởng được giải thoát hồi hương nào ngờ bị tống hết đi đày vì điều 58 khoản 1b. Mới đây tôi còn xót thương, còn cầu nguyện vì họ tranh đấu! Vậy mà vừa rồi tôi còn tranh chỗ nằm của họ, lại nhờ áp lực của bọn lưu manh, thì đốn mạt quá! Đồng ý la họ lặng thinh, không can thiệp lúc bọn kên kên cướp giựt đồ của tụi tôi. Nhưng chính tụi tôi – người mất đồ – có kháng cự, có chống lại đâu mà đòi hỏi họ bênh vực? Họ đã dở sống dở chết trong các trại giam đến mất hết tin tưởng ở sự tử tế trên cõi đời này. Nhưng họ có đụng chạm gì đến tụi tôi? Mà tôi nỡ đối xử như vậy, không đỏ mặt sao được?

Thì ra con người ta là vậy. Phải có hoài hoài những bài học, phải ăn roi và thường trực gò nắn thì mai sau may ra mới nên người.

*


Phải nói là dù bị quăng lên quật xuống ở trong đó thật nhưng khám tiếp nhận thực sự vẫn là cứu tinh của một thằng tù mới. Nó là một cửa vào quần đảo tối cần thiết để tập chịu đựng cho quen dần trước khi vô ở hẳn Trại Cải tạo. Đang tự do ở ngoài đời bị tống tức khắc vô quần đảo, sự thay đổi quá đột ngột, phũ phàng, mấy ai chịu nổi? Để khỏi bị mất hồn phải có một chuẩn bị tiệm tiến, phải học tập chịu đựng mọi thử thách.

Nằm khám tiếp nhận cảm giác tốt đẹp đầu tiên là thấy gần gũi với gia đình. Từ ngày bị bắt có bao giờ được phép gửi thư, nhắn tin về nhà. Đến đây mới được phép viết lá thư đầu tiên. Ít nhất cũng có thể cho gia đình hay chưa đến nỗi chết và đôi khi còn có thể cho biết hiện đang trên đường lưu đày phương nào. Gia đình, thân nhân cứ tưởng người bị bắt vẫn như xưa nay hay có thay đổi cũng chỉ phần nào. Nào ngờ thời gian tù tội đã biến đổi hắn thành một người khác hẳn, không thể trở lại con người ngày xưa. Coi lá thư thứ nhất viết về nhà là thấy ngay sự thay đổi nhưng làm sao khác hơn được. Nó nguệch ngoạc, xiêu vẹo, vì nhà tù cho phép viết thư, sân trong khám còn có thùng bỏ thư đàng hoàng nhưng lấy đâu ra giấy, viết chì? Kiếm cho ra một cái gì có thể gọt viết chì cũng khó trần ai! Phải xoay sở một mảnh giấy gói thuốc rê, gói đường gì đó rồi vuốt ve cho thẳng thắn, nài nỉ mượn cây viết chì cùn của gã cùng nằm chung xà lim. Nắn nót viết thế nào cũng cứ nguệch ngoạc nhưng gia đình sung sướng hay lo lắng cũng vì nó.

Thiếu gì bà vợ vừa nhận được mấy chữ của chồng vội cuống cuồng tìm đủ mọi cách để mò tới tận khám tiếp nhận chỉ cốt dể nhìn thấy tận mặt chồng. Chẳng bao giờ được phép vô thăm. Chưa nghe nói khám tiếp nhận nào cho phép hết. Khéo xoay sở lắm cũng chỉ gởi vô thêm được ít đồ nuôi càng làm bận tâm thêm. Vì vậy mới có sự tích trông chồng dưới đây mà theo ý tôi phải dựng tượng đá kỷ niệm đúng chỗ mới đáng để đời sau suy ngẫm.

Vụ này xảy ra năm 1950 ở khám tiếp nhận Kuibyshev. Khám choán trọn một vùng đất thấp nhưng từ đây nhìn xuống vẫn thấy cây cầu Zhiguli trên sông Volga. Tiếp giáp với khám ở phía đông là cả một sườn đồi sừng sững cỏ xanh, hệt như bức tường thành khổng lồ chắn ngang, cao vòi vọi. Hoạ hoằn lắm mới thấy đàn dê được trẻ chăn lên ăn cỏ sườn đồi. Bỗng đâu một buổi trưa mùa hạ có bóng người lạ thấp thoáng trên đồi: một phụ nữ tỉnh thành! Nàng đứng sững một chỗ, tay đưa lên che nắng, nghển cổ ngó xuống nhà giam. Giờ đi dạo thường nhật, dưới sân khám cả 3 xà lim trên 300 con người cùng được thả ra cho đi chơi một lượt, ở 3 khoảng sân cách nhau. Sừng sững trên sườn đồi, người đàn bà đứng nghển cổ ngóng xuống mãi. Xa xôi, cách trở như vậy thì thấy mặt chồng sao nổi, 1 con kiến giữa đàn kiến 300 con? Hoạ may nhờ linh tính! Chắc hẳn xin phép vô thăm không được nàng mới leo lên đồi ngó xuống, cố tìm hình ảnh người thân.

Dưới chân khám bao nhiêu con mắt ngóng lên. Dưới này lặng gió nhưng sườn đồi chơ vơ chắc gió thổi ào ào. Gió lộng thổi tạt mớ tóc dài buông xõa, xiêm áo bay phơi phới. Còn cảnh tượng trông chồng nào thiết thực sống động và gợi tình bằng? Tôi cho rằng ở ngay chỗ sườn đồi ấy, nhìn xuống khám Kuibyshev dưới này, phải dựng pho tượng thiếu phụ trông chồng cho đời sau chiêm ngưỡng. [3]

Bữa hôm đó thiếu phụ đứng làm pho tượng sống lâu. Dĩ nhiên thấy tù xôn xao Ban Quản đốc biết liền nhưng mấy ông lính gác vòng ngoài làm biếng leo núi, mãi sau mới có một người trèo lên hò hét, xua đuổi người đàn bà đi.

*


Ngoài tính cách “luyện tập sức chịu đựng của con người” khám tiếp nhận còn là một cơ hội mở mắt cho những thằng tù. Ăn ít nhưng được thấy nhiều. Không ăn cũng vui vì hàng ngày được chứng kiến mấy chục, mấy trăm người đi đến, đến đi và tai được nghe thấy bao nhiêu chuyện lạ (ở Trại Cải tạo có ai dám hó hé gì? Chỉ sợ lọt bẫy của ông Oper tức sĩ quan An ninh!). Nhờ những dip sinh hoạt thú vị cho tai cho mắt mà con người thấy thoải mái hơn, sáng suốt hơn và có nhất định rõ hơn về mình về người và những gì xảy ra ở thế giới bên ngoài. Chỉ cần nghe một mẩu chuyện vớ vẩn của một gã lập dị nào đó cũng thấy lạ hơn bất cứ một cuốn sách nào anh từng đọc.

Chẳng hạn như tình cờ họ tống vô xà lim một nhân vật đặc biệt kỳ lạ: Một dân nhà binh rõ vì hắn còn diện một bộ quân phục Ăng lê thẳng nếp. Đẹp trai, trẻ tuổi đã đành. Hắn còn nguyên bộ tóc vàng óng ả dợn sóng trong khi bà con trong này đầu trọc lóc hết. Hắn như một sĩ quan vừa cầm quân đổ bộ lên bờ biển Normandy chớ chẳng có nét gì về tù tội hết. Dáng đi của hắn lại bệ vệ, chững chạc như chờ đợi mọi người đứng bật dậy chào đón. Đâu phải một thằng tù vô xà lim.

Điều lạ nhất là hắn vẫn nghênh ngang, dù là thằng tù! Thì ra mất tự do 2 năm nhưng bây giờ hắn mới phải nằm xà lim là một. Được đưa thẳng đến khám tiếp nhận hắn vẫn một mình chiếm một ca-bin toa xe Stolypin mà. Hắn là gã lạ mặt trên công voa hôm trước, Erik Arvid Andersen. Có lẽ chính Andersen cũng không ngờ bị tống vô ở chung với tụi tôi. Vừa thấy mặt gã sĩ quan Đức còn mặc nguyên quân phục Quốc xã trong phòng, hắn xấn tới xổ tiếng Đức ào ào. Hai đứa tranh luận, gây gổ tưởng chừng sắp đấm đá đến nơi. Khác hẳn tụi tôi, đánh nhau với Đức 5 năm nhưng chẳng hề coi gã là thù địch.

Nghe chuyện Andersen chẳng ai tin nổi, nếu hắn không có “mớ tóc dài duy nhất trên quần đảo” làm bằng chứng trước mặt. Lại người ngoại quốc, thông thạo 3 thứ tiếng Anh, Đức, Thụy Điển! Theo lời Andersen thì thân phụ hắn là một nhà kinh tài lớn Thụy Điển, không phải triệu phú mà là tỷ phú. Phía ngoại cậu hắn là tướng Robertson, tư lệnh vùng chiếm đóng của Anh ở Đức nên hắn quốc tịch Thụy Điển tình nguyện chiến đấu trong quân đội Anh, có tham dự trận Normandy thực sự và sau đó là sĩ quan hiện dịch quân đội Thụy Điển. Cũng chỉ vì say mê Xã hội chủ nghĩa, muốn thấy tận mắt nên Andersen không màng đến gia tài của cha, xoay sở một chân trong đoàn tùy viên quân sự Toà Đại sứ Thụy Điển ở Mạc Tư Khoa. Là bạn của chế độ Xô Viết ông sĩ quan tùy viên đi đến đâu cũng được trọng vọng, tiếp đón niềm nở. Nay tiệc tùng, mai thăm viếng miền quê, tiếp xúc vô cùng thân hữu với “nhân dân” đủ mọi giới, không hề ngờ gặp toàn những nhà dàn cảnh và kịch sĩ đại tài mà nữ kịch sĩ lại vô cùng dễ tính, săn đón rất đúng mức nên có dịp trở về Thụy Điển, Andersen viết báo ca tụng chế độ Xô Viết bằng thích. Thời kỳ 1947-1948 nhà nước Nga đang cần phải có một số “nhân vật” trẻ khối Tây phương chối bỏ tư bản và sẵn sàng công khai nói lên điều đó. Có sẵn Erik Arvid Andersen thì tốt quá nên hắn được chiếu cố ngay.

Đó là lúc Andersen đang phục vụ ở Tây Bá Linh, để vợ con ở lại Thụy Điển. Như bất cứ một thằng chồng nào xa vợ, hắn lui tới giao du với một thiếu phụ chưa chồng ở Đông Bá Linh. Một đêm hắn mò đến thăm tình nhân và chừng tỉnh dậy thấy mình bị trói cứng, nhét giẻ đầy miệng. Tục ngữ có câu “Tối thăm em khuya nằm nhà pha” là thế, song đâu có phải một mình Andersen bị. Đưa về Mạc Tư Khoa, hắn được gặp lại Gromyko – người từng ra tới nhà hắn ăn cơm một lần ở Stockholm.

Gromyko tiếp đãi tử tế sau đó khuyến cáo hắn trở cờ hứa hẹn một mức sống đầy đủ, thừa thãi không thua tiêu chuẩn Tây phương. Nghĩa là Andersen không mất mát gì nhưng chính Gromyko không ngờ hắn từ chối phắt và nặng lời công kích. Tưởng hắn bất quá chỉ là một thằng bốc đồng, dư sức tẩy não mới có lệnh quản thúc tạm trong một vi-la ngoại ô Mạc Tư Khoa “ổn định tư tưởng” dần dần Andersen vẫn được đãi ngộ như thượng khách, muốn gì có nấy, thỉnh thoảng mới bị dằn mặt sơ sơ, đại khái trưa mai muốn ăn gà quay thì chỉ có bít tết xài đỡ! Một năm ở không ăn chơi nhồi sọ hết Marx-Engels đến Lênin-Stalin rốt cuộc Andersen vẫn trơ trơ. Chiến thuật hù bèn được sử dụng: Một ông đại tướng từng bị nằm Trại Cải tạo Norilsk 2 năm được cử tới ở chung với hắn để hướng dẫn cho Andersen biết qua thế nào là tù ngục, nếu còn bướng. Chắc ông tướng chẳng ưa công tác cũng như chế độ nên 10 tháng sau trò Andersen vẫn không tiến bộ chút nào. Ngoài mớ tiếng Nga bồi còn tởm bọn Mũ Xanh nhiều nữa!

Mùa hè 1950 hắn được triệu đến lần chót để nghe chính đồng chí Vyshinsky thuyết phục gã Thụy Điển vẫn cứng đầu. Chủ nghĩa không hạ nổi để đồng chí Abakumov hạ hắn bằng bản án 20 năm đi đày, không nêu tội danh. Có lẽ lúc bấy giờ nhà nước Xô Viết cũng nhận thấy chọn lầm người, giác ngộ không nổi mà thả ra thì tai hại cho nên Andersen được đưa lên xe Stolypin, một mình một ca-bin cho kín đáo! Trên đường đến khám tiếp nhận hắn đã được cô nữ sinh viên Mạc Tư Khoa rỉ tai cho biết bộ mặt thật của nhà nước Xô Viết.

Hai năm giam lỏng đã khiến Andersen giác ngộ nhiều. Với hắn bây giờ khối Tây phương lại mạnh nhất, đúng nhất. Quân lực Tây phương vô địch, cấp lãnh đạo vô song. Hắn cuồng tín đến độ không tin khối Tây phương chịu Nga lộng hành, bao vây Bá Linh cũng như động công kích đến Roosevelt, Churchill là hắn đỏ mặt giận dữ. Hắn nhất định khối Tây phương không chịu bỏ qua vụ của hắn và thế nào hệ thống tình báo của họ đặt bên trong khám tạm Kuibyshev cũng phát giác và có tin về cho biết Erik Arvid Andersen hiện đang bị Nga bắt giữ chớ không phải đã chết đuối trên sông Spree. Do đó thế nào cũng có một vụ điều đình chuộc người hay trao đổi để hắn được trả tự do.

Andersen vững tin ở các gốc lớn của hắn - tuy nằm đây nhưng không thể tàn mạt như tụi tôi – không khác gì mấy đồng chí Cộng sản chánh cống! Tụi tôi đâu có tin ngây thơ vậy nên nhiều lần cãi cọ nặng lời. Tuy nhiên hắn vẫn hể hả mời tôi sau này có cơ hội qua Stockholm nhớ ghé nhà hắn. “Cứ nói gia đình tôi thì ai chẳng biết? Quen lớn cả một triều đình!”. Andersen dặn dò và mỉm cười mệt mỏi. Trong khi đó cậu con ông tỷ phú Thụy Điển mồ hôi ra ướt mình không có khăn lau đành nhận đỡ một mảnh giẻ rách của tôi cho để xài đỡ vậy! [4]

*


Ở khám tiếp nhận tù đến tù đi liên miên có bao giờ dứt. Có xe lửa chở đến là có ra, vô đều. Ở ngoài nhìn vô tưởng bộ máy di chuyển vĩ đại vậy hẳn phải chạy đều lắm. Có biết đâu bên trong có những vụ tù đến tù đi vô cùng ngu ngốc, chẳng ai tin nổi!

Chẳng hạn năm 1949 những Trại Đặc biệt ra đời. Do chỉ thị của thượng cấp nào đó, bao nhiêu tù đàn bà các trại Cải tạo ở Nga-Bắc và trung bộ Volga bị lôi đầu ra hết, chở tới khám tạm Sverdlovsk rồi đưa tuốt sang Tây Bá Lợi Á, Taishet và Ozerlag. Năm 1950 cấp trên cho rằng để đàn bà những nơi quá xa xôi đó không tiện, phải đưa hết về Temnikov, về Mordvinia. Nghĩa là quay trở lại hướng Tây, cũng ghé qua khám tạm Sverdlovsk! Năm 1951 nhà nước mở thêm nhiều trại trong tỉnh Kemerovo và quyết định tù đàn bà phải tập trung hết về đây mới đúng. Thế là từ Temnikov, từ Mordvinia, bao nhiêu con người lại bị xách cổ ra, tống về Kemerovo bằng hết. Dĩ nhiên vẫn phải qua khám tạm Sverdlovsk. Chỉ cần một lệnh ban ra là trôi nổi, lênh đênh biết bao nhiêu con người khắp các ngả đường di chuyển: Hàng hoá hư hao dọc đường đáng kể gì! Thế hệ cởi mở Khruschhev đem nhiều hy vọng lại cho dân quần đảo. Được dịp xét lại, tù đàn bà sẽ được phóng thích bằng hết! Tuy nhiên những thành phần kẹt lại cũng đông lắm chớ. Chế độ mới, thời đại mới thì chính sách đi đày cũng phải đổi mới: từ Kemerovo họ được lệnh tập trung cấp tốc về khám tạm Sverdlovsk để nơi đây phân phối đi Mordvina, đi Tây Bá Lợi Á mỗi nơi một ít. Mới đó lại có lệnh mới: không phân tán nữa, phải tập trung hết về Mordvinia. Dĩ nhiên vẫn phải qua hệ thống khám tạm!

Những đợt đi đến, đến đi, đột ngột, vô lý vậy đó. Nhưng có sao đâu, dân Cải tạo thì Trại nào chẳng là nhà! Quần đảo tự trị tự túc mà. Với dân Nga thì di chuyển nhiều nữa, đi xa nữa còn được vì khoảng cách có nghĩa gì đâu?

Di chuyển tập thể nghĩa là đi chung một chuyến đỡ khổ nhiều. Thảm hại nhất là những thằng Zek bất thần có lệnh di chuyển cá nhân, như trường hợp Shendrik trong một trại ở Kuibyshev. Còn dân Cải tạo nào yêu lao động bằng hắn, làm việc chăm chỉ ngoan ngoãn bằng hắn? Bỗng có một khẩu điện đánh tới trại, buộc giao hoàn tức khắc thằng tù tên Shendrik về khám 18 Mạc Tư Khoa. Ai dám chậm trễ? Bức điện mang chữ ký của sếp lớn nhất là đồng chí Bộ trưởng Nội An (quái lạ, đồng chí Bộ trưởng làm sao biết có một thằng tù tên Shendrik).

Thế là Shendrik bị tống ngay về Mạc Tư Khoa nhưng không vô khám 18 mà cùng cả bọn được đưa về Krasnaya Presnya! Hắn có biết được giải giao về khám 18 đâu? Chưa đầy hai hôm đã bị tống lên xe Stolypin, đi miết ngược miền Bắc. Hé mắt ra ngoài thấy cảnh vật mỗi ngày một hoang vu, mỗi ngày một lạnh cóng thêm Shendrik càng hoảng hồn. Điệu này là gởi xương Bắc cực, không hiểu ông Bộ trưởng thù ghét gì hắn mà ra lệnh trừng phạt cá nhân thế này? Bị lính hộ tống truất 3 ngày bánh mì nên xuống ga Pechora hắn vừa đói vừa mệt, đi hết nổi.

Ở trại Cải tạo Pechora sức lực mạnh mẽ đi lạc động còn mệt rã rời, huống hồ một thằng Shendrik ốm đói, lo sợ, bồn chồn? Hắn bị đưa đi làm liên miên ngoài tuyết, 2 ngày không có thì giờ sưởi khô quần áo và làm đỡ một chiếc nệm cỏ. Bỗng có lệnh nạp lại tất cả vật dụng nhà nước phát để lên xe di đày một nơi xa hơn nữa, khổ hơn nữa là trại Vertuka. “Thôi, đúng là đồng chí Bộ trưởng bắt mình phải bỏ xác nơi đây, cùng cả đám này rồi!” Shendrik nghĩ vậy nên cam đành chịu chết. Có mấy thằng đi đày Bắc cực trở về được bao giờ? Một tháng liền hắn không nghĩ đến sự sống nữa. Suốt ngày làm quần quật ngoài mỏ, lao động không chuyên môn là vậy! Ở trại Vertuka hắc ám còn ngành công tác nào chết dễ, chết mau bằng công tác không chuyên môn, nghĩa là Ban Quản đốc hay cán bộ toàn quyền sử dụng, muốn bắt làm gì cũng được.

Đột nhiên đang ngồi ngoài mỏ Shendrik được kêu về trả lại hết đồ nhà nước phát để 1 giờ sau từ Vertuka lên xe lửa xuôi thẳng miền Nam. Chẳng biết phải đi tới đâu nửa nhưng phen này hết sống chắc! Chắc bị chở về Mạc Tư Khoa, tống vô khám 18. Nằm xà lim đúng 1 tháng, không biết số phận xoay vần ra sao, thì được kêu lên văn phòng. Một ông Trung tá nạt nộ: “Anh là Shendrik? Chui xó nào kiếm hụt hơi mới thấy? Anh kỹ sư Cơ khí chớ gì? Shendrik không dám chối. Bèn gật đầu thì được lệnh, chuẩn bị đi. Lần này đi tuốt ra ngoài đảo Thiên Đàng (quần đảo cũng có hòn mang tên Paradise vậy chớ). Chắc ra đến đảo “Thiên Đàng” cuộc đời kỹ sư Cơ khí Shendrik mới tạm yên. Thôi thì đâu cũng là quần đảo, cần gì phải biết – và biết sao nổi – tại sao có vụ di chuyển tứ tung Đông Tây Nam Bắc khó hiểu thế này?

*


Chỉ vì chỗ đi đến, đến đi lung tung và khó hiểu vậy mà đời sống ở “cửa vào quần đảo” đâm đặc biệt! Những con ruột Cải tạo đầy mình kinh nghiệm do đó thường dạy bảo bọn đàn em mới mặt tuyệt đối chớ thắc mắc mất công. Bảo đi thì đi, ở lại càng tốt! Mấy chú phải biết nằm khám chuyển tiếp là thiên đường so với Trại Cải tạo. Ăn chỉ tối thiểu nhưng đảm bảo (đó là khẩu phần NGÀY NGHỈ ở trại mà). Chẳng phải lao động cong xương sống. Nếu không chật chội quá thì có quyền tối ngày nằm ngủ thả giàn. Ăn thiếu thì ngủ bù, nuốt xong bữa cháo có quyền nằm dài ra ngủ đợi bữa cháo sau.

Còn gì sung sướng bằng được ngủ suốt ngày, nhất là với những tay từng phải vô trại làm công tác không chuyên môn? Chao ôi ban ngày mà ngủ được thì thế gian đi chóng lắm lắm!

Nói chung là vậy. Thiếu gì khám tạm bắt tù lao động không thua trại Cải tạo? Lao động cải tạo con người! Nhiều ông Quản đốc tinh thần cao đã bắt tù đi làm như điên để có dịp cải tạo tư tưởng, và gây thêm quỹ nhà tù. Như khám tạm Kotlas có lệ bắt đi chở củi, mỗi toán năm bảy mạng kéo xe trượt tuyết dọc sông Diva 10 cây số xuống tới Vychegda. Nơi đây phải kiếm cho đủ 13 thước khối củi đốt, chất lên xe kéo về khám (ấy là mới khởi sự công tác!). Ít nhất cũng là một dịp tập luyện cho quen trước khi nhập trại chớ. Toán người ngựa tụi tôi tuy thiếu nghệ sĩ Repin cũng vẫn còn trưởng toán Kolupayev, kỹ sư Điện Dmitriyev, Trung tá Quân nhu Belyayev, Chủ tịch Hợp tác xã Vasily Vlasov và mấy anh em khác.

Thời kỳ chiến tranh khám tạm Arzamas có lệ tăng khẩu phần tù (ít ra cũng thêm được vài cộng của cải) để làm công tác sản xuất thường trực. Vùng này có kỹ nghệ chế biến len và len nhân tạo. Tù đi làm các xưởng may, dệt vớ, đan dép.

Mùa hè 1945 giữa lúc chen chúc đông nhất, khám Krasnaya Presnya cho tù xung phong xin ra ngoài công tác. Thiếu gì đứa tình nguyện xin đi. Ít nhất còn được ra ngoài cho khoảng khoát suốt ngày, được đi cầu tự do, sạch sẽ, không ai hối thúc (có vô tù mới biết điều này quý giá chừng nào!). Lại còn được phơi nắng (nắng tháng 8, nắng Postdam, nắng Hiroshima!). Được nghe ong bay lượn vo ve và đêm về xà lim và xà lim còn được mẩu bánh mì cỡ 100 gam phụ trội!

Chao ôi, được nuốt mẩu bánh mì của nhà tù cũng khổ trần ai! Nếu không vì được thở hít không khí tự do chắc chẳng thằng nào xung phong đi công tác vớt gỗ xúc ở bờ sông Mạc Tư Khoa. Suốt ngày hết dỡ bè gỗ chất lên bờ, lăn gỗ từ đống này xếp sang đống kia đâu phải nhàn nhã. Những xúc gỗ khổng lồ.

Chính nhờ công tác vớt bè gỗ, đánh đống gỗ mà tôi có dịp “đánh giá” lại con người thực của mình, con người trẻ dại, nông nổi, mỗi lần đụng chạm thực tế là lòi đuôi hèn hạ, nhục nhã! Chẳng là công tác ra bờ sông vớt gỗ đòi hỏi một số đông tù, chia từng toán, cắt việc ra làm hùng hục vất vả suốt ngày. Dĩ nhiên khu bờ sông được quây kín, có lính trên chòi canh gắt không thua nhà tù. Công tác vớt gỗ đâu có tính cách dài hạn? Khám Krasnaya Presnya là khám tiếp nhận, khám tạm, tù nằm chờ đi quần đảo chớ có lệnh nào cho phép tụi tôi ở lại đây vớt gỗ khỏi phải đi đày.

Khám tạm, công tác tạm, tụi tôi đứa nào cũng biết vậy. Nhưng dù là tạm thời, làm một vài ngày tù vẫn phải chia thành toán. Chia toán là phải có toán trưởng. Dĩ nhiên được cử làm toán trưởng bao giờ chẳng sung sướng hơn? Đỡ phải lam lũ, mệt nhọc, lại có quyền chỉ huy, chia công tác, kiểm soát những thằng khác. Làm trưởng toán sung sướng nhiều chớ. Nếu không bữa đầu tiên cắt cử công việc, gã cặp rằng cầm danh sách tù đi làm, đưa mắt nhìn tụi tôi có ý tìm mấy thằng trưởng toán, tôi đã chẳng hồi hộp nghe tim mình nhảy thình thịch thiếu điều muốn nhảy bổ ra: “Tôi đây ông. Chọn tôi đi. Chọn tôi đi.”

Cặp rằng đâu có chọn tôi. Nhưng tại sao tôi ham “chức vụ” trưởng toán ghê gớm vậy? Ấy là mới có chức trưởng toán, coi mấy thằng bạn đồng tù, làm tạm ít ngày! Quả là một ham muốn hèn hạ, nhục nhã. Chức vụ, quyền hành hấp dẫn con người ta ghê gớm tới mức này sao?

*


Nếu Mạc Tư Khoa là thủ đô Liên bang Xô Viết thì trung tâm điểm của quần đảo phải là khám tạm Krasnaya Presnya. Từ Đông sang Tây hay xuôi Nam ngược Bắc du khách đều ghé ngang Mạc Tư Khoa cho tiện thì tù đi đày trại Cải tạo là phải tập trung về Krasnaya để nơi đây làm công việc phân phối đi toàn quốc. Chỉ những chuyến xe hàng chở đám quân nhân lãnh án toà Mặt trận là không vô Mạc Tư Khoa mà chỉ lượn sát Krasnaya kéo một hồi còi chào mừng. Hồi tôi vô thì trung tâm điểm chật cứng người tưởng nứt bể đến nơi đang phải xây thêm cơ sở mới.

Vẫn biết tập trung là phải về Krasnaya Presnya nhưng rồi đi đâu thì tù làm sao biết nổi? Mấy năm sau Thế chiến II thì ngay những ông lớn nhất của Tổng Nha Quản trị các trại Cải tạo cũng mù tịt. Thời đó quần đảo chưa được tổ chức chu đáo như những năm 1950 về sau: không có lộ trình vạch sẵn, khỏi thông báo nơi đến. Chỉ thị kèm theo mỗi chuyến tù chỉ đại khái: “Tên X, phải canh chừng thật gắt gao” hay “Tên Y, chỉ được lãnh công tác không chuyên môn”.

Thông thường gã trung sĩ tưởng toán hộ tống chở tù đến là bước vô văn phòng khám Krasnaya, tay xách theo một chồng, vài ba chồng hồ sơ cá nhân, những kẹp bìa rách rưới cột sợi dây gai. Hắn sẽ tiện tay liệng vô hộc tủ, trên mặt bàn, hoặc dưới gầm ghế, trong xó nhà không chừng. Dưới xà lim tù nằm ngồi đứng ngổn ngang thế nào thì trên văn phòng hồ sơ của họ cũng in hệt. Rồi đây cột tuột ra, hồ sơ tha hồ nằm tứ tán, lung tung, nằm đầy 1 phòng, 2 phòng, 3 phòng! Sắp đặt, dọn dẹp cho thứ tự khỏi có. Mấy bà mấy cô thư ký chẳng buồn để ý. Còn mắc lau mồ hôi, mắc quát nạt. Ngồi tán gẫu với nhau hay lã lướt với mấy sếp. Hồ sơ cứ việc ngập ngụa, thư ký cứ nhởn nhơ. À, tù đi trại xa thì một tuần năm bảy chuyến. Đi gần thì xe bít bùng, ngày nào chẳng đưa đi cỡ 100 mạng? Một thằng đi đày thì hồ sơ bắt buộc phải đi kèm. Biết vậy là đủ lựa chọn làm gì? Chi bằng giao phứt cho mấy thằng Công vụ làm cho khoẻ!

Công vụ cũng là tư pháp, cũng được đề bạt để làm công việc nhà tù nhưng thuộc thành phần khá hơn, chuyên công tác văn phòng. Có thể có năm ba gã polutsvetnye, tức không phải tù chính trị mà cũng không ra blatnye. Đó là thứ lai căng, dân chơi nửa mùa. Đi đày chỗ tốt hay xấu là ở mấy gã công vụ này. Tù mới đến thường tin vậy và chính họ cũng làm ra vẻ có thẩm quyền để kiếm ăn chớ có gì lạ. [5] Tại sao không kiếm chác được khi công vụ lên làm trên văn phòng, có quyền sắp đặt hồ sơ phân phối tù thay cho người nhà nước và lại toàn quyền tiếp xúc với “anh em” mới trong xà lim? Phải lo lót mới được họ chịu khó lục tìm hồ sơ của mình để lựa chỗ tốt (!) nhét vô chớ. Nếu đám tù mới có nhiều mòng, chỉ sợ gặp phải Trại dữ thì thiếu gì tay trung gian? Sếp bếp, thủ kho, đều sẵn sàng móc nối hết!

Chẳng qua đây cũng lại là một hình thức bóc lột mới.

Tin lo lót có thể có chỗ tốt thì thà đổ xí ngầu còn hơn! Tội nghiệp nhất là chỉ mua thêm nỗi lo lắng vào người, chớ đâu phải vì “nạp mạng” một chiếc áo da chiến một vài ký thịt sấy mà được đi chỗ gần, chỗ tốt thay vì bị tống đến chỗ xa hơn. Cũng có thể ông công vụ sắp đặt, lựa chỗ cho thật nhưng sướng khổ còn tùy. Sướng nhất bao giờ cũng là kẻ chẳng có gì để lo lót, chẳng thắc mắc sẽ phải đi đâu! Chẳng lệ thuộc, chẳng mất mát, thản nhiên chấp nhận định mạng để gạt hết mọi sự trông mong vào may rủi là nhất.

Phải biết hồ sơ nằm tứ tung, lộn xộn như thế nào trong văn phòng khám tạm Krasnaya Presnya và mấy ông Công vụ tiện tay quơ đại thế nào mới thấy lo lót là ngốc! Có trước sau, thứ tự hay lựa chọn gì? Nếu nó nằm gần gần tầm tay thì hy vọng đi trước chắc. Thiếu gì thằng nằm đợi khốn khổ vài tháng, mà cũng thiếu gì thằng đi lẹ như tên bay. Tất cả hoàn toàn tự do tình trạng ứ đọng, lề lối làm việc hối hả, vô trật tự! Thậm chí đến nhận bừa tên, đánh tráo án, và đánh đổi án cũng còn được kia mà! (Vụ này chẳng riêng một khám tạm Krasnaya mới có, nhưng dĩ nhiên dân đi đày vì điều 58 không thể sử dụng được vì án chính trị của những thằng phản động đâu phải chuyện chơi). Mấy anh thường phạm án nhẹ dễ bị các người anh em blatnye đánh tráo án như không.

Chẳng hạn như thường phạm Vasily Parfenych Yevrashkin, sanh năm 1913, nguyên quán Semidubye bị 1 năm tù, chiếu điều 109 vì tội bất cẩn. Hắn là tay mơ, làng xã đâu có ngờ nạn đánh tráo nên ai hỏi gì cũng kể vanh vách. Lại không rành thời khắc buổi nhà tù, không biết sẽ được kêu đi giờ nào. Không ngủ gục cũng chẳng dễ gì mỗi người men tới gần được cửa lưới (nhiều người anh em cản lối, ngăn chặn quá mà) khi sếp cầm danh sách tới trước cửa xà lim kêu tên.

Có những tên gọi lớn vài ba lần ầm cả phòng nhưng tên Gevrashkin thì không. Vì sếp mới đọc khẽ chưa thằng nào nhắc lại thì một thằng hờm sẵn nãy giờ đã thò đầu ra, ngoan ngoãn và lẹ làng đọc một tràng dài để sếp theo dõi trên danh sách:

"Gevrashkin đây, Dạ, tên Vasily, tên lót Parfenych, sinh năm 1913, nguyên quán Semidubye, điều 109, một năm tù."

Cho ra một hàng lý lịch là nó xách đồ nhào ra. Trong khi đó anh chàng thật sự Gevrashkin đang đứng xớ rớ góc phòng hay nằm vùi trong ổ lắng tai nghe kêu tên. Không thấy ráng đợi ngày mai. Đợi một tuần, một tháng, Đâu dám chất vấn giám thị. Chỉ phàn nàn sao mãi chưa kêu tới tôi, với anh em trong phòng vậy tôi. (Mấy hôm sau ngày nào cũng nghe kêu tên Zvyaga ầm ĩ, kêu cùng khắp không thấy ai thưa! (Hai ba tháng hay nửa năm sau không chừng, Công vụ thanh toán xong tất cả các hồ sơ mới lòi ra chỉ còn kẹt một hồ sơ của một thằng dân chơi thứ dữ tên Zvyaga, nhiều tiền án, can tội ăn cướp, sát nhân, 10 năm đi đày. Cùng lúc đó ở xà lim dư ra một thằng làng xã tự nhận tên Gevrashkin, luôn miệng kêu rên sót tên. Bèn mang hình ra so. Nhưng hình ảnh chụp ở nhà tù thì ăn nhằm gì? Nó đúng là Zvyaga, chẳng Gevrashkin gì hết! Nó phải là Zvyaga và phải lên xe đi đày 10 năm, trại khổ sai cưỡng bách. Bằng không thì xác nhận nhà tù làm việc cẩu thả, sơ sót sao?

Trong khi đó, làm sao dò tìm nổi thằng Zvyaga thiệt đội tên Gevrashkin? Nó ở đâu chẳng có cách nào biết nổi, vì khám tạm chỉ đưa tù đi đày, không lưu giữ hồ sơ! Mang bản án 1 năm nhẹ hều vì tội bất cẩn có thể nó được gởi tới một nông trại nào đó làm 1 ngày tính 3 ngày án. Cũng có thể nó đã đào tẩu và hiện đang ở nhà vui thú vợ con, hay lại chui đầu vô khám nào đó lần nữa?

Đó là trường hợp đánh tráo án. Thiếu gì thằng chịu chơi, tình nguyện đánh đổi án, chỉ để lấy 1, 2 kí lô thịt sấy. Muốn đổi bản án nhẹ chỉ việc đưa ra một cái gì. Họ sẵn sàng đổi liền vì “thế nào nhà tù chẳng khám phá ra và điều chỉnh lại gấp?”. Thỉnh thoảng cũng được điều chỉnh thực sự.

Thời kỳ hồ sơ đi đày không chỉ định rõ Trại phải tới, để cho các khám tiếp nhận tùy tiện phân phối thì nghiễm nhiên mỗi khám tạm là một chợ buôn người để các đại diện Trại vào tận xà lim lựa chọn mặt hàng. Mỗi trại Cải tạo chỉ được cấp một số tù ấn định vậy thay vì đợi khám gởi người tới, tại sao không cử người về lựa chọn những thành phần tốt, khoẻ mạnh? Người làm hao hụt, đã đành không mất mát gì nhưng cứ đếm đầu nhận đại, gặp những thứ lao động kém, không đủ năng suất, không hoàn thành kịp thời thì sao? Do đó nhiệm vụ của đại diện Trại không khác gì lái buôn người một hai chục thế kỷ trước. Phải giao thiệp tốt với các khám, phải sành sỏi, tinh khôn để loại trước những mặt hàng xấu, những thành phần lười biếng, bệnh hoạn, tàn tật,

Để khỏi “mua” lầm hàng dở, tại sao không cử người đến coi tận mắt, sờ tận tay? Bắt chúng sắp hàng, lột trần truồng ra quan sát là khỏi sơ sót! Đó là trường hợp của cô bé Ira Kalina, 17 tuổi bắt buộc phải khoe thân thể tốt ở khám tạm Byturki để ông đại diện gật gù chấp nhận. Đặc biệt nhất là vụ cả một phái đoàn chuyên viên MVD tới khám Usman năm 1947 để nhận hàng. Có đến mấy chục ông đại diện các nha sở trực thuộc, bận quân phục chững chạc ngồi bàn giấy có trải náp trang trọng, để chăm chú theo dõi đám tù đàn bà được lần lượt đưa vô trình diễn. Tất cả phải cởi bỏ quần áo ở phòng kế bên, từng người một đi chầm chậm trước dãy bàn buya-rô, dừng chân lại, xoay người vài vòng và được bàn nào gọi là tới gần bên để các đại diện “phỏng vấn” vài câu. Một nhân chứng kể lại nếu đi trình diễn hay đứng lại mà cô nào thẹn thùng, bẽn lẽn đưa tay che đậy những chỗ đàn bà con gái hay che là lập tức sẽ gị giám thị nạt nộ: “Làm bộ hoài! Bỏ tay xuống,”. (Thực tế là các đại diện MVD tới chỉ cốt để tuyển mộ người đẹp về hầu hạ mà nhè che đậy đi thì còn quan sát gì?).

*


Nếu lâu lâu không có những trường hợp rắc rối trên thì sinh hoạt khám tiếp nhận hẳn dễ chịu chán! Bù lại tù đến tù đi thường nhật lại có những cơ hội học hỏi tốt cho những thằng kém kinh nghiệm. Chẳng hạn như trong xà lim Krasnaya Presnya hai đêm liền có mặt một gã mà hồ sơ đi đày ghi là chuyên viên. (Hỏi ra mới biết đấy là những người mà Ban Quản đốc Trại phải cử vào công tác đặc biệt, thích hợp với nghề chuyên môn). Gã nằm ngay cạnh tôi trong ổ ngủ và cử chỉ, sinh hoạt tự nhiên, dạn dĩ, không hề có mặc cảm tù tội. Vì gã vô ra các Trại và đi về khám tạm này nhiều lần quá đâm quen. Hết công tác Trại này ra khám nằm chờ đưa đến Trại mới, gã quả là một thằng tù rong! Hồ sơ ở Tổng nha ghi rõ nghề nghiệp gã là “chuyên viên xây cất” nên Trại chỉ được sử dụng gã đúng ngành, không thể bắt đi đốn củi. Với đám dân quần đảo có nghề chuyên môn là có bùa hộ mệnh, đi đến đâu cũng chẳng sợ chết.

Vì đi rong gần mãn án gã có thể kể như cáo già quần đảo, biểu hiệu là một khuôn mặt cứng cỏi, lạnh lùng. (Đúng vậy, sau này tôi mới nhận ra nhãn hiệu của quần đảo là lạnh lùng và tàn nhẫn. Ở đảo ít lâu là trăm người như một! Nơi đây đâu phải đất sống cho những thằng phong lưu, lịch thiệp? Chết chắc). Gã lạnh lùng ngó những sự ngây ngô, khờ khạo của chúng tôi và nhếch mép cười cay đắng như ông già thương hại nhìn đám trẻ lên ba vậy! Có lẽ vì thương hại cho những thằng tù con nít gã mới truyền cho chúng tôi bài học quý giá về kinh nghiệm ngục tù.

- Lọt vào Trại mấy chú phải hiểu là thằng nào cũng chỉ nhăm nhe ăn hiếp, bóc lột mình. Không tin một ai, ngoài mình. Lúc nào cũng có thể bị chúng thịt, chúng giết. Ngây thơ là khó sống. Hãy rút kinh nghiệm của tụi tôi 8 năm về trước, lức vừa đặt chân xuống Trại Cải tạo Kargopollag. Hai chắc chắn xe lửa vừa đổ tù xuống, chờ lính áp tải cỡ 10 cây số băng đồng tuyết về Trại. Bỗng 3 xe trượt tuyết ở đâu chạy tới, qua mặt lính gác không bị cản. Mấy thằng ngồi xe lên tiếng: “Anh em có đồ cât lên. Xe về Trại đây....” Dĩ nhiên tụi tôi mừng húm: vác hành lý mệt quá mà nhà tù còn cho xe ra chở giùm về thì đâu đến nỗi tệ? Không ai bảo ai, tụi tôi hớn hở chất đồ lên. Xe chạy và chạy luôn. Khỏi về Trại, bao nhiêu hành lý của tụi tôi mất sạch!

- Sao vậy được kìa! Bộ không có pháp luật gì chắc?

- Đừng hỏi ấm ớ! Sao không vậy được? Có luật chớ, nhưng luật rừng, luật thảo khấu! Còn công lý thì làm chó gì có? Nếu có, đã chẳng có Trại Cải tạo! Tấm gương 3 xe hành lý ở Kargopollag là điển hình đúng boong nếp sống Cải tạo, không ai tử tế với ai. Bất cứ một cái gì cũng phải trao đổi, trả giá vì cái gì cũng có giá hết! Nơi đây, nếu nghe ai nói chung tử tế, bất vụ lời thì phải hiểu ngay là bịp, là bẫy. Phải nhớ in như vậy, cũng như 5 chữ công tác không chuyên môn là tối kỵ. Phải né ngay từ ngày đầu tiên vì một ngày công tác không chuyên môn là cả cuộc đời bế mạc. Hết gỡ....

- Thế nào là không chuyên môn?

- Là căn bản công tác của bất cứ Trại nào. Là công việc của 80 phần 100 dân đi đày các Trại hãy nhớ kỹ 80% công tác không chuyên môn và chết hết, chẳng sơ sẩy một mạng. Lớp trước chết thì có lớp sau trám vô nguyên vẹn, để rồi lại lần lượt chết hết nữa vì những công tác không chuyên môn. Lỡ kẹt vô là chết chắc. Chết vì mòn mỏi, tàn tạ. Lao lực, đói, lạnh, cái gì cũng thiếu thốn, thua sút người ta. Ăn thiếu, ở khổ cực và động ốm là chết. Có thuốc men, chạy chữa cho những thằng phụ không chuyên môn bao giờ? Vậy mấy chú tin lời tôi nói: Ở Trại Cải tạo sống sót được là những thằng với bất cứ giá nào tránh cho kỳ được có tên trong danh sách không chuyên môn. Chỉ những thằng đó sống.

- Với bất cứ giá nào?

- Đúng vậy, với bất cứ giá nào!

Bữa hôm đó tôi thấm nhuần ngay tức khắc lời dạy dỗ vô cùng thiết thực của ông bạn từ khắc khổ, sống được nhờ ngành chuyên môn. Tôi công nhận ngay. Chỉ tiếc không hỏi lại cho rõ “bất cứ giá nào” là bao nhiêu, lấy cái gì mà đánh giá?



[1]Khẩu hiệu này trùng hợp với Phát xít: “Thây kệ những thằng còn kẹt bên trong” có nghĩa là những thằng còn kẹt đó sẽ bị trừng phạt cho chúng mày thấy!. Có thể là bắn bỏ hay đập gậy tới gãy xương để lần sau tuyệt đối không dám chậm trễ. Mà phải xông ra trong toán đầu tiên.
[2]Sung sướng biết mấy là những đấng ở tù mà chưa phải nếm mùi 10 đứa 1 tổ ngồi vây quanh chậu thức ăn vục ra bằng tay, nhét vào miệng! Phải ăn bốc “tập thể” kiểu này mới thấm thía thế nào là “những nhu cầu súc vật của thằng tù Ivan Denisovich. Nếu giữa bữa ăn lại có tranh chấp nữa” thì e rằng các đảng viên trung kiên nhất dám không nhớ tới Đảng nữa!
[3]Dĩ nhiên để ghi nhận lại một thời lịch sử của quần đảo còn phải dựng nhiều pho tượng mà ý nghĩa hơn cả có lẽ là một ông Stalin khổng lồ bằng đá đứng chót vót, đứng trên mỏm cao nhất Kolyma. Cần phải thật khổng lồ, mỗi bên ria ít nhất cũng vài thước răng phải nhe ra đanh ác (điển hình cho bất cứ một quản đốc trại nào). Một tay người phải cầm dây cương, một tay người vung roi da quất lia lịa trên lưng vài trăm thằng tù, cặp 5 thằng làm một như cặp ngựa, vươn cổ ra kéo. Pho tượng khổng lồ này đặt ở chót vót bán đảo Chukchi, trông ra eo Bering cũng thích hợp vậy.
Tôi mới tưởng tượng nào ngờ sự thực từng xảy ra là đã có bức bíth hoạ khổng lồ STALIN TRÊN ĐÁ sơn màu trên vách đá đồi Mogutova, chỗ cầu Zhiguli trên sông Volga, ở cách Trại Cải tạo trên sông cũng phải ngó thấy.
[4]Sau này tôi có dịp hỏi những người Thụy Điển hay từng ra vô nước này về gia đình Andersen và trường hợp mất tích của một nhân vật như thế đó…thì họ chỉ lắc đầu cười. Dân Thụy Điển tên Andersen thì cũng như Nga tên Ivanov vậy và chẳng có ông tỷ phú Andersen nào hết. Khốn nạn, 22 năm sau lúc đọc lại lần chót bản thảo Quần đảo ngục tù tôi mới sực nhớ ra đời nào họ cho phép hắn giữ nguyên tên thật. Lộ ra là thủ tiêu nên cái tên Andersen phải hiểu là tên bịa. May ra nhờ những chi tiết nho nhỏ kể lại người ta có thể đoán biết hắn là ai nên hắn mới tin tưởng thế nào cũng có người gỡ ra, khối Tây phương chắc chắn sẽ can thiệp. Có điều hắn không hiểu phe Cộng : Một nhân chứng “biết hết” như hắn, dám chịu đựng tù đày chớ không khuất phục Tây phương có mấy tay cứng vậy? thì không thể trả lời tự do được, với bất cứ giá nào! Không chừng lúc tôi viết mấy hàng chữ này (1971) hắn còn sống cũng nên.
[5]Sự thực đơn giản là chẳng có trại nào tốt! Tất cả đều là đất chết. Chỉ có công tác nặng, khổ sở và công tác tương đối khoẻ hơn nhưng phải quan sát tại chỗ mới biết.

3. Công voa đi đảo

Toa xe Stolypin chen chúc, xe bít bùng ngột thở, khám tạm bồn chồn khó sống, sao bằng vứt bỏ hết ngần ấy giai đoạn để lên toa xe chở súc vật, thẳng đường vào Trại cho rồi. Tù vừa đỡ mệt mà tiện việc nhà nước biết mấy, thằng nào thành án là đưa đi đày một mạch. Đỡ tốn chỗ xe lửa, khỏi cần xe bít bùng đưa đón, đỡ phải tổ chức khám tạm tốn bao nhiêu nhân viên! Bộ máy Cải tạo hẳn nhận ra ngay điều đó nên tù đi đảo tổ chức thành từng đoàn: Đi xe lửa thì từng đoàn dài toa chở súc vật, đi đường thủy từng đoàn tàu. Không có đường hoả xa, đường sông thì đoàn tù lũ lượt đi bộ. (Không lẽ đưa tù đi đày mà phải bắt ngựa, bắt lạc đà lao động?)

Phải nói ngay không gì thuận tiện bằng loại toa xe chở súc vật. Bao nhiêu tù chở cũng hết, một vài chuyến là xong. Cả triệu nông dân từng đi toa súc vật những năm 1929-1931. Lêningrad tản cư cũng xe súc vật. Những năm 1930 trở đi ngày nào từ Mạc Tư Khoa chẳng có một chuyến xe lửa đầy nhóc tù trên những toa súc vật. Những năm 1930 trở đi ngày nào từ Mạc Tư Khoa chẳng có một chuyến xe lửa đầy nhóc trên những toa súc vật chở đi Sovetskaya Gavan, đi Vanino. Chẳng bao lâu nghẹt quần đảo Kolyma! Các tỉnh đều chở thẳng tới Kolyma, dù không đi hàng ngày.

Năm 1941 cũng những toa súc vật dời trọn xứ Cộng hoà sông Volga (thân Đức) sang miền Kazakhstan hoang vu, mở màn cho những đợt di dân tập thể. Kế đó những con cưng của Tổ quốc, cả trai lẫn gái dám xuất ngoại sang Đức, Tiệp, Áo hay mon men gần biên giới là bị quơ lên xe súc vật, tống đi Trại hết, cũng như các đợt bị điều 58 vô trại đặc biệt năm 1949.

Xe Stolypin còn phải theo thời khắc biểu nhà ga. Xe súc vật là khỏi. Miễn có một ông tướng ký tên vô là cho đi đầy nhóc một chuyến, bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào. Khỏi cần có sẵn trại giam! Một chuyến xe lửa chở súc vật dài dằng dặc đi đến đâu là một Trại Cải tạo có thể mọc lên tức khắc, dù giữa rừng sâu, đồng cỏ hay hoang đảo.

Có phải bất cứ toa súc vật nào cũng chở tù được đâu! Ít nhất cũng phải cải sửa lại, nhưng cải sửa đây không phải là vừa chở than chở đá vôi dơ dáy mà phải quét lò than! Tù đi đày đâu cần lò sưởi, nấu ăn dọc đường cho phiền phức? Vả lại chỉ đi trên dưới 1 ngày thì đói lạnh đến mấy cũng dư sức chống cự! Công tác cải sửa chỉ nhằm kiểm soát kỹ từng mánh ván ở nóc toa, sàn toa và hai bên vách toa xem có đủ chắc chắn, kiên cố không. Có lỗ hổng, cây ván yếu là đóng cứng lại, mấy lỗ thủng hơi nhỏ đóng bít hết. Cả toa xe chỉ có quyền có 1 lỗ hổng nho nhỏ đục ở sàn toa để làm ống cống, có bao lưới sắt và đóng đinh chắc.

Quan trọng nhất là vấn đề canh giữ. Toa nào cũng phải làm chòi canh ở ngoài để lính hộ tống ôm súng máy ngồi gác, phải có mấy bực thang lên nóc, phải có vị trí đặt đèn pha cực mạnh, có điện thường trực. Phải có một mớ gậy dài để gõ gõ nóc tua, gần toa kiểm soát mỗi trạm xe ngừng. Bắt buộc phải có một vài toa xe hành khách đầy đủ tiện nghi cho Sĩ quan An ninh đi theo xe và đoàn hộ tống. Sau khi đã cải sửa chu tất, mỗi toa sự vật kín bưng (bên trong là tù) còn phải vẽ phấn cho rõ ở thành toa: Dụng Cụ Đặc Biệt hoặc là Cấm Mở. Hàng dễ hư hao.

Xét ra công tác chuẩn bị đoàn xe chỉ là thứ yếu, không quan trọng bằng phương pháp tống tù lên xe mà cán bộ và lính đi hộ tống phải học tập chu đáo, nhằm 2 mục tiêu rõ rệt:
  1. Giữ bí mật, không cho dân chúng dòm ngó.
  2. Khủng bố tối đa tinh thần bọn tù.
Mỗi chuyến xe súc vật chở ít nhất 1 ngàn tù, chia đều 25 toa, nhét người lên tuần tự, cũng lâu chớ đâu phải một toa xe Stolypin? Vẫn biết ngày nào giờ nào chẳng có người bị bắt nhưng quang cảnh cả ngàn tù bị áp giải lên xe lửa đưa đi đày chẳng đẹp đẽ gì! Năm 1938 ở Orel có một nhà nào không có người bị bắt, trước cửa khám lúc nào chẳng đen nghẹt đàn bà khóc lóc, chờ đợi? Tuy nhiên những cảnh đưa người đi đày rùng rợn không để lọt vào mắt các công dân Xô Viết tự do, nhất là đám thanh thiếu niên hy vọng của tương lai! Do đó, tù ở khám ra ga bắt buộc phải đi đêm, đi bộ từng đoàn lầm lũi.

Dù tổ chức kín tới đâu cũng chẳng thoát khỏi cặp mắt những bà mẹ có con bị bắt, những người vợ lo lắng chờ tin chồng. Chập tối là họ bảo nhau chạy ra ga, thấy chiếc xe nào có vẻ chở tù là áp tới. Họ đến từng toa, hỏi vọng lên: “Có ai tên, không?” hoặc “Toa này có ai tên, không?”. Cứ thế họ chạy len lỏi từ toa đầu đến toa cuối, Thỉnh thoảng từ bên trong toa bít bùng có tiếng reo: “Mình đấy hả? Tôi đây nè” hay “Con đây, con đây má”. Lâu lâu mới có vụ: “Chị, đấy hả? Anh ấy đi chuyến này đó nghe? Ráng tìm ở mấy toa khác coi” hay một giọng ồn ồn cuống quít: “Tôi là... đây! Vợ tôi thế nào cũng ra ga đón bữa nay. Cô bác làm ơn kêu nó giùm”.

Hoạt cảnh trên giờ đây đâu còn nữa? Không thể chấp nhận được, nên có lệnh tổ chức nghiêm ngặt này. Mỗi chuyến xe chở tù ở ga nào là phải có một hàng rào chó bẹc-giê vây quanh. Muốn luồn lọt tới gần toa xe không sao thoát.

Cho dù lên xe ban đêm còn có lợi là sử dụng được ép phê khủng bố của đèn pha. Đám tù ngồi ngay hàng, run rẩy luôn luôn bị đèn pha chiếu tới kiểm soát. Có tiếng hô là đứng bật dậy, luồng pha đèn rọi tới đúng chỗ. “Năm thằng hàng đầu đứng lên. Nào, chạy ra xe”. Luồng ánh sáng chói chang dõi theo, sáng trưng như trên sân khấu cùng làm 5 thằng tù chạy cuống quít, bước thấp bước cao đụng nhau, chỉ sợ té. Đâu có thời gian ngó quanh, suy nghĩ? Vấp té là có chầu đèn pha tốp lại, bao nhiêu cái miệng la lối, bao nhiêu mõm chó trận nhau nhau rồi gót giày, báng súng sẽ giáng xuống như mưa! Sự thực đâu phải vì sợ chậm trễ hết giờ mà lính hộ tống bắt tù phải chạy như ma đuổi (bắt tập họp ngồi cũng đủ, đâu phải ngồi bệt xuống đất, hay bắt quỳ gối xếp hàng như ở khám Orel?). Cũng như đèn pha, chó bẹc-giê, mũi súng chĩa lăm lăm, hối thúc chỉ là một mánh lới đặc biệt hữu hiệu của kỹ thuật khủng bố và kiểm soát tù. Xét về tâm lý thì thằng tù lúc nào cũng phải đặt trong tình trạng phải tuân lệnh, hối hả cắm đầu tuân lệnh (không chỉ có răng chó và báng súng) đến độ lúc nào cũng hốt hoảng, không dám nghĩ đến đào tẩu. Tù bị hối thúc khủng bố liên miên ắt sẽ nhận không ra nổi hay quên bẵng mất một lần di chuyển là một cơ hội tốt để chạy trốn. Ít ra vách xe, sàn xe cũng còn dễ thoát hơn mấy lần vách đá nhà giam chớ?

Đề phòng bị tù chạy bậy, khám đường còn được lệnh trước khi cho tù ra ga lên xe đi đày còn phải kiếm đủ mọi cách quần cho chúng đừ người, chỉ còn vừa đủ sức để ngồi nghỉ trước khi “Năm thằng hàng đầu đứng dậy!”. Lên xe ban đêm nhưng ngay từ sáng sớm tù đã bị kêu điểm danh tập hợp ở một khu riêng. Suốt ngày hôm đó liên miên những thủ tục cưỡng bách. Bao nhiêu lần kêu tên, đếm đầu, sắp hàng? Hớt tóc tắm gội tập thể. Quần áo cho lên lò rang khô. Mệt mỏi nhất là nạn xét người, xét hành lý. Dĩ nhiên nhân viên khám đường trước khi cho tù tập hợp điểm danh đi đày đã khám xét quá kỹ rồi, nhưng đợt khám xét của lính hộ tống mới đáng kể. Họ chịu trách nhiệm khi đi đường, họ phải dành quyền khám xét tối hậu để phòng ngừa mọi bất trắc chớ? Về vụ này đã có thể thức và chỉ thị của nhà binh rõ rệt.

Tù đi đày không có quyền giữ bất cứ một món gì có thể sử dụng vào việc đào thoát – vật sắt bén có thể cưa cắt được là tịch thu. Những chất bột rời rạc như bột, đường, cà phê, muối, trà, thuốc lá cũng tịch thu hết. “Để tụi bay thình lình thảy vào mắt lính hộ tống, rồi nhảy chắc?”. Bất cứ một vật dụng gì có chiều dài như dây thừng, dây cột đồ, vải rút, dây lưng có thể dùng để “vượt ngục” cũng tịch thu luôn. (Lệnh tịch thu quái ác này không chừa cả sợi dây da cột chiếc chân giả của một thằng tù làm nó phải cởi chân ra, vác chân lên vai và di chuyển bằng cách lò cò nhảy từng bước, với thằng bạn đi bên ghé vai đỡ! (Hơn nữa, tất cả những đồ vậy quý giá chẳng hạn như chiếc va-li cũng bị củ soát kỹ. Không được xách theo người mà phải nạp trình để tập trung vào một chỗ, đến nơi trả lại.)

Chỉ thị Trung ương dù sao cũng là lý thuyết. Thực tế là các toán hộ tống Vologda hay Kuibyshev có toàn quyền sinh sát với tù nên mới có mục tiêu thứ 3 trong công tác đưa tù lên xe súc vật, được hiểu ngầm là “tài sản của bọn phản động, phản Cách mạng là tài sản chung của nhân dân xứng đáng (như giám thị, lính hộ tống) có quyền chia chác.

Đó là một điều không cần phải nói ra vì thân phận thằng tù sinh mạng giữa không xong thì sao giữ nổi chút đỉnh tài sản dính theo người? Chống cự sao nổi chính những người có quyền hành hạ, bắt ngồi bắt quỳ hay lột trần truồng? Một khi bị lột truồng ra rồi thì thằng tù dĩ nhiên phải thuộc vào một giai cấp khác, ở dưới hẳn giai cấp đang mặc quần áo, sai bảo, nộ nạt, hành hạ nó.

Thông thường lính hộ tống xét tù theo thể thức sau đây, áp dụng ở khám Kuibyshev mùa hè năm 1949. Đám tù cởi trần truồng ngồi bệt thành hàng lối, lính chĩa súng quay chung quanh. Gọi tên thằng nào thì thằng ấy đứng dậy, tay xách quần áo, tay xách đồ. Lính hộ tống luôn miệng nộ nạt, xô đẩy, hối thúc, nghĩa là rõ ràng làm dữ xử mạnh, tuyệt không có cử chỉ lời nói bình thường để thằng tù hốt hoảng, sợ hải tưởng đâu sắp bị dẫn đi xử bắn chớ không phải đi đày! Bản thân bị dày vò, vùi dập thì còn tiếc gì mấy món đồ riêng? Gói bị mở banh, va-li quăng quật và dốc ngược lên cho tất cả những vật bên trong tung tóe ra đất. Những thứ vặt vãnh như ví da, hộp thuốc, bị quăng ngay vào một cái thùng rỗng (không biên nhận, không ghi dấu cá nhân và quăng bừa vào một chỗ hở hang – không két sắt, không hộc tủ – như điệu này thì dĩ nhiên chẳng có vấn đề trả lại! Dĩ nhiên khi nạp thằng tù nào chẳng biết trước vậy?).

Mớ quần áo được rờ nắn kỹ sau đó và khi xét xong thì thằng tù trần truồng chỉ còn nước quơ vội những manh quần tấm áo vứt bừa bãi, túm gọn vào một bó. Có tấm mền bọc lại thì gọn quá! Còn đôi bốt lên bên trong hả? Để lại đi, quăng vào đống cạc táp, va-li da và ký tên vô sổ lẹ lẹ (quái gở ở chỗ nạp đôi bốt không được cấp biên nhận (sau này xuất trình lấy lại!) còn phải ký tên vô tờ khai là đã nạp rồi).

Chập tối trước khi tù được áp giải ra ga mới khỏi sự chia chác tiếng phản động: Ưu tiên là lính hộ tống mỗi ông lựa vài món. Cặp da, bốt da, hộp thuốc lá được chiếu cố trước. Rồi đến lượt các thầy chú giám thị. Thậm chí đến Công vụ và mấy người anh em cũng có phần chia kia mà.

*


Muốn được lên toa súc vật là phải qua ngần ấy thể thức và, mất mát. Đặt chân lên sàn xe là nhẹ hẳn người, dù biết rằng sắp chịu đói chịu rét lại sắp phải mắc kẹt giữa các đồng chí hộ tống và những người anh em kên kên. Bộ xe chở súc vật cũng có kên kên lẫn lộn. Sao không? Đó là truyền thống. Họ chiếm chỗ nào còn biết trước nữa! Mùa hè gần chỗ cửa thông hơi và trọn ngăn trên, nếu có. Mùa đông nếu may mắn có cái lò than thì chắc chắn mấy người anh em sẽ vây quanh lò.

Ông bạn dân chơi Minayev từng thổ lộ trong lá thư gởi về toà báo Literaturnaya Gazetta cho tôi đề ngày 29 tháng 11 năm 1963 đại khái như sau. Năm 1949 trời lạnh quá, đi từ khám Voronezh tới trại Kotlas mất mấy ngày liền mà cả toa xe chỉ được phát 3 thùng than. Dân chơi chiếm trọn lò than còn lạnh quá, thấy thằng chính trị nào có tấm áo lạnh còn tốt là lột và lột đến cả mấy đôi vớ không tha. Phát thức ăn dĩ nhiên người anh em lãnh phát nên cho cái gì được cái nấy. Chỉ bánh khô, cá khô là nhường cho chính trị chia nhau (họ chán chê mấy món này!), còn cháo nóng súp nóng không cho phép rớ tới. Phản đối, khiếu nại làm gì, khi sự bóc lột, cưỡng đoạt có thể diễn ra trắng trợn như trường hợp ông bạn người Estonia có một chiếc răng vàng còn bị vài người anh em đè ngửa ra sàn xe. Không sẵn kềm nhổ thì ghè bật ra bằng búa!

Những chuyến đi xa không gì sung sướng cho bằng được lính hộ tống phát đồ ăn nóng tận toa, dù chỉ là cháo. Cả đoàn xe chở rặt tù nên trưởng xa có quyền tới chỗ hẻo lánh ra lệnh tốp để phát cháo. Chỉ phiền phức nước uống quá hiếm, lấy đâu ra nước rửa? Sẵn thùng than đấy, đổ đại cháo vô: Những thằng bao chót sẽ nuốt cháo và than lẫn lộn. Bù lại với số tô nhà nước phát không đủ (thông thường 1 toa xe 40 mạng chỉ có 25 tô là nhiều) thì những thằng bao chót có hy vọng phần cháo nhiều hơn, đặc hơn chút đỉnh. Lãnh đợt đầu chắc chắn cháo hay súp ngũ cốc cũng phải loãng hơn, dù có kêu nài: “Quậy lên cho đều giùm!”. Cũng ít hơn vì, lỡ xúc quá tay thiếu phần những người ăn sau thì sao? Có điều lãnh trước hay lãnh sau cũng phải nhắm mắt lùa cho lẹ vì vừa cầm tô cháo lên đã bị hối thúc tíu tít: “Lẹ lẹ cho rồi! Còn trên 20 toa xe, chớ hầu hạ riêng mấy người mà rề rề?”.

Đi xe súc vật thì ăn thiếu, nước uống hạn chế mà có chết cóng hay bị lột trần cũng thây kệ. May ra ban ngày gật gù ngủ đỡ được một vài chập: Lính ngồi đầy nóc toa, chòi canh nhìn lại phía sau thì không lẽ phá vách nhảy ngang được hay đục sàn chui xuống đường sắt? Đêm đến là khổ vì nạn củ soát. Thỉnh thoảng trưởng xa cho lệnh tốp, bật pha sáng trưng để lính vác gậy đi từng toa, gõ rầm rầm trên nóc, gầm sàn, vách toa coi có chỗ nào đang bị cưa lên không. Xen kẽ là những vụ xét phía trong toa và đếm đầu đặc biệt. Cửa toa bật mở thình lình, đèn pha rọi vô. Toán lính xách đèn dí sát vào những chỗ “khả nghi”, mấy bọc đồ nhét ở thành xe bị hất văng đi. Toa xe được chia hai. Theo khẩu lệnh “Dồn một bên” tù phải dồn nhấp nháy sang một bên để củ soát bên trống, và ngược lại. Ngái ngủ chậm chân là bị sút bằng bốt da! Tiếp đó mới đếm đầu. Một, hai, ba, toán củ soát đêm có lệ đếm bằng gậy. Thay vì lệnh miệng, mỗi cây gậy vụt xuống hay tạt ngang trúng thằng tù nào là “đếm” xong thằng đó, phải nhảy tạt qua bên trống cho nhanh, nếu không muốn bị “đếm” thêm, bất kể đầu mình hay chân tay. Chừng đếm hết 40 mạng, đèn pha rọi tua chót không còn gì khả nghi nữa thì cửa sắt đóng rầm rầm. Toán củ soát bước sang toa bên là có quyền ngủ tiếp, cho tới lần sau xe ngưng thình lình và tù bị dựng dậy in hệt!

(Xét cho cùng lính hộ tống có củ soát tàn nhẫn vậy cũng chẳng phải thừa. Tù chính trị đào tẩu đâu chưa thấy nhưng vách toa cưa sẵn lâu lâu vẫn phát giác còn vi phạm luật hộ tống thì quá thường, chẳng hạn như giấu giếm vũ khí bén nhọn. Dù cố tình lờ đi cũng chịu không nổi: mới tối hôm trước năm ba thằng dân chơi còn râu ria xồm xoàm sáng hôm sau đứa nào cũng mày râu nhẵn nhụi! Vậy là ít chúng cũng dấu vài con dao cạo râu, thứ cấm kỹ nhất của nhà tù. Bắt buộc phải đếm đầu bằng gậy, lục soát đến bằng lòi ra tang vật. Cưỡng bách nạp thì nạp, có sao đâu?)

*


Đi toa xe súc vật còn khác bất cứ chuyến xe lửa đường trường nào ở điểm chỉ biết có lên xe, còn lúc nào xuống, xuống ở đâu thì kể như mù tịt. Không biết có xuống nổi không là thường! Như chuyến xe lửa chở đầy nhóc tù từ các khám Lêningrad tới trại Solikamsk năm 1942. Lúc có lệnh xuống xe có thấy toa nào cục cựa? Mở cửa toa mới giật mình hãi hùng: Những xác chết khô đét nằm còng queo đầy sàn, nhiều hơn người sống! Chừng khuân xuống xếp đầy nghẹt một sân ga xác tù chết khô. Những năm 1944-1945-1946 về mùa Đông có những chuyến xe tù từ những vùng mới “giải phóng” ngược đường về Bắc. Dân làm Hoả xa hay sinh sống gần nhà ga còn lạ gì: Chuyến xe nào chẳng dành riêng 1, 2 toa sau cùng để chất xác? Các toa trên phát giác ra xác nào là đợi đến trạm ngừng dồn cả xuống “toa đặc biệt”. Xe lửa chạy đường trường, dù mưa lạnh cũng không thể để người sống nằm chung với xác chết! Lâu lâu mới có nạn người sống người chết lẫn lộn, khó phân biệt. Phải đợi đến lúc mở cửa toa ra, thằng nào không động đậy mới chắc chắn chết rồi.

Không gì kinh hoàng cho bằng phải đi đày giữa mùa Đông giá rét. Nhà nước chỉ sợ mất tù chớ ăn nhằm gì những thằng tù chết cóng? Lính đi hộ tống là để canh giữ, khủng bố cho tù khỏi trốn, chớ đâu phải để xúc than, khiêng than phân phối cho 25 cái lò? Do đó tù thiếu than sưởi chết lạnh quá dễ! Ngược lại mùa hè là chui đầu vào lò, một cái lò sắt có 4 lỗ thông hơi thì bít hết 2, để chịu đựng hơi nóng nung nấu và rên rỉ vì thiếu nước uống. Mùa Đông thiếu than dễ chết cóng thế nào thì mùa Hè cũng dám khát nước gần chết như vậy, rút cục cũng khổ sở như nhau.

Tương đối chỉ đi về tháng 4 và tháng 9 còn đỡ khổ. Tuy nhiên nếu đoàn xe lửa lết cà rịch cà tang cỡ 3 tháng mới xong chuyến, như đi từ Lêningrad sang Hải Sâm Uy năm 1939 thì hết lựa chọn! Những công voa tù đường trường còn thêm nạn học tập chính trị dọc đường điên đầu. Lính hộ tống phải nhồi sọ để giữ vững lập trường tư tưởng đã đành, chính những thằng tù đi đày vẫn phải “theo dõi” thường xuyên. Phụ trách việc học tập là Bố Già tức cán bộ An ninh ngồi toa xe riêng. Chính Bố Già lãnh trách nhiệm phân phối tù từng toa, cắt đặt “trưởng phòng” chính thức và gài ngầm mật báo viên để làm tai mắt cho An ninh ở mỗi toa.

Dọc đường Sĩ quan An ninh sẽ triệu tập “trưởng phòng” và chỉ điểm viên đến toa riêng để cho chỉ thị và thu thấp báo cáo mật. Mỗi chuyến xe là phải có một vài hồ sơ kết thúc. Có tư tưởng lạ, chống đối là bị đưa xuống toa an ninh khai thác gấp và đến nơi chắc chắn sẽ lãnh thêm ít năm trong bản án đi đày.

Đi công voa súc vật cực khổ là thế – cực khổ đến suốt đời khó quên – nhưng vẫn còn được đi một mạch, đỡ phải chờ chực hay đổi xe đổi tàu. Miễn là đi một mạch. Miễn tới được là mừng, tâm lý chung mấy người đi đày là vậy. Làm như ở trại Cải tạo Sĩ quan An ninh nhiều hơn, điểm chỉ viên tử tế hơn và , tuyết cũng đỡ lạnh hơn ở học đường. Tới Trại là đỡ phải đi nữa.

(Phải đi nữa thì chắc chết! Đi nữa là , đi sâu thêm vào những vùng hoang vu, đi thứ xe cổ lỗ chạy đường sắt nhỏ hay những toa hàng hoá không mui, không vách. Ngồi sàn xe trống trơn như vậy, tù dễ trốn quá nên lính hộ tống càng có quyền canh gác gắt gao: tất cả phải nằm thu vào một đống, lấy tấm vải bạt lớn trùm kín lên! Nghẹt thở lắm nhưng có vải bạt trùm còn hơn ngồi trơ vơ trên sàn xe, đầu đội trời suốt một ngày như bọn Olenyev. Mặc cho tuyết tháng 10 sa xuống lạnh ngắt, cả bọn ngồi sát vào nhau đợi đầu máy kéo đi! Đầu máy không thấy chỉ có mưa xuống. Nước mưa thấm vào áo quần ít lâu và lạnh đóng băng cứng luôn.

Ở những đoạn đường sắt hiểm trở bắt buộc phải có những toa có đóng vách gô sơ sài. Xe lửa cố bò chậm lặc lè còn lắc lư, lảo đảo và thỉnh thoảng giật tung người. Vách xe bắt đầu rên kẽo kẹt, những khúc quanh gắt xe lắc mạnh và tù bị hất văng xuống đường rầy dễ như chơi!

Từ Dudinka đi vô các mỏ cỡ 100 cây số là thấy địa ngục. Vậy mà người anh em blatnye vẫn sung sướng như thường: Họ tranh chui hết vào giữa toa, tha hồ lấy hơi của mấy thằng chính trị bao quanh sưởi ấm lại khỏi sợ lọt đường rầy oan! Khổ nhất là lúc xuống xe. Nhìn quanh chỉ thấy trắng xoá những tuyết (1939). Nhà cửa có đâu? Có mấy cái hang, lỗ vừa đục trong sườn núi tuyết thì bọn đến trước đã chiếm sạch. Khỏi phải đào hàng mất công. Hãy cất lều vải ở đỡ. Đi đày Bắc cực là phải làm mỏ kia mà?)

Ôi thảm thương cho những thằng đi đày Yertsovo tháng Hai 1938. Nửa đêm có lệnh xuống xe, mấy đống lửa đốt lên ở ven đường sắt. Đếm đầu tập họp rồi đếm đầu nữa! Giữa bãi tuyết mênh mông thời khoá biểu tụt xuống 32 độ dưới số không. Công voa này toàn những thằng ở Donbas chở lên, phần đông bị tống giam lúc mùa hè nên quần áo mong manh, giày vớ thiếu thốn. Có thằng đi dép và mặc đồ nghỉ mát! Thấy lửa là mừng quá, toan bu tới sưởi nhưng lính gác đuổi lập tức. Đốt lửa để lấy ánh sáng kiểm soát cho dễ chớ đâu phải để mấy thằng phản động sưởi ấm?

Giữa đêm lạnh, đồng trống, 32 độ dưới không độ thì mấy ngón tay chịu sao nổi? Chúng cứng ngắc, mất cảm giác tức khắc. Tuyết chui vào giày và nằm nguyên chỗ, không chịu tan. Khẩu lệnh phát ra nghiêm khắc: “Nghe đây. Vào hàng cấp kỳ. Đi lệch sang phải sang trái một bước là bắn bỏ, không cảnh cáo. Đi thẳng tới!”

Đoàn công voa người chầm chậm chuyển động. Mấy con bẹc-giê trận lồng lên như muốn bứt xích. Dẫn đầu là mấy ông hộ tống mặc áo da cừu kín bưng. Đám tù phong phanh áo mùa hè, cắm cúi bước trên cánh đồng ngập tuyết, giữa đêm đen tuyệt không chút ánh sáng. Mấy cây phong khô khốc đứng sững, gió thổi lúc nào cũng có thể gãy. Những bước chân lún sâu vào tuyết, mỗi lần nhắc lên là cả một khó khăn vì xương cốt, bắp thịt gần như chết cóng, không chịu tuân lệnh. Mới tới đã vậy còn lao động ngoài mỏ thì sống sót sao nổi?

Tháng Giêng năm 1945: Hồng quân giải phóng thủ đô Ba Lan. Hồng quân cắt ngang Đống Phổ! Ở tuốt vùng Pechora, tù đi đày xuống công voa chỉ thấy mênh mông một màu tuyết trắng. Xế chiều rồi. Ngồi sụp xuống ven đường rầy, thành hàng 6 người một điểm danh, đếm đi đếm lại. Đồng tuyết Bắc cực khỏi có đường đi, kể cả đường tắt. Đoàn tù phải băng đồng, vượt 6, 7 cây số vất vả. Xưa nay có ai đặt chân đến đây? Đa số tù gốc Moldavia yếu chịu lạnh, chỉ đi giày da là cùng, lội lóp ngóp giữa đồng tuyết. Chậm chân một chút là bị đàn chó bẹc-giê đoạn hậu táp vào đít vào gót chân và vào gáy. Chó trận có huấn luyện mà. Hàng tù đi chót hết cuống cuồng té xiêu vẹo, thảm hại nhất là linh mục trẻ Viktor Shipovalnikov đã bết còn phải ghé vai đỡ đàn anh tóc bạc Fyodor Florya!

Bước thấp bước cao đi mãi cũng phải đến. Đến Trại là có chầu tắm nước nóng: Cởi quần áo ở một ca-bin, chạy tồng ngồng một khoảng sân tuyết mới được tắm ở ca-bin kế lên. Tắm xong là trời sập tối mới hay tin động trời: Trại vừa lập, chưa đủ chỗ chứa. Không thể nhét thêm mạng nào! Không thể đội trời đạp tuyết suốt đêm đành phải tập họp bù lại, bắt ngồi sắp hàng 6, đếm đầu vài lần và ra lệnh về công voa ngủ đỡ! Lại mò mẫm, dắt díu nhau lội 7 ca bãi tuyết trong bóng đêm. Tới công voa, trèo lên xe là kiệt sức. Cửa mở banh, than sưởi hết nhẵn đoàn tù co ro ngồi áp nhau chịu cóng qua đêm. Sáng dậy phát bánh khô cá khô, muốn uống nước thì vốc tuyết cạp, rồi lếch thếch vô Trại.

Cũng may có sẵn một Trại. Không đủ chỗ thì cất thêm ít căn nhân công quá thừa chỉ một ngày….

Đi công voa chở súc vật còn dám kẹt cảnh xuống xe giữa đồng trống mênh mông, một miền Taiga chưa hề thấy dấu chân người. Tận cùng của đường rầy có thể là khởi điểm của một trại Cải tạo mới toanh. Chỉ cần một tấm bằng gỗ đóng lên một gốc cây phong, mang 3 chữ tắt OLP là đủ. [1] Một tuần lễ bánh khô, cá khô, trộn bột với mấy cụm tuyết là hình thành xong cơ sở gốc.

Trại Cải tạo mọc lên nhanh và bắt rễ nhanh lắm: Chỉ 2 tuần lễ là tổ chức đâu ra đấy, có bếp nấu đồ ăn nóng, nếu không bát đĩa cũng có một chậu lớn chung cho một tổ 6 người. Chưa bàn ghế nên giờ ăn tổ có lệ đóng vây quanh chậu rồi chia phiên ra: 2 người bưng chậu 1 tay và bốc đồ ăn 1 tay, chỉ 4 người có quyền sử dụng cả 2 tay.

Thông lệ tù mới tới sẽ được chia toán gấp. Bao giờ toán trưởng cũng phải là một dân kỳ cựu để cầm đầu toán mới ép vào kỷ luật, chỉ bảo mánh lới và bóc lột luôn thể! Việc lập toán không thể trì hoãn vì ngay sáng hôm sau đã phải công tác lao động. Hồi chuồng Cải tạo gióng lên là bắt tay vào việc cấp kỳ vì Chuông không chờ đợi ai. Đây là chế độ Xô Viết mới, tù đi Cải tạo yếu tố thời gian là quý, chớ chẳng phải ngục khổ sai đầy ải con người như Akutui dưới thời Nga hoàng mà tù mới đến phải được nghỉ ngơi 3 ngày rồi mới cắt cử công việc (như đã ghi trong Hồi ký của tù già Yukabovich!).

*


Như đã nói trại Cải tạo mọc nhanh, bắt rễ nhanh lắm nên quần đảo mỗi ngày một phồn thịnh, mỗi ngày mỗi đặt nhiều thiết lộ mới ở nhiều nơi mới đây chở tù đến còn phải dùng đường thủy, trên những giang thuyền cổ lỗ đặc biệt Nga. Loại thuyền này chở được đến 100 người, tù phải ra sức chèo lấy. Cũng có trường hợp đi thuyền chài. Đặc biệt hơn cả là những chiếc thuyền lớn kiểu xà lan phẳng đáy, chở tù đến Vorkutlag hay Ust-Usa. Dân quần đảo kỳ cựu làm sao quên nổi những xà lan chấy, rận nhung nhúc như dòi này? Rận chấy phá đến nỗi bò lổm ngổm đầy thuyền, lính hộ tống phải cho tù đi từng mạng lên trên mui chải, rũ chúng xuống sông! Có những chuyến chở tù không đi đâu xa mà loanh quanh mất đến 10 ngày, vì xà lan đâu phải chỉ sử dụng duy nhất vào việc đưa tù đi đày? Ghé bên này, nằm đợi bến khác chán chê vì nơi đây cũng đặt cả hệ thống khám tạm nho nhỏ dựng trên nhà sàn hay căng lều sát bờ sông. Phải đi vòng vo, lâu lắt các toán hộ tống mới đủ thời giờ và điều kiện lột những thằng Zek!

Dân sinh sống ở 3 dòng Dvina, Ob và Yenisei làm sao quên những công voa xà lan đầy nhóc tù – nhộn nhịp nhất là đợt thanh trừng Kulak. Ba dòng sông cùng chảy ngược lên biển Bắc, phải có những xà lan khổng lồ đi thành công voa mới chuyên chở kịp cả rừng người đi Cải tạo! Tù nằm dưới lòng xà lan chen chúc như cua cá xếp lớp. Lòng xà lan sâu như giếng, có sức chở tối đa. Lính gác ngồi tuốt trên “lồng cu” chĩa súng xuống. Có xà lan lộ thiên, thỉnh thoảng mới có chiếc được phủ tấm bạt khổng lồ. Để che cho khuất, để chắn cho tù khỏi trốn chớ chẳng phải che mưa che nắng, vì đã bị liệng xà ngầu xuống lòng xà lan là phải chịu thân phận ngoi ngóp, lúc nhúc của mớ cá mớ cua. Ngay ân sủng cũng vứt xuống cái gì thì chia nhau cái đó, không có thì đành chịu. Kulak mà. Khi di chuyển đã vậy, ngay trong trại cũng không có vấn đề dự trữ thực phẩm cho bọn phản động. Giữa miền Taiga hoang vu phải ráng xoay sở lấy bằng cách tranh sống với thiên nhiên! Khỏi nói đợt đi đày Kulak chỉ là một hình thức tiêu diệt dần dà, có hệ thống.

Cho đến 1940 vẫn còn những công voa xà lan trên sông Dvina (mạn Bắc) và sông Vychegda, theo lời nhân chứng Olenyev. Dưới lòng cà lan tù thì đủ chỗ đứng mà không phải chỉ đi một vài ngày. Đi đái đã có những bồn nhỏ chuyền tay nhau và trút qua mấy lỗ thông hơi xuống sông, nhưng đi cầu thì không có cách nào khác hơn là bậy ra đũng quần!

Trên sông Yenisei việc chở tù bằng công voa xà lan tiến hành thường xuyên trong mấy chục năm liền. Vì vậy khám Krasnoyarsk mãi đến thập niên 1930 còn những bến tàu lộ thiên ở ven sông để tập trung tù nhân chở tàu. Thời gian chờ tàu chỉ mất 1, 2 ngày nhưng thời tiết Tây Bá Lợi Á độc địa chết người chớ không dễ dàng như năm 1897 Lênin xuống tàu đi St Nicholas đi đày! Kiểu xà lan chở tù phổ thông nhất trên sông Yenisei là thứ sâu thăm thẳm 3 tầng với một cầu thang sắt là chỗ lên xuống và lấy ánh sáng duy nhất. Lính hộ tống chia nhau 1 ca-bin nhỏ ở trên boong và thông thường chỉ đi lại bên trên canh gác, miễn sao tù không lao đầu xuống sông trốn là được. Họ không cần biết những gì xảy ra ở 3 tầng dưới nên chẳng tội vạ gì lần mò xuống cho dơ dáy người, dù có người rên la gần chết. (Có tủ thuốc cứu thương để cấp cứu dọc đường đâu.)

Hai đợt 1937-1938 và 1944-1945 xà lan tù hoạt động nhiều nhất. Dù chia 3 tầng nhưng chẳng sàn nào có quyền đốt đèn, hoàn toàn trông vào lỗ hổng cầu thang sắt và mấy lỗ thông hơi nho nhỏ ở bên vách. Nếu đủ chỗ thì tù chia nhau nằm thành hai hàng ngang, đầu quay vào vách xà lim chừa lối đi nhỏ ở giữa 2 rừng chân cẳng. Mỗi sàn có một thùng cầu duy nhất đặt ở cuối phòng. (Vậy đã là văn minh chán!). Muốn đi là phải lên lỏi giữa hai hàng chân. Khổ sở nhất là những lúc cầu đầy ắp phải khiêng lên boong trút xuống sông bằng ngả cầu thang duy nhất. Khỏi nói là không có cách nào ngăn ngừa phân văng tùm lum, dính lép nhép và ngập ngụa từ sàn trên tha hồ chảy xuống sàn dưới (phần vì làm biếng, phần vì khiêng lên xuống quá khó khăn nên cầu chỉ được đổ khi không chịu đựng thêm nổi!).

Khiêng cơm khiêng cháo xuống cũng chỉ một ngả cầu thang này. Phân đổ ra sàn người nằm ráng chịu cũng quen nhưng mỗi sàn một thùng cháo hay súp chia nhau không thể chấp nhận rơi vãi. Do đó chỉ lúc mấy thằng bạn ẩm thực lo thả thùng xuống mới được quyền sử dụng ánh đèn. Giờ đây có thể có đèn điện, những năm đó chỉ có cây đèn Bat dầu hôi xách tay le lói ánh sáng.

Di chuyển tù bằng xà lan dĩ nhiên được nhiều và thuận tiện nhưng không thể nhanh được. Đi Dudinka dám mất trọn 1 tháng như không (bây giờ chỉ 1 tuần). Nào gặp bãi cát, nào nước lớn nước ròng, biết bao nhiêu trở ngại sông nước không thể dự phòng? Chậm trễ chỉ chết thằng tù vì hành trình trễ một ngày là khẩu phần cúp 1 ngày. Nhiều chuyến tù bị nhịn ngang năm ba ngày thông!

Nhưng dĩ nhiên những thằng tù đói chẳng phải anh em blatnye. Tôi không nói ra nhưng bạn đọc thông minh hẳn biết trước, xà lan cũng đầy dẫy kên kên vậy, chuyến nào chẳng có? Dĩ nhiên chỗ thường lệ của họ phải là sàn trên cùng, ở sát chỗ cầu thang sắt để hưởng ưu tiên ánh sáng, khí trời và đặc quyền ghê gớm là phân chia thực phẩm. Có thiếu bánh phát đến mấy bữa dân chơi cũng chẳng vì vậy chịu nhịn đói bao giờ! Đi xà lan chậm rề rề, buồn bực biết mấy, nên để đốt thì giờ các người anh em ưa giở mấy cỗ bài ra tiêu khiển. Họ quây quần đánh bài cho đỡ buồn, không có bài sẵn thì chế tạo ra vài ba cỗ cũng dễ dàng. Blatnye mà. Đó là một sự kiện mà Shalamov tả vô cùng linh hoạt trong thiên hồi ký Vài nét phóng hoạ về giới giang hồ.

Đừng hỏi người anh em lấy tiền đâu ra đánh bài tiêu khiển! Có đồ là có cách bán có tiền, mà đồ thì 3 sàn tàu thiếu gì mòng. Có mòng thì kể như dân chơi có quyền lột công khai. Được bao nhiêu đồ đã có lính hộ tống phụ trách “tiêu thụ” mỗi lần xà lim ghé ngang một bến. Chớ còn ai làm công việc này nỗi, tù đâu có quyền lên bờ? Chỉ có một cách này người anh em mới có quyền tụ họp nhau để giải trí ngày này sang ngày khác. Thua qua, ăn lại cũng chỉ bấy nhiêu tiền, giữa bọn họ với nhau.

Nhưng không lẽ con mòng lúc nào cũng xuôi tay chịu chấp nhận lột? Họ cũng chống đối lại chớ. Vụ chống đối đáng kể nhất đã xảy ra trong chiếc xà lan lớn, thứ xà lan đi biển, giữa khoảng đường từ Hải Sâm Uy ngược ra Sakhalin.

Điều đáng kể nhất là 7 thằng chính trị trong tay không có 1 tấc sắt nhưng nhất định không chịu thua kên kên, dù chuyến này họ không dưới 80 thằng mặt rằn!

Với ngần ấy mặt rằn thì con mòng cả xà lan đã phải nạp đồ ngay từ khi tàu chưa rời bên, nghĩa là xà lan còn đậu trong kho số 3/10 cảng Hải Sâm Uy. Dân chơi đã phân công lột nhẵn nhụi tất cả những gì lột được. Dĩ nhiên kỹ thuật khám xét của họ còn cao hơn thầy chú một bậc vì sinh hoạt cùng một chỗ với nhau. Khó giấu giếm lắm nhưng thực tế là có xét là phải có cách nào lục lọi ra bằng hết! Biết vậy nên họ phải đợi tàu chạy đã, thỉnh thoảng sẽ có kế hoạch buộc phải lòi ra.

Thế rồi có giọng rao: “Có thuốc rê ngon đấy nghe? Bà con ai có tiền có quyền bỏ ra”. Con mòng Grachev rơi vào bẫy cấp kỳ. Moi mãi trong cùng chiếc gi-lê nhồi bông mới lòi ra 3 đồng rúp! Người anh em Tatarin vừa thấy 3 đồng bạc là xông tới nạt nộ tính cướp:

“ĐM, thằng này! Tiền đóng thuế nói không có. Bây giờ nghe thuốc rê mới chịu lòi ra. Đưa đây mày!”

Có kẻ đứng bên chặn hắn lại. Đó là Trung sĩ 1 Pavel. Như thường lệ Tatarin đưa 2 ngón tay ra, doạ làm chữ “V” nghĩa là móc mắt thằng cứng đầu nhưng bị Pavel cho đo ván tức thời. Hai ba chục dân chơi bèn nhảy xổ tới can thiệp, tính đập hội đồng, trừng trị thằng chó chết có tiền và thằng trung sĩ muốn làm anh hùng. Nhưng ngay sau đó Grachev và Pavel chịu đầu hàng. Cứ đánh. Lập tức bên “chính trị” có thêm 5 thằng nữa nhào vô. Biết chúng đông hơn và thằng có dấu dao nhưng nhóm 7 thằng nhất định chống cự. Tưởng sao! Mới trao đổi ít đòn quần đảo là cả đám giang hồ rút lui lẹ lẹ. Thì ra blatnye là như vậy! Xưa nay bắt nạ được ai là làm bộ hùng hổ như sắp giết người đến nơi. Chỉ cậy số đông làm bừa , chớ thực sự các người anh em ngán chơi dữ hơn ai hết. Và hèn hạ cũng hơn ai. Già dái non hột vốn là bản chất kên kên mà.

Vả lại họ không tốp cũng không được. Lính canh sẽ tuột thang xuống can thiệp cấp kỳ, đời nào cho phép ‘đánh lớn” ở chiến trường sát chân thang. Có khi thầy chú đã hờm sẵn để chờ giải tán đúng lúc! Tuy nhiên kên kên chẳng bao giờ chịu rút lui mất mát. Họ phải thòng một câu: “Cứ để chúng mày đấy! Đi tàu đi xe làm không tiện, chớ đến Trại thì làm thịt chúng mày quăng sọt rác mấy hồi!”.

Câu thòng chỉ đúng một nửa. Quả thực 80 anh chị mặt rằn chuyến xà lan đó đã bàn tính nhau có kế hoạch “nắm vững” Trại Aleksandrovsk, đảo mới trong hệ thống quần đảo Sakhalin để có đất làm ăn, phỗng tay trên những đồng nghiệp dân chơi khác. Đi đày phải có đất để cai trị mới mong sống sót về được chớ. Đổ bộ lên Aleksandrovsk nhóm 7 thằng điều 58 cứng đầu vẫn có ý chờ đợi ngày bị “làm thịt quăng sọt rác”. Rút cục êm xuôi, chẳng có gì xảy ra! Đám 80 mặt rằn còn lòng dạ nào giải quyết “món nợ cũ” trên xà lan? Chính họ còn điêu đứng sợ sống không nổi khi phát giác ra rằng đảo Aleksandrovsk đã có sẵn “người cai trị” rồi. Cũng dân chơi nhưng ít ra cũng sạch hơn chút đỉnh và không thuộc phe nhóm họ!

*



Lớp đi đày Kolyma sau này không đi thuyền, xà lan mà đi tàu biển đàng hoàng. Tàu lớn hơn thì nhiều tệ nạn hơn chớ bản chất vẫn là một. Lớp người ra Kolyma trên mấy chiếc tàu biển ọp ẹp lạ thay giờ này vẫn còn một số sống sót! Mùa Xuân năm 1938 chiếc tàu phá băng Krasin dẫn đầu, kéo theo một lô chở tàu tù. Tàu biển hồi đó cũng 3 tầng nhưng mỗi tầng đều có ổ ngủ 2 ngăn trên dưới, có vài ngọn đèn le lói. Mỗi tàu chứa nổi 3, 4 ngàn tù. Mỗi ngày tù được chia phiên từng toán lên boong trên đi hứng gió và cho bớt cuồng cẳng. Ra Kolyma mất trên 1 tuần đường biển nên bánh mì mang ra từ Hải Sâm Uy đi thường mốc meo, khẩu phần hàng ngày đang trên dưới nửa ký bỗng rút đi 1 phần 3 là thường. Có cá khô, có thức nước uống lờ lợ, nhưng ăn nhằm gì. Ăn uống vô bao nhiêu say sóng mửa trả sàn tàu bằng hết. Chỉ tổ dơ dáy, ngập ngụa thêm!

Chở tù bằng tàu lớn thỉnh thoảng cũng có chuyện chớ. Có lần suýt có gay cấn ngoại giao, như lần đoàn tàu chạy ngang eo biển La Pérouse, chạy sát mấy hòn đảo của Nhật. Đúng đặc điểm lập tức mấy ổ đại liên trên vọng gác được tháo xuống, giấu biệt. Lính hộ tống đổi thường phục, bao nhiêu cửa xuống boong dưới đều khoá cứng. Nếu có chuyện bất trắc xảy ra tàu nào cũng sẵn hồ sơ hải hành và văn kiện lập từ trước, để chứng minh tàu của hãng thầu chở nhân công ra công trường xây cất Kolyma. Tuyệt đối không có vụ lính áo giải đi tù đày. Mấy chiếc tàu tuần Nhật cũng sinh nghi nhưng chỉ chạy vòng vo, chạy bám theo,

Cũng năm 1938 ở địa điểm hiểm này có chuyện lộn xộn trên tàu Dzhurma. Một bọn dân chơi bẻ khoá lọt vô một kho thực phẩm trên tàu cướp đồ và gây hoả hoạn. Lửa bắt cháy, khói xông mù mịt. Đám tàu tuần Nhật vây quanh đánh điện om sòm, đề nghị lên tàu chữa cháy giùm. Thuyền trưởng tàu Dzhurma đã từ chối thẳng còn không chịu mở cửa boong và cửa xuống kho hàng. Những người bị kẹt dưới kho chết ngộp vì khói nằm co quắp. Sau khi chạy khỏi eo biển, thuyền trưởng điềm nhiên ra lệnh thảy xác chết xuống biển. Kho thực phẩm trên tàu cháy rụi nhưng cái gì còn xài được vẫn chất lên đảo cho tù ăn sau. [2]


Đoàn công voa tàu biển chở tù tới hải phận đảo Magadan thì lâm nạn. Kẹt băng cứng cả đám, ngay chiếc Krasin có bộ phận chuyên phá băng đi dẫn đầu cũng kẹt luôn! Thời tiết Bắc cực mùa này còn quá sớm, băng đã tan hết đâu mà đòi hải hành? Dù nhà nước Xô Viết có nôn nóng gởi “nhân công” ra Kolyma khai thác mỏ cũng chẳng chống lại nổi trời!

Đợt tới ngày 2 tháng 5 vẫn chưa thấy hy vọng băng rã, đoàn tù được lệnh đổ bộ đại lên Magadan. Cũng may mà nhìn thấy nó dể dắt díu nhau vượt một cánh đồng băng mênh mông tìm đường vào bến tàu trên đảo. Chao ôi, họ run rẩy ngắm cơ sở đảo Magadan và càng thêm cám cảnh: Ngoài một toà nhà đá 2 tầng Dalstroi chỉ thấy lơ thơ vài căn chòi gỗ cũ mèm. Không cây, không bờ bụi, không cỏ và một bóng chim cũng không luôn! Ngoài băng tuyết trắng xoá chỉ còn đồi đá trọc mấp mô.

Vậy mà đúng lớp lang vở kịch soạn sẵn, từ toà Dalstroi tiến ra nguyên một giàn nhạc long trọng dàn chào. Nhạc chơi hết quân hành hùng hồn đến luân vũ quay cuồng để gọi là chào đón “những con dân Xô Viết lầm lỡ được nhà nước cho đi cải tạo để có dịp tự cải hoá bằng lao động sản xuất”. (Dân Nga không phải đón mừng những bộ xương khô được chở tới lót nền cho đảo vàng Kolyma!). Thảm thương thay cho đám người dở sống dở chết từ Mạc Tư Khoa lê tấm thân tàn ra đây đứng lóng ngóng một dãy dài nghe bà con trên đảo trổi nhạc đón mừng! Còn gì thương tâm cho bằng thảm cảnh những thằng tù chính trị – chiếc tàu thứ nhất nhè đổ bộ toàn tù chính trị, không lẫn một dân chơi nào – thằng lành cõng thằng sống dở, chết dở, đứng co ro ngơ ngác ngó giàn nhạc Dalstroi? Nhiều người phải cõng thực sự vì tê bại trầm trọng quá đứng sao nổi cũng như không còn chân thì đứng cách nào? (Què cụt năm 1938 cũng đi đày Kolyma thiếu gì).

Sau phút đón mừng lâm ly đó,những gì sẽ xảy ra? Có gì đâu? Sự thực cũng có nhưng cam đoan tôi viết ra là nhàm chán cùng cực, bạn đọc không buồn coi chắc chắn. Đại khái là sau khi trình diện làm thủ tục xong thì lên xe cam nhông đi cả trăm cây số, xuống đi bộ thêm ít chục cây nữa là vừa đến trại mới. Nhập trại là lãnh công tác tức khắc? Ngủ sẽ ngủ lều vải. Ăn thì cá khô, bánh khô và uống thì cả núi tuyết đấy! Trại mới mà.

Nếu muốn có chút chi tiết thì có thể kể thêm vô mục khám sức khoẻ trong nhà lều Magadan, cởi trần truồng ra coi qua tiêu chuẩn người ngợm có thích ứng với công tác không mà kết quả chẳng thằng tù nào không thích ứng hết! Sau đó đến mục tắm tập thể và xét vì tắm là phải trần truồng nên những thứ gì không dính vào da là phải gởi nhà kho để cán bộ phụ trách “định liệu”.

Phải nói là cú “định liệu” đợt tù đầu tiên mùa Xuân năm 1938 cán bộ phụ trách tiếp nhận Magadan đã trúng mối lớn! Nội khoản áo quần, giày dép của 1 chuyến tù cũng cả núi những áo vét da, áo khoác da cừu nguyên tấm Romanov, com-lê đen dạ thế chiến, áo lạnh dài tay, áo mặc nhà bằng nhung nõn, bốt da láng, bốt da bên trong lót nhung tơ, (đã nói đợt đầu toàn tù chính trị, không có dân chơi lẫn lộn vô mà). Xét về phương diện biết ăn sung mặc sướng thì đám tù Kolyma đầu Xuân 1938 có lẽ vô địch Liên bang Xô Viết. Họ đâu phải bần cố nông phản động hay Kulak? Tất cả từng là con cưng của chế độ, thành phần có gốc Đảng bự. Nào chủ bút, chủ nhiệm báo, Nào giám đốc xí nghiệp, công ty quốc doanh. Nào bí thư Đảng ủy Tỉnh, Miền, giáo sư Kinh tế, Chính trị.

Trong đám gốc bự biết ăn xài, chưng diện đó có một vị chợt lên tiếng thắc mắc: “Này, mấy món đồ của tụi mình để lại đây ai coi nhỉ? Tắm xong thì,”. Hắn lập tức bị cán bộ phụ trách chỉnh: “Cứ vất đại ra đấy, ai mà thèm!”. Cán bộ hướng dẫn tắm còn bất mãn: “Đi tắm, đi mau! Ở đấy mà thắc mắc!”

Mọi người bèn tồng ngồng bíu ríu đi tắm. Tắm xong thì hết thắc mắc đồ đạc, quần áo còn mất! Vì lúc được hướng dẫn trở ra đi một ngả khác, chớ đâu có trở lại nhà kho. Kế bên là phòng phát đồ. Dĩ nhiên là đồ nhà tù đúng tiêu chuẩn: Quần áo bà ba vải đen, sơ mi lao động, áo vét nhồi bông gòn (kiểu đi đày và không có túi). Mỗi kẻ còn được phát một đôi giày tứ thời da heo!

Cái vụ đổi đồ nhà tù này đâu phải chuyện chơi. Mặc nó vô là thôi, tống tiễn cả một thời quá khứ! Nào địa vị, nào chức tước ngày xưa liệng bỏ cái một. Hét dám ho he chắc!

Lúc bấy giờ họ xớn xác: “Ủa, đồ đạc..quần áo chúng tôi đâu cả?”. Có kẻ còn la lớn lên nữa, nhưng làm sao át nổi tiếng quát rất hách của sếp cán bộ:

“Toàn thể nghe đây, Những thứ đó, ở nhà tụi bay! Yên lặng hết, ở Trại là không có cái gì hết, khỏi đồ đạc, quần áo! Ở Trại chỉ có một thứ là Cộng sản chủ nghĩa, hiểu chưa? Vào hàng gấp, Toán trưởng chuẩn bị. Đi đầu, bước! "

“À, ở Trại chẳng có gì hết. Chỉ có Cộng sản chủ nghĩa! Nếu chỉ có thế thì hết dám hó hé. Bề nào cũng là con cưng của Đảng, từng hiến dân cả đời cho chủ nghĩa. Còn phản đối cái gì?”

*


Nếu công voa có xe lửa, tàu biển thì dưới chế độ Xô Viết xe bò hay đi bộ cũng thành công voa vậy chớ. Dĩ nhiên không hiền lành như Tolstoi tả trong cuốn Hồi sinh, “rồi một ngày nắng ráo đoàn tù được lính áp giải từ khám ra ga!”.

Tù giam trong khám Minusinsk năm 1940 cũng được đi chân vậy. Có điều trọn một năm họ bị giam cứng trong cát-xô, xà lim,có biết đi là gì đâu. Đến thở và nhìn còn muốn quên luôn! Đột nhiên họ bị đẩy ra sân bắt sắp hàng và ra lệnh: “Đi! Đi một mạch tới Abakan, có 24 cây số đường đất mà 12 người ngã lăn ra chết dọc đường!"

Tính ra đến 500 mét mới có một mạng lăn ra chết – vì cuồng cẳng – đi hết nổi – đã lấy gì làm nhiều? Đâu có đáng đề tài sáng tác lớn. Một chương truyện cũng phí đi! Thì ra sống ở trong nghĩa địa con người ta cạn hết nước mắt là phải.

Công voa tù đi chân đất mới thực sự là thủy tổ của mọi thứ công voa. Chẳng qua thời buổi văn minh cơ khí sử dụng được bất cứ một phương tiện vận chuyển gì là người ta từ bỏ nó vậy thôi. Chẳng đặng đừng mới xài lại lỗi chăn người, đại khái như hồi Lêningrad bị bao vây phải đưa tù đi một khoảng đường dài trước khi nhét lên toa súc vật. Hồi đó chỉ tù đàn bà mới được phép đi gần tù binh Đức, mấy thằng tù lớ quớ tới gần là có lưỡi lê xua qua ngay (bộ xáp tới gần để cướp giật đồ ăn sao?). Nhưng đàn ông đàn bà bình đẳng ở chỗ mạng nào té gục, không gượng dậy nổi để bắt kịp theo đoàn là được lượm cấp kỳ để thảy lên chiếc cam nhông tà tà chạy đoạn hậu. Sống hay chết chưa cần biết. Hãy cứ thảy lên, giày dép tịch thu lại.

Công voa tù áp giải đường trường cho tới thập niên 1930 còn thiếu gì? Ngày nào chẳng có một đoàn từ khám tạm Kotlas đi Trại Ust-Vym đường xa 300 cây số? Tới trại Chibyu còn 480 cây số, đi 100 người một lượt. Mãi 1938 còn trọn công voa đàn bà trên các đoạn đường này. Trung bình mỗi ngay công voa người bò được cỡ 25 cây số chớ mấy?

Thông thường công voa người bao giờ chẳng có chó trận mở đường và báng súng đoạn hậu. Đi đường xa, nghỉ lại dọc đường là phải xách theo nồi niêu soong chảo và thực phẩm. Sẽ có vài cái xe bò đi sau gánh đỡ những khoản này, không khác gì thế kỷ trước! Dọc đường đã có những trạm nghỉ tạm, nhà cửa của bọn Kulak bị đi đày bỏ lại thiếu gì. Có điều chỉ còn khung nhà, bao nhiêu cửa cũng bị thổi bay từ lâu. Ngược lại, thực phẩm dọc đường là mối lo chính. Nhà tù có bây giờ chịu phát thừa đồ ăn? Có trục trặc dọc đường đành chịu: Khẩu phần 2 ngày chia cho 3, hay 5 cũng xong. Thiếu thốn là thường trực, thỉnh thoảng mới phải nhịn khô.

Năm 1940 đoàn công voa của Oleyev ở xà lan lên là được áp tải bộ băng ngang đồng hoang. Không có đồ ăn “đi” cùng cả đoàn đành nhịn. Bốn bên đồng trống, cỏ không mọc nổi thì biết xoay sở cái gì lót bụng? Đến nước sình nước phèn cũng lâu lâu mới có một vùng. Vốc lên uống cho đỡ khát thì cũng lâu lâu mới có một vũng. Vốc lên uống cho đỡ khát thì cả đoàn mắc chứng bệnh kiết lỵ nặng. Thằng nào ngã gục sang bên lề ráng chịu, chẳng ai buồn bận tâm (đồng hoang Taiga mà). Lâu lâu mới có một thằng gục được biết đến: Đó là lúc con chó trận nhào theo và lát sau thấy phất phơ vài mảnh giẻ rách nơi chiếc mõm tổ bố của con bẹc-giê.

Đấy là tình trạng đoàn công voa người đi tới Chybyu. Bọn di Izhma tương đối còn dễ chịu hơn: Cũng là Taiga nhưng nơi đây thỉnh thoảng còn bắt gặp một vũng nước, một cái đìa có cá. Còn gì sung sướng hơn cho những thằng tù chết đói? Những chiếc quần được cởi ra làm lưới và bắt được con cá nào là ăn sống con đó.

(Chính ở giữa vùng Taiga hoang vu, rùng rợn mỗi khi áp giải tù băng ngang, các cán bộ ưa giơ tay chỉ trỏ: “Đây là địa điểm mấy anh sắp phải khởi công làm đường sắt, từ Kotlas đi Vorkuta này…”)

Vùng phía Bắc nội địa Nga công voa người vẫn là căn bản cho đến khi bọn Zek đắp xong đường xe, đường sắt và xuất hiện những toa chở súc vật màu đỏ, cả một cố vấn đặc biệt chỉ chở tù đi đày. Những vùng còn công voa người đi dài dài dĩ nhiên phải có quy luật, chỉ thị rành rẽ. Từ Knyazh Pogost đi Veslyana chẳng hạn, lúc băng ngang Taiga có thằng tù nằm gục, đi hết nổi thì phải làm người dừng lại chỉ để chờ một mạng tù ngất ngư? Hay một thằng tù gục té bắt một lính hộ tống ở lại chờ? Lấy đâu ra lính cho đủ? Vậy nên thằng nào nằm gục lính cũng chỉ dừng lại một lát. Cả đoàn cứ đi, lát sau lính thế nào chẳng bắt kịp? Hắn làm xong công việc rồi!

Đoạn đường đi đày Karabas-Spassk áp giải đi tù chân tiện lợi quá: Có 35 cây số đi nội một ngay là vừa đẹp. Nhà tù tính toán vậy nhưng thực tế tù đi đày có bao giờ khoẻ mạnh? Một ngàn thằng run rẩy, lết từng bước té lên té xuống lại là vấn đề khác! Ngã gục ngay giữa hàng hoặc bết bát lọt xuống sau chót, lẽo đẽo một hồi rồi nằm luôn để có ai thèm để ý? Còn bực bội là khác. Những thằng mệt đứt hơi chết không sợ, chúng còn cầu! Nhưng gậy đập lại ngán vô cùng, kinh nghiệm mà. Do đó cứ múa gậy loạn đã là chẳng thằng nào dám thụt lại. Thế là có lệ lính đi hộ tống xa bằng tiểu liên (cỡ 50 mét, chạy là bắn bỏ (và lính đi áp giải gần, không cần võ khí gì ngoài gậy. Chậm chân là vụt bất kể đầu, mình, Sắp đặt vậy còn công voa người nào chậm trễ?)

Xét ra Lãnh tụ tiên liệu trúng phóc! Tù đi đầy chỉ có thể giác ngộ bằng đòn. Đi bết bát là no đòn nên những thằng tưởng sắp đứt hơi gục đến nơi cũng đi phom phom và cũng vẫn tới đích như thường. Trừ trường hợp đập đến mấy nó cũng nằm lì một đống chịu trận vì thực sự không lết nổi được nữa thì đã có xe ngựa, xe bò đi đoạn hậu lãnh lượm lên. Với những thằng làm biếng cố chịu đòn để được liệng lên xe lại khác. Sẽ có hình, nhưng thực tế chẳng mấy khi xảy ra xét vì chịu nổi đòn đâu phải dễ? Đi đày còn đòi xe? Xe đâu ra, ngựa đâu! Ngựa không phải tốn lúa sao?

1948, 1950 còn thấy lác đác công voa người nhưng khoảng 1920 thịnh hành nhất. Tôi không sao quên nổi hồi còn bé tí thấy những đoàn tù lặc lè đi dọc các đường phố Rostov. Có một khẩu lệnh thật tức cười nên tôi nhớ mãi: “Tụi bay đi lộn xộn là nổ súng khỏi cảnh cáo!”. Khốn nạn, thời ấy lính giải tù đi chỉ có gươm chớ lấy đâu ra súng mà nổ? Tuy nhiên có thằng nào đi lệch lạc, trật ra ngoài hàng lối là bị nạt: “Đi ngay vô, không chém cổ giờ!”. Với tâm hồn thơ dại ngày đó, tôi chỉ nghe nồ đã ớn: nổ súng, chém cổ. Nghe thấy ghê, một nhát gươm vung dám một cái đầu rụng lắm!

Ôi, quên làm sao nổi cảnh tượng thê thảm, não nề của toán tù già áp giải ngang Nizhini Novgorod tháng 2 năm 1936! Toàn những ông già miệt quê, những lão nông râu dài sinh sống miền bên kai sông Volga! Những con người cổ lỗ của một nước Nga xa xưa, quần áo mặc vải thô nhà dệt, không chấp nhận giày dép loẹt quẹt kéo lê những đôi guốc vòng quai vải dày cộm. Cả một nước Nga cổ lỗ đang chìm vào quên lãng. Đoàn tù già đang băng qua ngã tư thì từ đằng xa 3 chiếc xe hơi vùn vụt phóng tới cúp Công voa người lọm khọm dừng lại ngó đồng chí Chủ tịch Kalinin băng ngang cùng 2 xe hộ tống. Dĩ nhiên đồng chí chủ tịch chẳng thèm để ý.

*


Bạn đọc theo dõi tới đây, thì xin mời khẽ nhắm mắt. Có tiếng bánh xe sắt nghiến rầm rầm trên đường rầy: toa xe Stolypin đó. Âm thanh kéo dài ra là công voa chở súc vật, Phút nào cũng có. Ngày nầy sang ngày khác rầm rầm quanh năm! Bạn có nghe rì rào tiếng sóng vỗ mạn thuyền? Công voa xà lan đưa tù đi dài dài. Có tiếng động cơ rít róng: xe bít bùng đi vồ người, lượm người. Khốn nạn người bị bắt, tống giam và đưa đi đày thì nước này ngày nào, giờ nào chẳng có?

Bạn lắng nghe nữa đi. Thấy rầm rì, ào ào như ong vỡ tổ còn gì khác hơn là âm thanh đặc biệt của những xà lim nhét tù chật cứng? Có tiếng la chói lói, tiếng khóc rú lên. Tiếng người, bị cướp đoạt, hãm hiếp, chịu đựng tra tấn thừa sống thiếu chết.

Chắc bạn còn lạ gì mọi phương pháp di chuyển tù, biết bao nhiêu thứ công voa đi đày nhưng thảy đều giống nhau ở một điểm: Chúng vô nhân tính? Cũng như hệ thống khám tạm dọc đường thì thiếu gì hình thức, nào tiếp nhận nào đính chính nhưng có một nơi nào không đốn mạt? Có nhà tù TỐT bao giờ!

Đau khổ là con người ta ráng sống vì hy vọng, biết đâu chừng chỗ sắp tới không đỡ khổ? Cũng dám có một Trại Cải tạo không đến nỗi nào chớ? Không có chuyện hão huyền đó đâu! Trại khốn khổ, tệ hại hơn nhiều…,



[1]OLP là chữ viết tắt của Otdelny Lagerny Punkt: Cơ sở Trại Cải tạo Đặc biệt.
[2]Nào phải chỉ riêng vụ tàu Dzhurma? Mấy chục năm sau, các tàu Xô Viết lâm nạn giữa đại dương – dù không chở tù, không giấu giếm điều gì - cũng chối bỏ mọi đề nghị tiếp cứu của các tàu bạn ở chung quanh. Thà làm mồi cho cá mập chớ không thể “tiết lộ bí mật” hay để lộ những sơ hở kỹ thuật gây ra tai nạn. Đó là vấn đề Quốc thể!

4. Quanh co quần đảo

Trong cuộc đời tù đày có hình thức di chuyển nào phóng khoáng cho bằng được đi riêng rẽ, có hộ tống đặc biệt? Nhiều thằng Zek từng đi đảo hay đính chính từ đảo này sang đảo khác gần như du khách đi tự do, nhưng dù sao vẫn tối thiểu số. Riêng phần tôi trước sau được 3 lần hộ tống đặc biệt.

Phải là giới chức cao cấp mới có quyền chỉ định một vụ hộ tống đặc biệt. Xin đừng lầm với lệnh trưng tập đặc biệt. Đi trưng tập vẫn phải sinh hoạt chung một xe với đám đông, chịu chung luật đính chính như mọi người. Đến nơi mới được tách riêng để đãi ngộ đặc biệt, trong lúc di chuyển vẫn có thể gặp nhiều chuyện.

Thí dụ như kỹ sư Ans Bernsthein đang nằm trong một trại Cải tạo mạn Bắc bị trưng tập đặc biệt xuống miền Nam sông Volga gia nhập phái đoàn Canh nông. Đi dọc đường cũng phải nghiến răng chịu đựng mọi sự hành hạ cực khổ, lính hộ tống chửi mắng đánh đập, chó bẹc-giê táp như ai! Xuống ga xép Zenzevatka bỗng có một ông giám thị ra đón, không xách súng mà còn tiếp đón lịch sự. Hắn vừa che miệng ngáp vừa nói:

“Bây giờ tối rồi. Khuya nay ông ở tạm nhà tôi. Ông có thể đi dạo chơi quanh quanh ngoài phố sáng mai tôi sẽ đưa vô Trại.”

Chao ôi, “ông có thể đi dạo chơi quanh quanh ngoài phố”. Còn gì sung sướng, bất ngờ bằng! Lãnh án đi đày 10 năm, cuộc đời kể như bỏ, suốt ngày chen chúc như chó trong toa xe tù Stolypin, sáng mai sẽ lại nhập Trại, ai dám ước ao đi dạo chơi quanh quanh? Ans Bernsthein hồi hộp bước ra ngoài mảnh vườn nho nhỏ xếp ga, lắng nghe đàn gà về chuồng kêu ríu rít, đứng ngó mấy bà bạn hàng nhà quê thu dọn những hũ bơ, những trái dưa còn ế mang về nhà. Hắn ngơ ngẩn thử cất bước coi sao, một bước, hai bước, ba bước, Hắn bước đi tới bước thứ 5 mới dám tin là không bị lính gác kêu giật ngược: “Ê thường kia, đứng lại!”. Mừng mừng tủi tủi Ans Bernsthein đưa tay sờ từng nhánh xương rồng ngoài hàng rào.

Đi hộ tống đặc biệt là đặc biệt ngay từ đầu. Khỏi đi toa Stolypin, khỏi bẻ quặt tay sau lưng, khỏi ngồi bệt xuống đất đếm đầu, khỏi lột truồng ra xét. Lính hộ tống coi bộ nể vì, thân thiện. Có bắt buộc phải cảnh cáo theo thủ tục áp tải cũng chỉ nhẹ nhàng:

“Ông bạn đừng chạy hoảng nghe? Buộc lòng tụi tôi phải nổ đấy! Tụi tôi thằng nào trong túi chẳng có súng sáu lên đạn sẵn? Tụi tôi phải dặn hờ trước vậy để ông bạn đi đứng cho tử tế, tự nhiên, đừng để bà con thấy đang bị áp giải.”

Tôi đã được đãi ngộ tốt như thế đó! Vậy thì gây rối làm chi cho sứt mẻ mối liên hệ lưỡng lự giữa nhà nước và công dân?

Phải nói là cuộc đời tù tội của tôi “lên hương” sau bữa ra sắp hàng trong toán thợ mộc. Coi, mới làm thợ có ít ngày mấy ngón tay quen cầm bào đục đã muốn co quắp, duỗi ra thấy ngượng nghịu rồi! Gã cặp rằng ban mộc kéo tôi sang một bên rỉ tai: “Anh bạn, in hình có lệnh của Bộ trưởng Nội vụ thì phải.”

Tôi choáng người: Lệnh gì đây? Lúc tan hàng mấy gã Công vụ, có vai vế nhà lao bèn bu lấy tôi. Kẻ thì: “Chắc anh bị một củ nữa quá” nhưng mấy người khác nhất định: “Trả lại tự do”. Có lệnh Bộ trưởng Nội vụ, đồng chí Kruglov đâu phải chuyện chơi? Ngay tôi cũng chẳng biết mịnh sắp bị chồng thêm án, hay phóng thích nữa! Tôi quên khuấy vụ phái đoàn Trung ương tới Trại cỡ nửa năm trước chỉ thị lập hồ sơ kiểm tra. (Hồi đó chiến tranh vừa dứt, con dân quần đảo có lệnh kiểm tra hết. Trại nào cũng có chỉ thị xúc tiến gấp, nhưng đã hoàn thành thế nào được?)

Hình như trong bảng lược giải cá nhân của từng thằng Zek mục quan trọng nhất là “nghề nghiệp, chuyên môn”. Thằng nào chẳng tính toán trong đầu, xét coi nghề gì có giá nhất trong Quần đảo là tương đại vào? Nào thợ hớt tóc, thợ may, thủ kho, thợ làm bánh, Riêng tôi, sau khi nhíu mày suy nghĩ một chút, thản nhiên điền vô ô trống: Vật lý nguyên tử. Sự thực tôi có nghề này bao giờ! Mớ kiến thức nguyên tử loanh quanh “những điều nghe thấy” ở Đại học từ thời tiền chiến. Tối đa trong đầu tôi cũng chỉ có năm bảy ký hiệu nguyên tử vớ vẩn, mấy phương trình loạc choạc. Nhưng tôi cứ khai bừa vật lý học nguyên tử, vì năm ấy mới là 1946 còn cần ban nguyên tử quá mà. Vả lại tôi có đặt nặng vấn đề kiểm tra lý lịch, hồ sơ quần đảo đâu? Tôi khai nghề nghiệp rồi quên liền.

Bọn Zek tụi tôi thằng nào chẳng tin là giữa quần đảo ngục tù có những hòn đảo biệt lập vô cùng sung sướng? Chẳng hiểu những hòn đảo thần tiên đó có thực không hay chỉ là, những thiên đường trong huyền thoại. Đó là một sự thực chưa kiểm chứng nhưng cũng chưa bị ai cải chính bao giờ. Nó kín lắm, bí mật lắm. Có ai biết nó nằm đâu? Mà có biết, có ở cũng chẳng tiết lộ! Nội khoản thực phẩm ở đó cũng thiên đường. Sữa tươi, mật ngọt ê hề. Hột gà, kem tươi làm chuẩn. Chỗ ở sạch sẽ, thảnh thơi, ấm áp là cái chắc. Chẳng phải làm gì mệt nhọc. Chỉ hướng đầu óc về sự tìm tòi, phát minh – tất cả đều mật tối mật.

Những lần di chuyển đặc biệt đó tôi có cảm giác lâng lâng rõ ràng mình phải là người cõi khác mà người trần mắt thịt làm sao nhận ra. Bọn họ thấy sao nổi nhưng mình, nhìn thấy hết, biết hết! Thực vậy, tôi như chìm đắm vào một biển cả tự do ở sân ga có dịp chen vai thích cánh với những người là người, thấy tấm bảng kế bên dù chẳng liên quan gì cũng cứ ngẩn ngơ ngó. Ngồi dựa lưng trên băng xe toa hành khách, tai tôi lắng nghe những mẩu chuyện vô nghĩa, vô duyên. Nào chuyện thằng chồng vũ phu, gã sở khanh bỏ nhà. Nào chuyện nàng dâu, chuyện mẹ chồng. Những đứa ở công ốc xài điện câu trộm ở hành lang mà bước vô nhà không thèm chùi chân. Những chuyện vu vơ ở sở ấy sở nọ. Có thằng có chỗ làm ngon hơn nhiều mà phân vân không muốn dọn nhà. Nồi niêu soong chảo bao nhiêu thứ bộ mỗi lúc dọn dễ lắm sao?

Những mẩu chuyện dấm dớ lọt vào tai tôi hết. Nghe chịu không nổi, đúng là chuyện của những người trần mắt thịt, những đứa u mê bưng kín mắt, miệt mài chẳng biết gì hết. Sống như vậy mà tưởng đã là sống thiệt sao, hỡi ơi! Phải như thế này, phải như tôi mới gọi là sống.

Giữa bọn họ và tôi là cả một vực thẳm. Ngồi gần nhau trong gang tấc nhưng tuyệt nhiên không thể hoà đồng, không thể đụng chạm, cười khóc cùng. Xét ra cùng ngồi đây nhưng tôi chỉ là một hồn ma, bọn họ là người, bọn họ có thực thể!

Làm sao có thể truyền cảm với họ, cho họ biết họ thấy…? Bằng cách giao cảm, bằng huyễn ảnh, một giấc mơ chăng? Họ là người, đồng loại, đồng bào tôi đấy! Họ đang sống đấy! Này giữa đêm đen âm u, lặng ngắt những cánh cửa khám tử tù bật mở, có những con người bị nắm đâu, xách đi bắn bỏ. Giữa giây phút này, cũng đang ngồi xe lửa như thế này ở một đoạn đường nào đó, có những con người nuốt trộng mẩu cá khô, lưỡi rát bỏng thè ra liếm đôi môi khô. Có những con người cũng ngồi xe lửa giờ này đang ước gì được duỗi chân một lát cho sướng, đi cần được một cái cho thoả thuê. Này ở Orotukan đó, có những con người phải đợi hè về, cắm cúi đào lớp đất sâu 1 mét lúc ấy vừa rã băng mới chôn được những xác khô, những con người vừa ra đi trong mùa băng giá. Này phải chi được sống tự do để ngước nhìn trời xanh nắng chiếu, để uống một miếng nước hoặc được duỗi chân ra, đi lại không bị áp giải.

Như vậy đó, chùi chân hay không chùi chân có nghĩa gì? Chuyện mẹ chồng, chuyện nàng dâu là cái gì? Mà sống trên đời này để làm cái gì đã nào? Mấy người muốn nghe không? Tôi sẽ kể ngay bây giờ.

Tôi kể chớ. Tôi muốn nói đừng cắm cúi chạy theo tiền tài danh vọng. Bao nhiêu tâm sức trong mấy chục năm trời chỉ cần một đêm là mất sạch. Sao không vượt ra, đứng trên hẳn cuộc đời này, để hoạ không sợ, phúc chẳng màng? Xét cho cùng hoạ hay phúc thì cũng như nhau. Chẳng hoạ mãi bao giờ cũng như phúc chẳng thừa đến tràn trề. Cuộc đời nếu lạnh không chết cóng, bụng không biết đến đói khát là đủ. Chân tay còn nguyên vẹn, cử động và đi đứng được, lưng chưa gãy gập và mắt còn sáng tai còn tỏ là đủ. Không ao ước, không thèm thuồng để tự hành hạ mình. Hãy dụi mắt và làm mới con tim: trên đời này còn gì quý bằng những người có tình cảm với mình, chỉ mong cho mình khá? Với những người ấy đừng giận dữ, trách móc, làm buồn họ. Biết đâu chừng vừa sanh sự với nhau, là mình bị bắt và cử chỉ cuối cùng của mình sẽ vươn vấn họ suốt đời?

Tôi muốn nhắn nhủ với họ như vậy nếu 2 ông hộ tống không gõ gõ báng súng sáu nhét trong túi. Tôi nhớ ra ngay nên ngồi yên lặng, ngồi đàng hoàng như hai người bạn đồng hành hai bên.

Tôi đưa tay chùi mồ hôi trán, nhắm mắt lại rồi mở ra. Vẫn lù lù trước một mặt bọn người không bị áp giải. Không thấy lính canh. Tôi thấy tối đêm rồi nằm xà lim, đêm mai vẫn xà lim. Có bóng người lù lù, nhưng chỉ là gã soát vé đi kiểm soát. “Có chứ. Vé tôi đây.”

Toa xe hôm ấy đông. Nhưng đông khách chớ không đông người nằm chui gầm ghế, người ngồi bó gối dưới sàn, người choán đường đi. Hai ông hộ tống dặn tôi ngồi đứng tự nhiên như mọi người. Tôi tự nhiên chớ sao? Rất tự nhiên tôi đứng bật dậy, mau mắn chạy tới chiếm chiếc ghế trống ngay sát cửa sổ. Tôi ngồi vào chỗ. Mấy ghế bên cạnh có người cả rồi. Hai ông hộ tống ngồi nguyên chỗ cũ, những cặp mắt âu yếm không rời tôi.

Đến ga Perebory bỗng có một ghế trống trước mặt. Một ông hộ tống nhấp nhổm tính sáng choán chỗ nhưng không kịp. Nhanh như cắt một kẻ lạ mặt đã ào vô ngồi. Khuôn mặt hắn no tròn, áo khoác da cừu, khăn choàng cổ cũng lông cừu. Hắn còn xách theo chiếc rương gỗ, giản dị nhưng chắc chắn: đúng là sản phẩm của quần đảo!

Có một chỗ ngồi rồi, hắn thở phào sung sướng. Đèn ca-bin sáng mờ mờ, mặt hắn đỏ rừng. Chắc lên xe vội vã lắm, lại nhậu khá say. Quả nhiên hắn lôi đâu ra một chai la-ve, giơ lên cho tôi coi và thân mật mời: “Có la-ve đây, làm một ly không, đồng chí?”

Làm gì tôi chẳng biết hai ông bạn hộ tống ngồi ghế bên kia đang khó chịu dữ? Tôi đâu được phép uống rượu, bất cứ một thứ rượu gì. Nhưng họ lại căn dặn “phải xử sự, đi đứng sao cho thật tự nhiên” mà. Vậy tôi phải tự nhiên. Rượu có người mời, từ chối sao tiện? Tôi bèn gật đầu: “La-ve hả? Được lắm chớ.”

(Chao ôi, la-ve! Cả một bài thơ tuyệt tác. Từ 3 năm nay tôi đâu có diễm phúc tợp một ngụm la-ve. Trời ơi, vô xà lim ngày mai tôi có quyền khoe ầm lên: “La-ve hả? Hôm qua vừa uống xong!”)

Hắn rót ra một ly mời tôi. Tôi cầm lấy, làm một hơi dài, khoan khoái đến rùng mình! Lúc bấy giờ đã tối hẳn, trong toa xe đâu có đèn điện. Bao nhiêu năm chiến tranh mà. Chỉ có một mẩu đèn cầy nho nhỏ đặt trong cây đèn cổ lỗ treo ở cửa: mỗi ca-bin có hai hàng ghế ngồi châu đầu mà 4 ca-bin mới chia nhau một cây đèn cầy. Cho nên hắn ngồi ghế đối diện mà mặt mũi ra sao tôi chỉ thấy mờ mờ. Nếu tôi nói chuyện nho nhỏ đủ nghe thì ông bạn hộ tống muốn nghe lén cũng không nổi vì tiếng bánh xe nghiến xuống đường rầy rầm rập. Ông bạn la-ve coi bộ dễ tính quá, tôi đã tính chuyện nhờ vả. Trong túi tôi có sẵn 1 bưu thiếp, ghi sẵn địa chỉ gia đình. Nhờ hắn bỏ thùng thư giùm chắc được. Hắn làm gì chẳng hiểu hoàn cảnh tù tội, coi cái rương gỗ kia là biết liền. Chưa kịp mở lời hắn đã xuề xoà cho biết:

“Gớm, hồi này khó khăn quá! Mãi mới có cái giấy đi phép thường niên. Mà hai năm chưa biết đến nghỉ phép là gì đấy! Thật không có ngành nào khổ sở khó khăn bằng!”

“Ngành nào mà ghê thế?”

“Ủa, không biết hả? Tôi An ninh Quân đội, MVD mà. Dân cầu vai xanh mà. Thấy cầu vai xanh bao giờ chưa?”

Chết cha! Giản dị vậy mà tôi không đoán ra, Ga Perebory là trạm chánh đi vô Trại Vologag mà. Thấy chiếc rương đặc biệt quần đảo là tôi phải hiểu nó ở đâu ra, chủ nó thuộc hạng người nào rồi. Kỳ lạ, ca-bin xe một thằng Zek hai ông MVD hộ tống đã là nhiều. Giờ lại có thêm một MVD nữa. Quanh đây dám có một ông thứ tư và toa này cũng dám có một thằng đang được hộ tống như tôi.

Ông bạn MVD đi nghỉ phép cứ cằn nhằn, phàn nàn luôn miệng. Cơ quan sao khó quá, hai năm trời mới biết đến tấm giấy nghỉ phép! Tự nhiên tôi thấy cần phải xỏ vô người khi không lãnh 10 năm chẳng về phép một lần thì không biết còn khổ đến chừng nào?.

Nghe tôi đụng đến địa hạt cấm kỵ hắn vội nín khe. Mãi đến sáng hôm sau cũng không nói thêm một câu. Nãy giờ đèn mập mờ chắc hắn yên chí tôi cũng lính tráng gì đây, sơ-mi nhà binh, áo nửa nhà binh nửa dân sự mà. Nhưng thực sự tôi là cái gì thì biết đâu đấy. Dám Công an nhân dân lắm. Hay nhân viên Nội An đi truy nã bọn đào tẩu không chừng. Toa xe này là thứ đặc biệt, đâu phải ai lên ngồi cũng được. Có mặt tôi sờ sờ mà hắn dám chỉ trích, phàn nàn Cơ quan thì….

Lúc bấy giờ đèn cầy vừa tàn, bấc đèn còn cháy vớt. Trên ngăn để hành lý trống trơn có gã trẻ tuổi nằm từ hồi nào. Nghe bà con trò chuyện hắn cũng lên tiếng góp, vui vẻ kể chuyện chiến trường, những mẩu chuyện chẳng đặc sắc gì nhưng không có trong sách báo. Hắn ở một đơn vị Công binh chiến trường nên mắt thấy tai nghe những gì kể lại trung thực, không đánh bóng, không tô vẽ. Vì là chuyện thực nên bà con nghe chăm chú lắm.

Phần tôi thiếu gì chuyện hay, chuyện lạ. Tôi cũng muốn kể lắm chớ. Nhưng thôi, nhắc làm chi những chuyện đã qua hẳn rồi. Đồng ý 4 năm chiến đấu thật nhưng tất cả đã tan biến hẳn. Ngay tôi cũng không ngờ có những chuyện như vậy đã xảy ra. Không muốn nhớ nữa. Hai năm quần đảo đã bôi xoá sạch, nào ký ức Chúa Trời, nào tình đồng đội tiền tuyến. Có còn gì đâu?

Thì ra nằm Trại Cải tạo 2 năm vừa có dịp ở mấy giờ giữa khối người tự do tôi đã cảm thấy lạc lõng, câm nín. Muốn nói nhưng không nên lời, tay như bị trói buộc. Đây không phải đất sống của tôi nữa rồi. Tôi muốn trở về, trở về đất cũ, về quê hương tôi nơi Trại Cải tạo!

Sáng ra tôi cố tình để quên tấm bưu thiếp ở ngăn hành lý bên trên. Thế nào chẳng có nhân viên Hoả xa lên quét dọn toa xe hàng ngày? Một mụ lao công nào đó chắc chắn sẽ lượm được nó và nếu còn là người, còn có lương tâm mụ sẽ nhặt lên, bỏ giùm vô thùng thư.

Xe lửa dừng. Chúng tôi ra ga, ga miền Bắc Mạc Tư Khoa chớ xa lạ gì. Hai ông hộ tống đâu có biết đường phố thủ đô. Tôi lại phải làm hướng đạo. Đi, tụi mình đi xe điện hạng B. Xe điện thì bến xe ở chỗ giữa Công viên kia. Giờ này buổi sáng là giờ đi làm chuyến xe nào chẳng đông? Một ông hộ tống vội bước lên, tới cạnh mụ lái xe điện chìa tấm thẻ hành sự MVD ra. Chúng tôi lên toa xe trên, nghiễm nhiên có quyền đứng sừng sững làm như nghị viên thành phố vậy. Lại khỏi móc tui mua giấy xe nữa! Toa xe này có phải ai muốn lên cũng được đâu. Già cả, què cụt cũng phải xuống toa dưới, ráng mà chen chúc.

Sắp tới ga xe điện Novoslobodskaya, chúng tôi chuẩn bị xuống. Quả thực đây là lần đầu tiên tôi được quan sát khám Butyrki từ phía ngoài. (Còn nằm khám này thì đã nằm đúng 4 lần, nhắm mắt cũng vẽ được bản đồ đầy đủ chi tiết!)

Chao, không ngờ Byturki đồ sộ đến thế! Nó chiếm trọn hai khu phố liền, vách cao sừng sững. Cửa lớn đây kia, phải nói là thấy cánh cửa thép của nó kéo vẹt sang một bên là dân Mạc Tư Khoa nhiều anh rét! Nhưng tôi thì dễ quá: Rời bỏ vỉa hè tự do bên ngoài, tôi đi thẳng vô chòi canh trấn trước cửa lớn thản nhiên như đi về nhà mình vậy. Này phần ngoài cùng, mấy cánh cửa lớn gỗ chạm kia tôi còn lạ gì. Sau đó hẳn là mục kê khai và kiểm soát lý lịch. Ai chẳng phải quay mặt vô vách nghe câu hỏi quen thuộc: “Tên gì, họ gì, tên lót, năm sinh…”

Tên tôi ư? Tôi là Hồn đi hoang ngoài vũ trụ. Xác thân bị buộc chặt rồi nhưng hồn thì bay bổng vô phương cầm giữ.

Tôi biết chứ. Vô đây là thân xác sắp trải qua một đợt thủ tục nhập môn thường lệ, đúng thứ tự. Nào phòng tạm giam, nào khám xét, nào biên nhận vật dụng ký kho, rồi ghi danh vô sổ cái, rồi tắm người, rang quần áo.

Xong ngần ấy cửa ải là vô tới xà lim. Căn phòng lớn, trần cánh cung, 2 đầu vòm cao tuốt (xà lim Byturki mà). Thế nào chẳng có hai cánh cửa mở rộng, một dãy dài bàn, hộc tủ, Đám người trong đó mặt nào chẳng khôn ngoan, săn đón, thân thiện? Có thằng mới vô thế nào chẳng có vụ tay bắt mặt mừng, giới thiệu hỏi han, rồi chuyện qua chuyện lại dứt không ra, quên cả buồn ngủ.

Mấy chén, bát được phân phát. Chiếc nào chẳng dánh dấu rành rành BU-TYUR như nhau? Ra điều vật dụng sở hữu của BUtyrskaya TYURma, tức Khám đường Byturki, nhưng riêng với chúng tôi lại là Trung tâm săn sóc sức khoẻ đệ nhất hạng. Nó nằm sờ sờ ngay giữa lòng thủ đô mà tiếc thay mấy ông lớn bệ vệ, thừa mỡ không để ý. Muốn bớt đi ít nhiều ký mỡ dư họ bày đặt đi tới Kislovodsk để uốn mình đúng một tháng trời theo phương pháp khắc khổ: Ngày ngày đi bộ đường rừng, chống tay nâng lên hạ xuống tập cốt cho đổ mồ hôi. May ra bớt được từ hai tới ba kí lô mỡ tối đa. Phải chi vô Trung tâm săn sóc Byturki thì xong ngay! Chẳng cần tập luyện theo phương pháp gì, chỉ ngồi một chỗ và trong vỏn vẹn một tuần lễ là vị nào cam đoan cũng mất được 8 kí lô thịt sắp lên.

Đó là phương pháp điều trị Byturki, từng thử thách đã nhiều và chưa bao giờ thất bại.

*


Một trong những sự thực anh học được trong tù là thế giới quá nhỏ hẹp, nỏ hẹp quả. Quần đảo ngục tù thuộc hệ thống Gulag trải rộng khắp Liên bang Xô Viết thực nhưng thưa dân hơn nhiều, làm sao bằng nổi? Dân quần đảo được bao nhiêu? Chẳng ai biết con số chắc chắn nhưng cam đoan không lúc nào dưới 12 triệu con người, xét vì một kẻ về với đất là một kẻ sẽ được Bộ Máy đưa vô trạm ngay tức khắc. [1] Trong 12 triệu tù thì tù chính trị tối đa chỉ chiếm một nửa tức 6 triệu người.

6 triệu con người bị giam vì chính trị! Thụy Điển, Hy Lạp dân số cũng chỉ ngần ấy là cùng. Lạ một điều dân quần đảo đông thế mà thiếu gì người biết nhau. Nói tên ra là nhận quen liền. Chẳng hạn như trong xà lim khám tạm dọc đường, anh vừa đặt chân vô thì sau một hồi thăm hỏi gần xa kể như chắc chắn sẽ lòi ra một kẻ từng quen biết một vài bạn anh.

Trường hợp Alexander D. mới lạ lùng. Nhốt cát-xô trên một năm, sau khi đi Sukhanovka bị đồng chí Ryumin đích thân tra tấn, nằm nhà thương ra, mới được tống vô loa Lubyanka. Vậy mà vừa vô xà lim, cho biết tên họ đã có một người chạy tới thân mật vỗ vai:

“Chà, nghe đại danh đã lâu bây giờ mới gặp mặt.”

Người lạ mặt vồn vã hỏi thăm và xưng danh F.. Với quá nhiều kinh nghiệm ở tù, Alexander thấy tốt hơn là né trước:

“Ô hay, ông bạn là ai? Tôi nhớ chưa được gặp.”

“Đúng chưa gặp! Nhưng quen thì có thể nói lâu rồi. Từ ngày…”

“Ủa, từ ngày nào?”

“Từ ngày tôi còn tự do, đọc báo thấy tên ông bạn! Alexander D. công dân Mỹ phải không? Ông bạn là người Mỹ hồi đó báo chí tư bản phản động cứ vu cáo bị Nga bắt cóc làm thông tấn xã Tass phải cải chánh mãi. Có phải Alexander D. đó không?”

“Đúng là tôi!”

Tôi chịu những lần có thêm một dân cũ nhập xà lim. Phải là dân cũ, những tay từng tù ngục quen, chớ chẳng phải một tay mơ vừa bị nắm cổ lần đầu, vô xà lim là rầu rĩ, xuống tinh thần chán chết! Chính tôi cũng còn khoái giây phút đầu tiên gia nhập xà lim mà. (Cũng may, nhờ Trời tôi không bị thêm lần nào nữa!) Miệng tươi cười, tay đưa lên chào chung: “À, anh em nhà cả!”

Lần này tôi cũng cười cởi mở và chào như thường lệ, quăng ba lô ra sàn và có lời thăm hỏi: “Thế nào, các anh em? Một năm nay mới trở lại, Byturki có gì thay đổi, có gì lạ?”

Thế là trò chuyện trao đổi. Có một tay xưng tên Suvorov, 58 tuổi. Nhìn qua thì gã có gì đặc biệt đâu? Để ý nhìn một hồi cũng vẫn không ra. Hắn nói từng nằm Krasnoyarsk, chung xà lim với Matkhotkin.

"Ủa, Matkhotkin! Phi công chuyên bay đường Bắc cực?"

"Đúng! Tên hắn được…"

"… được đặt cho một hòn đảo trong Vịnh Taimyr. Cũng bị điều 58, khoản 10 đấy. Sau bị đưa đi Dudinka."

"Đúng rồi! Sao anh bạn biết?"

Tuyệt quá! Vậy là lại biết thêm được ít chi tiết liên quan đến một nhân vật đặc biệt mà tôi chỉ nghe tên, chưa hề thấy mặt. Có lẽ không bao giờ! Nhưng cuộc đời của phi hành gia Matkhotkin thì tôi nghe kể đã nhiều. Bản án, đi đày của hắn là bản án một phần tư, tức ¼ thế kỷ, tức 25 năm, nhưng hòn đảo Matkhotkin chẳng thể vì vậy mà đổi tên được! Nó có trên bản đồ thế giới công nhận chớ đâu phải bản đồ của riêng quần đảo.

Dĩ nhiên bị đi đày Matkhotkin cũng được hưởng chế độ Sharashka và lãnh công tác chuyên môn ở Bolshino. Nhưng bị kẹt giữ một đám kỹ sư hàng không, lại không được phép bay thì phi hành gia Matkhotkin sung sướng sao được? Hắn được tách ra, gia nhập nhóm Taganrog và bị kiểm soát gắt gao. Ở Rybinsk, tôi nghe nói hắn cố xin phép được bay thám hiểm ở miền Bắc cực. Sau nghe nói hắn được phép bay. Dĩ nhiên tôi đâu cần biết tin tức Matkhotkin làm chi, nhưng nghe lời là nhớ hết! Mười hôm sau tình cờ đi tắm cùng ca với một gã tên R. nghe đâu nằm bệnh xá Byturki đã nửa năm và sửa soạn đi Rybinsk. Không quen biết R. nhưng tôi sẵn sàng kể chuyện nên chỉ 3 hôm sau anh em ở Rybinsk chắc chắn sẽ hay tin Matkhokin đi Dudinka cũng như tôi đã về nằm Byturki rồi. Ở một cấm địa như Rybinsk còn nghe tin tức ở đâu nếu không có hệ thống truyền tin đặc biệt giữa bọn Zek? Có người đi về, có người kể người nhớ là đi đày xa xôi tới đâu cũng biết hết tin tức.

Trong xà lim có một gã đẹp trai đeo kính gọng sừng và ưa đi quanh quẩn trong phòng nghêu ngao một bài ca Schbert bằng một giọng thổ dễ thương: “Và tuổi trẻ một lần nữa đè nặng lên tôi. Con đường đến huyệt còn xa biết mấy”. À, tôi nhớ ra rồi: gã đúng là Sergei Romanovich Tsaraphin!

"Này ông bạn, Ông bạn ở ngành Sinh vật học phải không? Ở Bá Linh, không chịu hồi hương chớ gì?"

"Ủa, sao biết?"

"Biết chứ! Trái đất này nhỏ quá mà! Năm 1946 tôi từng gặp Nikolai Vladimirovich Timofeyev Ressovsky…"

*


Trong phút chốc những gì đã xảy ra năm 1946 hiện rành rành trước mắt tôi. Cũng khám Bykurki. Xà lim Byturki tương đối đỡ khổ nhưng riêng xà lim 75 mà tôi bị tống vô năm đó quả là hách nhất trong cuộc đời tù tội của tôi. Lúc bây giờ là tháng 7, tôi được “triệu” từ Trại về theo lệnh của đồng chí Bộ trưởng Nội vụ. Đến Byturki vào buổi trưa, cũng qua ngần ấy thủ tục “nhập môn” nhưng 11 giờ sau mới hoàn tất chỉ vì tù quá đông. Tôi vô xà lim là, vừa đúng 3 giờ sáng.

Xà lim 75 có 2 vòm cao thì 2 ngọn đèn chiếu sáng quắc, người nằm xép lớp như cá mòi, mồ hôi nhễ nhại, hơi thở nặng nhọc vì hầm quá! Có hai cánh cửa sổ thì “đậy nút” kỹ cả hai, không khí không vào lọt nổi. Nóng quá, người nằm ngủ thiêm thiếp, nhưng đàn muỗi đói lại hoạt động hơn bao giờ hết: Tiếng muỗi bay vo ve nghe đến sợ! Nhiều người lấy khăn tay đắp kín mặt để trốn muỗi mà cũng để che bớt ánh sáng ngủ cho dễ. Có dễ đến 80 người căn phòng cổ lệ chỉ chứa 25 là tối đa.

Thảo nào hơi người hầm hập đến như vậy! Xà lim nóng bức cỡ này thì người cũng dám chín nhừ nói gì đến những thứ ăn có thể thiu thối được. Bằng cớ là từ phía trong góc kẹt hơi cầu tiêu – phân cộng nước tiểu cộng đủ thứ uế tạp – xông ra nồng nặc, gắt gao. Nhìn chung quanh chỗ nào cũng người nằm ngổn ngang: 12 giờ đồng hồ liền chưa được nghỉ ngơi tôi đã thấm mệt cùng cực mà chưa tìm thấy một chỗ trống khả dĩ ngã lưng đỡ được. Nhưng kinh nghiệm nằm xà lim quá nhiều, không lẽ tôi không thu xếp được một khoảng trống, để khỏi phải đứng sừng sững hay ngồi co ro đợi giờ điểm danh sáng.

May quá, có rồi! Xà lim Byturki nào chẳng có một cái bàn gỗ vừa dùng làm bàn vừa làm tủ đựng đồ? Nó nằm đây kia, ai đã di chuyển tuốt vo góc kẹt cầu tiêu. Dọn dẹp qua một chút, rồi đẩy nó qua một bên là tôi “xoay sở” được một diện tích vừa đủ ngả lưng! Dĩ nhiên nằm kế cầu tiêu chẳng thơm tho sạch sẽ gì nhưng trong phòng này mọi chỗ khác cũng chẳng hơn bao nhiêu. Chỉ phiền là nằm choán đường đi, ai muốn đi cầu là phải bước ngang người tôi. Khó chịu thực, nhưng giờ này bà con còn lo ngủ bằng chết!

Chợp mắt chưa được bao lâu đã nghe khẩu lệnh: “Hết giới nghiêm! Thức dậy hết.” Cả xà lim khởi sự đụng đậy, dọn dẹp. Chiếc bàn được đẩy trả về vị trí cũ là giữa hai cửa sổ.

Bà con lúc bấy giờ mới nhận diện “người mới”. Vài kẻ may mắn chạy tới thăm hỏi mà cũng để đánh giá tôi, dân mới hay Zek thâm niên. Chỉ trao đổi nhau vài ba câu chuyện là tôi đã phân tích xong: Xà lim này gồm 2 thành phần rõ! Một là đám dân mới đang chờ đợi đi trại Cải tạo lần thứ nhất. Hai là những tay Zek thâm niên đang luân lạc trong quần đảo được gọi về để chuẩn bị chia đi các trung tâm kỹ thuật để phục vụ nhà nước bằng khả năng chuyên môn. Lớp thứ hai rõ ràng toàn chuyên viên: Không Vật lý cũng Hoá học gia, không giáo sư Toán cũng kỹ sư hoạ kiểu, Biết vậy là tôi vững tinh thần chán! Ít nhất cũng không bị đồng chí Bộ trưởng kéo đầu về Byturki để dộng thêm bản án nữa.

Đúng lúc đó có một gã trung niên, vóc người to lớn nhưng gầy trơ xương, sống mũi cao bước lại gần tôi bắt chuyện. Hắn nghiêm nghị nói:

"Xin tự giới thiệu với ông bạn, Tôi là Giáo sư Timofeyev Ressovsky, đương kim Chủ tịch Hiệp hội Khoa học và Kỹ thuật của Xà lim 75 này. Hiệp hội chúng tôi theo thông lệ sáng sáng sinh hoạt nội bộ sau cử phát bánh, địa điểm là dưới chỗ cánh cửa sổ. Ông bạn có đề tài hay ho gì thuyết trình xin cứ việc tự tiện. Có thể cho biết qua chủ đề chăng?"

Vẻ mặt, cung cách của Timofeyev Ressovsky cũng như danh xưng của Hiệp hội “đặc biệt” làm tôi chới với. Vả lại giữa lúc nóng bức thế này tôi lại kềnh càng “đóng” nguyên bộ đồ Bắc cực thì không lúng túng sao được? Mấy ngón tay tôi còn co quắp vì lạnh, bàn tay còn nứt nẻ nhiều chỗ mà.

Ra mấy chữ Vật lý nguyên tử mà tôi quẹt bậy vô ô trống “Nghề nghiệp, chuyên môn” trên tấm thẻ kiểm tra hồi đó không ngờ có ép phê thế đấy! Chỉ vì nó hay nhờ có nó mà tôi có mặt được ở xà lim 75 này, với danh nghĩa ghê gớm của một , nhà bác học nguyên tử!

Thôi thì đã lỡ “đi lạc” vào lãnh vực khoa học nguyên tử tôi đành phải sắm vai trò, bác học Vật lý chớ sao? Nếu Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật xà lim 75 đã hạ cối mời đăng đàn thuyết trình một đề tài nằm trong phạm vi chuyên môn của mình là Vật lý nguyên tử thì tôi đành thuyết trình chớ sao? Nhưng tôi sẽ thuyết cái gì? Chủ đề nào?

Lúng túng một lúc cũng phải có chủ đề thiệt. Chẳng là mới đây hồi còn nằm Trại, tình cờ tôi vớ được một tập sách nho nhỏ không hiểu từ đâu lọt vô. Tôi giữ lấy đọc trong hai đêm liền Bản Phúc trình Smyth, tài liệu chính thức của Bộ Quốc phòng Mỹ, phổ biến về trái bom nguyên tử đầu tiên. Hình như tập tài liệu mới được công bố vào mùa Xuân 1946. Đối với các hội viên của Hiệp hội thì đây nhất định phải là một đề tài mới, chưa ai được coi. Mang ra làm chủ đề thuyết trình để ra mắt anh em thì tuyệt vời!

Quả nhiên về sau cử phát bánh mì sáng hôm đó, toàn thể hội viên (cỡ 10 mạng chứ mấy) hân hoan nhóm họp ở dưới khung cửa sổ bên trái xà lim 75 để nghe tôi “thuyết” chủ đề nòng cốt: Về trái bom A thứ nhất. Khỏi nói là tôi được chấp nhận làm hội viên thực thụ tức thì! Phúc trình Smyth dù sao tôi cũng còn nhớ và lỡ có quên ít chi tiết và chỉ hiểu lõm bõm một số chi tiết khác cũng chẳng sao. Đã có “đồng nghiệp” Timofeyev Ressovsky – nhân danh Chủ tịch Hiệp hội – đứng bên sẵn sàng bổ túc. Cũng nên ghi nhận là ông Chủ tịch đã nằm khám một năm và hoàn toàn mù tịt về bom nguyên tử. Vả lại tôi còn một vỏ bao thuốc lá và giấu được một mẩu viết chì. Tôi cứ việc thuyết, “đồng nghiệp” Nikolai Vladimirovich sẵn sàng dùng chúng thay bảng để rẽ ra 5, 7 cái đồ hình đồ biểu, để nối lời tôi giải thích tận đường những chi tiết kỹ thuật cần bổ túc. Phải nói là Nicolai đã trình bày và thuyết minh cụ thể và rành rẽ với một niềm tự tin, như chính hắn là một trong nhóm bác học Vật lý đã đẻ ra trái bom Alamos vậy!

*


“Chủ tịch” Timofeyev Ressovsky là một mẫu người đặc biệt. Ngành chuyên môn của hắn là Sinh vật học và có thể coi như một trong những chuyên viên về truyền giống cừ nhất thế giới (ngay khi Timofeyev bị nhà nước Xô Viết cầm tù rồi, đồng nghiệp Zhebrak còn dám viết trên một tờ báo Gia Nã Đại, đặt Timofeyev lên trên bác học số 1 Lysenko. Vì cho rằng “Timofeyev mới đích thực nhà sinh vật học lớn nhất Nga Xô Viết, không phải Lysenko” nên năm 1948 chính Zhebrak cũng bị thanh trừng. Ngoài ra, nhiều sách giáo khoa Nga cũng ghi danh Timofeyev như một nhà Sinh vật học lớn của thời đại).

Gặp Timofeyev Ressovsky, tôi có cảm tưởng cả con người hắn ta là tổng hợp của mọi thứ khoa học, quan điểm khoa học của hắn ôm đồm quá nhiều bộ môn chớ không chuyên biệt như các thế hệ khoa học gia sau này.

Sự hăng say hiểu biết khoa học của Timofeyev dễ nể ở chỗ hắn vẫn ham hoạt động, sau một thời gian điều tra dài bị bỏ đói bỏ khát! Xét về gốc gác thì phía ngoại Timofeyev thuộc dòng giống đang suy tàn Kaluga ở vùng đồng bằng sông Ressa, phía nội là hậu duệ của Stepan Razin với dòng máu chắc nịch. Càng cứng đầu thì Timofeyev càng bị điều tra viên nặng tay, do đó hắn “lãnh đủ” hơn chúng tôi nhiều.

Cuộc đời Timofeyev Ressovsky có thể gọi là lên hương kể từ 1922 khi nhà bác học Vogt gốc Đức (sáng lập viên Viện Não học Mạc Tư Khoa) yêu cầu chính quyền Xô Viết cử hai khoa học gia trẻ, lỗi lạc sang Đức để học tập dưới sự hướng dẫn của ông ta: Timofeyev đã được chọn cùng Tsarapkin. Hai mầm non bác học Nga được cử sang Bá Linh tu nghiệp, thời hạn công tác không hạn định.

Do đó, sau khi tạo nhiều công trình khoa học đáng kể dưới sự hướng dẫn của Vogt, cả Timofeyev lẫn Tsarapkin đều không chịu về nước khi bị chính phủ Xô Viết triệu hồi năm 1937.

Cả hai cùng gạt bỏ vấn đề chính trị và nhấn mạnh vì tinh thần phục vụ khoa học, họ không thể hồi hương để bỏ dở một công trình khảo cứu dài hạn theo đuổi từ 15 năm cũng như bỏ rơi đám hậu sinh đang được họ hướng dẫn trực tiếp. Dù không nói ra nhưng ai cũng hiểu là không chịu để nhà nước lợi dụng danh nghĩa bác học vào công tác tuyên truyền trên đầu hai người từ đó, dù họ ở lại Bá Linh chỉ để phục vụ khoa học thuần túy và vẫn tự coi như công dân Nga thành tâm yên nước.

Năm 1945 Hồng quân tiến chiếm vùng Buch (ngoại ô Đông Bắc Bá Linh) nơi Timofeyev Ressovsky có một cơ sở thí nghiệm Sinh vật học đồ sộ. Chính hắn ta đã đưa cả Viện ra đón mừng hoan hô đoàn quân giải phóng tiếp xúc tốt đẹp cũng như được hứa hẹn Viện sẽ được duy trì, vẫn đặt dưới quyền của Timofeyev Ressovsky.

Bỗng một hôm có phái đoàn thanh tra Xô Viết ghé thăm và ra lệnh: “Cơ sở này phải gỡ rra, đóng thùng gởi về Mạc Tư Khoa!”. Ngạc nhiên quá, Timofeyev cực lực phản động: “Đâu được. Đây là một Viện Thí nghiệm Sinh vật học, phải bao nhiêu năm mới dựng lên nổi. Sinh vật di chuyển sao được?”. Phái đoàn làm bộ ngạc nhiên: “Ủa, không được hả?”. Ngay sau đó Timofeyev và Tsarapkin bị bắt và dẫn giải về Mạc Tư Khoa. Cả hai cùng ngây thơ, cứ tưởng không có họ Viện Nghiên cứu Thí nghiệm Sinh vật chắc chắn không hoạt động được. Viện không hoạt động thì Viện đóng cửa, Đảng và nhà nước không quan tâm. Nằm trong Lubyanka hai nhà bác học lãnh 10 năm tù và riêng ông Chủ tịch Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật nằm Byturki vẫn vững tin không làm gì sai lầm.

Riêng phần tôi dù nằm chung xà lim 75 vẫn lấy làm sung sướng. Như nhà hiền triết Epicurus từng nói, ai từng trải qua một loạt những bất mãn trong đời thì có sống vô vị cũng tự lấy làm thoả nguyện chán. Ở trại tưởng như vĩnh viễn, ngày ngày cong lưng lao động 10 giờ đồng hồ dầm mưa dãi nắng và đói lạnh thì còn gì hạnh phúc bằng nằm duỗi dài ngủ cho hết ngày, khỏi phải làm mà ngày ngày 500 gam bánh mì 2 dĩa súp nóng khi lòng trâu lòng bò khi thì thịt cá voi!

Nằm ngủ thì xà lim đông nghẹt, còn chỗ nào khá hơn gầm sàn? Chỗ này quá thấp, có ai nghĩ tới ngủ chui ngủ rúc thế này? Muốn vô dĩ nhiên phải chui luồn thảy cái áo vô nhờ đứa nằm trước trải ra giùm rồi nằm sấp từ ngoài trườn mình vô! Nền xà lim tráng hắc ín dơ dáy, gầm sàn một tháng quét một lần chứa biết bao nhiêu bụi bậm rác rưởi, vụn bánh, thức ăn từ sàn trên rớt xuống. Như vậy một ngày chỉ được đi rửa chân tay đúng một lần, không có xà bông!

Ngủ chui rúc, khốn khổ như vậy vẫn còn sướng. Miễn cứ úp mặt xuống, ngủ được lúc nào là đỡ phải hành hạ con tim lúc ấy, ngày tháng rồi cũng qua mau. Ngoài đời hoạt động liên miên thì ngủ 8 giờ một ngày cũng phí thì giờ nhưng trong xà lim còn thiếu thốn trăm bề, tuyệt vô hy vọng thì ước gì ngủ nổi 14 tiếng!

Nằm xà lim 2 tháng tôi ngủ liên miên, ngủ bù lại hai năm trời thiếu ngủ. Đổi chỗ liên tiếp, từ gầm sàn lên sàn trên gần cửa sổ, từ sàn xuống nền nhà, Tôi còn ngủ nữa nếu không tham gia sinh hoạt với các anh em. Buổi sáng họp Hiệp hội, chơi cờ, đọc sách, những cuốn sách truyền tay nhau đọc, chẳng bao giờ ế khách. Còn giờ đi dạo ngoài trời, một ngày 20 phút chớ đâu phải ít, mưa to gió lớn cũng đi.

Sung sướng nhất là những buổi trò chuyện với anh em. Có Andreyevich Semyonov, một trong những cha đẻ của đập nước và nhà máy thủy điện Dnieper, kỹ sư Karpov cựu tù binh, Có Viktor Kangan, nhà Vật lý học khôn ngoan, có Voloda Klempner nhạc sĩ, Có gã tiều phu và thợ săn ở Vyatka, thâm trầm như mặt hồ. Có giáo sĩ Yevgeny Ivanovich Divnich phái Chính thống, không lo giảng đạo mà động nói là vác biện chứng ra hạ hắn tơi bời nhưng một năm tù đã mở mắt tôi nhiều thứ, hết dám mạnh miệng nói bướng, cái gì cũng: “Nói láo! Tư bản bịa đặt trắng trợn!”. Bây giờ chỉ vì thấy nhiều nên lập trường của tôi đâm yếu hẳn lúc nào không hay.

Xà lim còn nhiều bạn bè nữa chớ? Năm ấy mới là năm thứ hai, các đợt tù binh từ Âu Châu hồi hương tiếp tục vô khám, cùng các kiều bào hải ngoại từ Âu Châu về, từ Mãn châu sang. Nhờ bọn họ mới biết tình hình bên ngoài, tin tức những người quen biết. Do đó tôi mới hay tin Đại tá Yasevich đã bị xử bắn.

Chao ôi, thế giới nhỏ hẹp, quanh đi quẩn lại tôi lại gặp ông già Đức ngày nào mà tôi nhất định bắt vác va-li. Hồi đó ông ta bệ vệ lịch sự biết mấy, giờ đây ốm đau coi như xác chết. Thấy tôi làm gì ông ta chẳng nhận ra? Ông ngó tôi cười coi bộ thú vị: “Không ngờ ta lại gặp nhau đây!”. Dĩ nhiên không chấp trách cái vụ bắt làm phu khuân vác ở mặt trận Đông Phổ. Ông ta lãnh án 10 năm song chắc chẳng sống nổi hết án. Ngoài ông ta, xà lim 75 cũng còn một dân Đức còn trẻ, lớn con, suốt ngày lì lì (hắn có biết một tiếng Nga nào đâu). Khốn nạn, trên người hắn có còn một cái gì là Đức? Bao nhiêu thứ không dính vào người thì bọn kên kên đã lột bằng hết, chỉ vứt lại cho bộ quần áo trận hạng bét. Hỏi ra hắn là một phi công lỗi lạc của Đức, từng tham chiến quá nhiều. Lần thứ nhất xung phong vào trận chiến giữa Bolivia và Paraquay, lần thứ hai đánh Tây Ban Nha, lần thứ ba đánh Balan, lần thứ tu đánh Ăng-lê, lần thứ năm sang Cyprus và lần thứ sáu chống Nga. Là phi công ưu tú của Đức thì đương nhiên hắn không chừa bắn phá, sát hại cả đàn bà con nít do đó phải là “phạm nhân trước chiến tranh”, lãnh án đi đày cộng thêm năm an trí.

Trong xà lim cũng phải có tay dù tù tội vẫn trung kiên với nhà nước (như ông Công tố Kretov) để lớn họng chửi:

"Bọn chó chết phản cách mạng tụi bây phải nắm đầu bằng hết là đúng quá còn gì? Thân xác tụi bây lịch sử sẽ nghiền nát làm phân bón!"

Ức quá nhiều thằng nạt lại:

"Còn mày nữa, chính thân xác mày cũng đến phân bón chớ hơn chó gì."

“Tao khác. Tao đâu có phản cách mạng. Tao oan, nhà nước chắc chắn-sẽ xét lại…"

Thế là cả xà lim ồ lên một loạt chửi rủa để một gã tóc muối tiêu vốn là giáo sư Nga ngữ được dịp đứng phắt trên bục, xoạc chân giang tay ra làm như Đấng Christ: “Này, các con cái của ta, hãy thương yêu, hoà thuận cùng nhau, các con!”

Đấng “Cứu thế” vừa rao giảng là cả xà lim lại quay sang phía hắn ó ré om sòm. Một thằng hét lớn:

"Con cái mày ở rừng Bryansk kìa! Tụi tao cóc con cái thằng nào hết. Tụi tao là con cái quần đảo!"

Hết cơm chiều là giờ cho ra ngoài làm vệ sinh rồi bóng đêm xuống ngoài khung cửa sổ hũ nút, mấy bóng điện trơ trụi trên trần nhà bật sáng. Xà lim có lệ ngày gây gổ, cãi nhau chán, nhưng đêm về lại thân thiết như không có gì xảy ra! Từ chiều tối trở đi là hết gây lộn, tranh luận om sòm. Không trình diễn ca nhạc giúp vui thì kể chuyện đời cho nhau nghe. Chuyện nước ngoài là đề tài anh em hoan nghênh nhất va cũng là sở trường của Timofeyev Ressovsky: Hắn kể hết tối này sang tối khác về các nước Ý, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển. Bà con ở hải ngoại về thì kể chuyện nước Pháp, các xứ Balkoas, hết chuyện kiến trúc sư đại tài Le Corbusier đến chuyện tổ chức xã hội của loài ong, hay Gogol và tác phẩm.

Buổi tối là lúc tiêu thụ nhiều thuốc lá nhất. Chỗ nào cũng có khói, khói bốc nghi ngút che kín như lớp sương mù. Khói phát sặc sụa vì không có lối thoát: Có hai cánh cửa sổ thì “đậy nút” kín cả hai còn gì?

Lúc bấy giờ mới đến mục Thơ: Kostya, Kiula, một gã bằng tuổi tôi, mặt tròn cặp mắt xanh biếc hăng hái “đăng đàn” bằng cách nhảy lên trên bàn ngâm nga những bài thơ hắn vừa sáng tác trong tù. [2] Giọng ngâm thơ của Kostya xúc động làm sao! Những bài thơ mang tựa đề Giỏ thăm nuôi đầu tiên, Bài thơ gửi vợ, Thơ cho con. Những bài thơ làm trong tù, đọc trong xà lim cho anh em nghe và do chính tác giả trình bày thì còn ai để ý nghe giọng ngâm của hắn cao hay thấp, thơ sai luật hay thất vận. Những bài thơ mang dòng máu của mọi con tim chất chứa nước mắt của những người vợ, nên nghe Kostya ngâm thơ cả xà lim khóc rưng rưng.

Dĩ nhiên nằm xà lim 75 tôi cũng sáng tác ít bài thơ tù, cũng ngâm lớn những vần thơ Yesenin, những vần thơ không được chấp nhận nhưng chưa đến nỗi bị cấm phổ biến thời tiền chiến. Làm sao tôi quên nổi ánh mắt ngưỡng mộ, gần như ngơ ngẩn thất thần của chú Bubnov ngước lên, đeo dính từng vần. Bubnov cũng là tù binh Đức hồi hương sau khi bỏ học xung phong làm nghĩa vụ quân sự. Chao ôi, tuổi hắn còn quá trẻ lại không có ngành chuyên môn, đang nằm đây để chờ ngày đi nếm mùi trại Cải tạo thì chắc chắn sẽ bỏ thây ở quần đảo! Quần đảo đâu phải đất sống của tuổi trẻ hồn nhiên, trong sạch. Tôi nhìn Bubnov từ khuôn mặt, từ ánh mắt và không khỏi có cảm tưởng lớp tuổi này đang sa dần vào cõi chết vô phương cứu gỡ. Với bọn họ, xà lim 75 bất quá chỉ là một trạm dọc đường, một chỗ trú chân tạm để có dịp mở mắt nhìn đời, nhìn vào cả một thế giới đẹp xưa nay chưa hề thấy. Một niềm vui ngắn ngủi, dở dang vừa chớm biết là bước dần vào cõi chết.

Khuya dần, cánh cửa nhỏ bật mở để ông giám thị chõ miệng vô hét: “Giờ ngủ”. Chao ôi, chính tôi cũng chưa bao giờ được sống những ngày trọn vẹn có ý nghĩa, những ngày chứa chan tình cảm như những ngày sống chung với anh em trong xà lim 75 mùa hè năm ấy! Kể cả những ngày trước chiến tranh và còn tự do, ngày ngày còn cắp sách đi đến hai trường Đại học vừa dạy học tư gia để kiếm sống và đêm về còn mài miệt viết không biết mỏi.

*


Còn Tsarapkin thì tình cờ tôi đã được nghe tin hắn qua một nhân vật đặc biệt, một chú bé vừa vặn 16 tuổi đầu mà mang bản án 5 năm, về tội “tuyên truyền chống nhà nước”. Tôi vừa nhắc nhẹ đến tên Deul thì Tsarapkin vội vã hỏi:

"Ủa, anh bạn cũng biết chú Deul? Nó cùng chuyến xe với tụi tôi, đi đày Karaganda.”

“Tôi còn nghe anh bạn được đề bạt công tác đặc biệt, phụ tá chuyên viên phòng thí nghiệm, phải không? Còn Timofeyev Ressovsky thì cứ bị đi công tác không chuyên môn hoài hoài.”

“Đúng thế! Chỉ vì vậy mà kiệt sức, đuối dần. Bữa lên xe Stolypin đưa về Byturki này thì Timofeyev chỉ còn là một cái xác không hồn. Được gởi vô bệnh viện tức thời và được Đặc ban số 4 chiếu cố, săn sóc kỹ lắm. [3] Thực đơn bổ béo, có cả kem tươi và rượu chát kia mà. Nhưng theo ý tôi có chăm sóc đến mấy chưa chắc hắn đã đứng dậy nổi!”

“Dĩ nhiên Đặc ban 4 cũng phải vời tới anh bạn chớ?”

“Đúng vậy. Sau 6 tháng nằm Karaganda, đặc ban có cho gọi tụi tôi lên để hỏi ý kiến liệu có thể khởi sự dựng lại Viện Khảo cứu Sinh vật học trên quê cha đất tổ.”

“Vậy thì anh bạn đồng ý là cái chắc?”

“Còn hỏi! Đã đến lúc tụi tôi nhận ra mình tinh lầm hồi đó. Vả lại họ đã tháo gỡ trọn cơ sở của Viện, đóng thùng gởi về đây không thiếu một món, khỏi cần đến tụi tôi.”

“Ra MVD cũng phục vụ khoa học ghê gớm nhỉ! Nhưng bỏ chuyện đó đi. Bây giờ anh bạn cho nghe tiếp Schubert đi…”

Không cần đợi tôi giục đến lượt thứ hai, Tsarapkin nhẹ nhàng cất tiếng ca một khúc của Schubert, bằng tiếng Đức. Vừa hát hắn vừa rầu rĩ ngước nhìn khung cửa sổ. Thấp thoáng phản chiếu trên cặp mắt kín của hắn là hình ảnh đặc biệt của khuôn cửa sổ Byturki: Phía dưới “đóng nút” bít bùng, phía trên trống trải.

*


Văn hào Tolstoi cho rằng chớ nên bắt tù đi lễ nhà thờ. Mấy thánh đường trong nhà giam nhỏ hẹp bỏ hết càng dư chỗ nhốt thêm ít tù. Chỉ việc cải sửa lại một chút cho thích hợp với công việc mới là xong! Riêng khám Byturki dẹp nhà thờ là có chỗ giam 2 ngàn tù. Tính trung bình một mạng vô nằm lại hai tuần lẽ thì một năm ít nhất cũng có tới 50 ngàn người vô xà lim mới, gốc nhà thờ cũ.

Vì vô Byturki 4, 5 lần quá quen rồi, biết nằm xà lim nào là tôi khỏi chần chờ, đi phăng tới, đi nhanh hơn ông giám thị, khỏi cần đợi tù thúc hối.

Tôi rảo bước về xà lim như một con ngựa đánh hơi ra ruộng lúa, khỏi cần đợi roi vụt, nhiều khi không buồn nhìn cả ngôi thánh đường vuông vắn sừng sững phía trên là toà lầu bát giác. Nó khác các khu Byturki ở chỗ cửa sổ không có “nút đậy” bít bùng mà chỉ đóng ván sơ sài, tạm bợ để khám tạm nhốt tù vừa thành án. Năm 1945 tôi đã được dịp nằm xà lim lầu 2 thánh đường cũ, sau khi Hội đồng An ninh tuyên án. Trên lầu bát giác xà lim tụi tôi chiếm trọn góc Đông Nam.

Vì là khám tạm nên ở khu thánh đường mọi tiện nghi đều thua sút: Chúng tôi chỉ là con nuôi chớ chẳng phải con đẻ Byturki! Hai trăm người chen chúc nhau, không phương tiện giải trí (sách, bàn cờ) ngay mấy cái chén, muỗng sứt mẻ, nham nhở cũng thâu lại sau bữa ăn. Lỡ kêu tên ra xe đi đày không trả lại nhà tù thì sao? Kẹt nhất là thời gian thành án chuẩn bị đi đày gia đình lại hay cố gắng lần chót để gởi vô giỏ đồ thăm nuôi, phần nhiều là thực phẩm dự trữ được như mật ong, đường, sữa, thịt sấy. Không chén muỗng, bình đựng, ca nước thì lấy gì đựng đồ? Chỉ được phép gởi những món đồ bằng nhựa dẻo nhưng nhà tù không chỉ dẫn, gia đình không biết, bao nhiêu món đồ nhôm, sứ, thủy tinh đều bị trả lại hết. Trong khi đó người nằm xà lim tha hồ rên than: Bao nhiêu món ăn quý đáng lẽ để dành ăn dần được phải ngấu nghiến nuốt hết, nếu không bốc được bằng tay, túm vào mùi xoa, vạt áo hay dựng trong lòng nón! Giữa thủ đô Mạc Tư Khoa mà phải trữ thức ăn ban khai như vậy đã đau lòng. Các thầy chú giám thị còn hối thúc trút đồ như điên, làm như sợ trễ giờ xe! Có vậy họ mới bỏ liếm láp chỗ bắt buộc phải để dư lại chớ.

Nằm xà lim thánh đường cái gì cũng có tính cách tạm thời, vì thực tế đây chỉ là một trạm dừng của những món hàng được gởi đi quần đảo. Chừng Krasnaya Presnya có chỗ trống là hàng háo sẽ được đưa đi tức thời. Tuy nhiên các con nuôi Byturki lại hơn con đẻ ở một “ưu đãi” duy nhất: Mỗi ngày có quyền thưởng thức ba tua cháo nóng, trà nóng, dù phải cử người đích thân xuống nhà bếp! Chẳng là các khu khác đều có thang máy, riêng khu Thánh đường 3 tầng lầu leo thang muốn đứt hơi cho nên các thầy chú dành cho tù quyền lo liệu lấy. Khiêng những vò lớn, nặng từ nhà bếp qua một cái sân rộng, leo 3 tầng lầu xét ra chẳng phải công tác nhẹ nhàng nhưng anh em nằm xà lim Thánh đường chẳng nề hà bao giờ, dù hầu hết đều yếu đau, mất sức. Vừa có đồ ăn nón vừa có dịp đi ra ngoài trời nghênh nóng cho đỡ buồn.

Ngoài tính cách tạm bợ, xà lim thánh đường Byturki còn có tác dụng chuẩn bị tù vừa thành án, sửa soạn họ cho thích ưng với môi trường mới là khám tạm dọc đường và trại Cải tạo sau này. Nằm đây tù có dịp tự điều chỉnh con người để nhận ra rằng bản án vừa giáng xuống là bản án thật, chẳng trò chơi chút nào, và thân phận thằng tù nó đau khổ, nhục nhã cũng đành phải chấp nhận. Trong cuộc đời tù tội muốn đạt tới mức đó chẳng phải dễ!

Đời sống tạm bợ ở đây còn nổi bật ở những di chuyển thường trực, tù đến tù đi hoài hoài bất kể ngày đêm, gần như lúc nào cũng có người đi lại ngoài hành lang và ở lối đi trong xà lim. Kết quả là luôn luôn có những mặt mới. Ở xà lim điều tra, tù giam gần nhau lâu ngày hoá quen thuộc, thân thiết như gia đình nhưng ở khu Thánh đường ít ai nằm cạnh ai đến quá 3 ngày. Tình cờ gặp một nhân vật là phải săn đón, hỏi chuyện ngay. Chần chờ là nhiều khi không bao giờ còn cơ hội gặp gỡ nữa.

Tôi đã bỏ lỡ dịp tìm hiểu một nhân vật đặc biệt là thợ máy xe hơi Melvedev. Vừa gặp hắn tôi đã nhớ ngay ra vụ Hoàng đế Mikhail! Hắn cũng bị kẹt vì tòng phạm, một trong những người đầu tiên được nghe đọc bản “Tuyên cáo” của Hoàng đế mà không đi tố cáo. Tuy nhiên Melvedev chỉ bị một bản án nhẹ hều là 3 năm. Bản án quá nhẹ vì đụng điều 58 Hình Luật mà lại bị 5 năm còn kể như bản án con nít mà? Có lẽ nhà nước nhận thấy Hoàng đế Mikhail bất quá chỉ là một thằng điên nên mấy gã tòng phạm chỉ bị “giơ cao đánh khẽ” bề nào cũng thành phần lao động! Chưa kịp hỏi thêm Melvedev thì hắn đã bị kêu xách đồ đi. Trường hợp hắn có lẽ được trả lại tự do cũng nên vì năm ấy có tin Stalin xuống lệnh ân xá.

Nằm cạnh tôi có ông già Schutzbunder người Áo bị kêu đi lẹ. Khốn nạn, dưới chế độ vô sản Xô Viết thì dân Áo lạc hậu đã có giá sẵn. Tối thiểu là 10 năm lao động cải tạo mà hầu hét chưa ở hết án đã bỏ thây trong quần đảo.

Sau đó có một gã trẻ tuổi tóc đen láng, mắt lớn hiền dịu như mắt đàn bà, nhưng phải cái mũi quá lớn làm khuôn mặt mất cân xứng, trông như hình diễu vậy! Ngày đầu tiên gã nằm suốt ngày cạnh tôi, không hé răng. Ngày thứ hai mới xích lại gần để trút bầu tâm sự. Gã thủ thỉ: “Anh bạn thử đoán tôi là người nước nào?”. Tiếng Nga gã nói làu làu nhưng nghe kỹ mới biết có đá chút giọng ngoại quốc. Vậy chắc hẳn gã ở miền sơn cước hay dân Armenia? Gã cười bảo:

“Anh bạn thấy chưa? Tôi giả làm dân miền Nam nước Nga thì ăn chắc! Chẳng ai ngờ thằng Yasha này. Tôi đi thâu nguyệt liễm cho Nghiệp đoàn và thấy mặt tôi là thiên hạ cười bò ra hết.”

Đúng vậy, tôi ngó lại và thấy gã đúng là một thằng hề, trời sinh ra để làm hề! Người lùn một mẩu, cái mũi khổng lồ làm lệch cả mặt và miệng lúc nào cũng cười toe toét. Lúc ấy gã đột nhiên không cười nữa. Khuôn mặt đanh hẳn lại, cặp mắt nheo lại, gã ngó đăm đăm làm tôi giật bắn mình. Gã gằn giọng:

“Anh bạn biết không? Tôi người Lỗ. Tôi là sĩ quan Quân báo Bộ Tổng Tham mưu, Trung úy Vladimirescu!”

Chà, vụ này kỳ quặc! Thứ gián điệp giả hay bị kết tội làm gián điệp thì tôi đã gặp cả trăm, nhưng thứ thiệt thì chưa bao giờ. Gián điệp thứ thiệt đâu phải dễ. Có dễ gì gặp được.

Nhưng Vladimirescu không những là gián điệp thứ thiệt mà còn được đào tạo để làm gián điệp, vô trường hẳn hoi từ năm lên 6 tuổi! Gia đình gã gốc quý phái, từ năm lên 3 đã quyết định chọn cho con binh nghiệp kia mà? Ở trường gián điệp trực thuộc Bổng Tham mưu Lỗ, Vladimirescu đã chọn địa bàn hoạt động sở trường là Liên Xô, một “đất làm ăn” vô cùng khó khăn vì phản gián đặt tai mặt khắp chỗ, hoạt động gắt gao và không người nào tin người nào cả!

Vì được đào luyện đặc biệt nhằm đối tượng Liên Xô xương xẩu nên gã đã hoạt động đắc lực ở Nikolayev nhiều năm trước chiến tranh và trong những công tác đạt được có thể kể vụ sắp đặt cho quân Lỗ tiến chiếm nguyên vẹn một xưởng đóng tàu. Sau đó Vladimirescu hết công tác ở Stalingrad đến Urals và dưới lốt đại diện Nghiệp đoàn gã đi thâu nguyệt liễm, ra vô tự do nhiều công xưởng và thực hiện nhiều cú táo bạo. Gã lấy làm hãnh diện về một cú lớn ở hậu cứ Liên Xô do sự điều động của một sĩ quan Quân đội báo Đức chịu trách nhiệm vùng Mạc Tư Khoa. Thông thường gián điệp hoạt động ở hậu tuyến địch ngoài phần “nghề nghiệp phổ thông” còn phải được huấn luyện chu đáo một ngành phá hoại đặc biệt. Vladimirescu chọn ngành phá hoại dù, nghĩa là chuyên môn cắt đứt phần nào dây bên trong của một chiếc dù. Gã được gởi đến Podolsk, nơi đây gián điệp Đức đã có tay trong làm đốc canh, hướng dẫn gã vào một kho chứa dù lớn, đã xếp và kiểm soát rồi.

Vladimirescu đã lọt được vào kho dù Podolsk 8 giờ đồng hồ liền. Gã bắc thang trèo lên những đống dù sắp ngay hàng, giở ra từng chiếc nhưng không làm mất dấu để mở phía trong, dùng một thứ kéo đặc biệt cắt đứt 4 phần 5 sợi dây chính. Vì được chừa lại 1/5 nên dù cũng mở như thường, nhưng sẽ đứt ở lưng chừng. Gã đã ôm ấp công tác lớn từ bao lâu nên trong 8 giờ đã thanh toán được không dưới 2.000 chiếc dù. (Mắt gã sáng lên: “Một mình tôi từng tiêu diệt gọn một Sư đoàn Dù, nghe cha.”)

Theo lời gã thì sa vào tay An ninh Xô Viết nằm Byturki 8 tháng Vladimirescu nhất định không chịu cung khai. Hỏi gã có bị tra tấn không thì gã lắc đầu: “Đời nào!”. (Thì ra chỉ đồng bào mới bị tra tấn! Đập chết đồng bào để cho bọn ngoại quốc ngán luôn, chớ gián điệp ngoại quốc bắt được là cả một kho vàng. Còn dùng để trao đổi “tù binh” được mà.)

Sau đó để thuyết phục Vladimirescu, Sở Phản gián Xô Viết đưa cho coi tờ báo đăng tin Lỗ đã đầu hàng. “Biết gì khai đi, còn giữ bí mật tổ chức làm gì?”. Gã nín thinh. Thời buổi này làm giả một tờ báo để đánh lừa đâu có khó? Gã vẫn không chịu công khai, dù được dí tận mắt bản nhật lệnh của Bộ Tổng tham mưu Lỗ, chiếu văn kiện đầu hàng ra lệnh cho các sĩ quan an ninh, các gián điệp phải chấm dứt hoạt động và đầu hàng. Nhật lệnh cũng có thể ngụy tạo lắm chớ. Vladimirescu chỉ chịu cung khai hết khi được đem đối chứng với cấp trên trực tiếp của gã ở Bộ Tổng Tham mưu Lỗ. Lúc bấy giờ có lệnh trực tiếp, gã mới làm tờ khai công tác đầy đủ, không giấu giếm bất cứ một chi tiết nào.

Do đó gã kể như chấm dứt sứ mạng chỉ còn nằm chờ ngày xử án và chẳng ngần ngại cho cả tôi biết phần nào sự thực.

“Nhưng tôi chẳng bị ra Toà xét xử, chẳng thấy tuyên án gì hết! Nghề gián điệp là thế. Có chuyên môn thì còn sử dụng được.”

“Anh bạn còn tính hành nghề nữa?”

“Chớ sao? Gián điệp thì đến chết cũng vẫn là gián điệp.”

“Nhưng anh bạn quên là đã tiết lộ công tác với tôi, anh bạn cháy rồi mà? Mình có thể còn gặp gỡ sau này.”

“Ở đây là khác! Còn sau này, ở ngoài đời, giả thử tụi mình gặp nhau anh bạn không nhận ra tôi thì còn sống. Nhận ra là bắt buộc tôi phải thủ tiêu anh bạn gấp, hoặc kiềm chế buộc phải đi với tụi tôi."

Tôi ngó qua gã. Vladimirescu thản nhiên như không có chuyện, không muốn làm mất lòng thằng bạn đồng xà lim là tôi, dù phải khẳng định: “Tôi bắt buộc phải thủ tiêu anh bạn gấp!”. Nét mặt gã trơ trơ, tuyệt nhiên không xúc động hay lên mặt. Gã chấp nhận vụ thủ tiêu một cách giản dị, coi chuyện ắt phải xảy ra, không cần thắc mắc. Tôi chắc chắn gã thủ tiêu tôi dễ như chơi, hắn bỏ hay cắt cổ người thực sự chẳng phải vấn đề với gã.

Týp người đặc biệt Vladimirescu đâu có phải dễ gặp. Tôi nhớ trong 11 năm tù đày chỉ được biết một mình gã là trường hợp duy nhất một gián điệp phe địch sa cơ. Đâu phải Cơ quan của ta đã vồ được thiếu gì gián điệp nhà nghề, cho đi tù vô khối như báo chí vẫn nhồi sọ lớp trẻ? Sự thực não nề là chỉ cần đưa mắt nhìn quanh xà lim Thánh đường Byturki cũng thấy rõ là ngược lại, đám thanh thiếu niên mới thực sự là “hàng hoá” chính của Cơ quan! Chiến tranh chấm dứt rồi, đâu cần đến chiến sĩ nữa. Nhà nước tha hồ quơ vô bất chiến sĩ thằng nào! Nghe nói khoảng 1944-1945 trong xà lim Lubyanka nằm lểu nghểu đảng viên “Đảng Dân chủ”, một đảng có quy chế đàng hoàng mà riêng đảng viên có chứng minh thư bị bắt hồi đó cũng tới 50 mạng. Lớn tuổi nhất nghe đâu là gã “Tổng thư ký” lúc bấy giờ mới học lớp 10 một trường Trung học Mạc Tư Khoa.

Năm 1945 thành phần sinh viên nằm khám khá người nhiều, ai để ý làm chi? Riêng tôi gặp hoài lớp người trẻ tuổi, dù chính tôi cũng chẳng già gì! Sự đó làm tôi ngao ngán! Thằng bạn cùng chung vụ với tôi cũng như lớp người đồng tuổi, tụi tôi đã trải 4 năm chiến tranh trong khi ở hậu phương lớp trẻ lớn lên. Những năm còn học đại học chúng tôi có cái vinh dự lớp người tiền phong, thông minh nhất nước, nhất thế giới luôn. Giờ đây lớp người trẻ tuổi bỗng xuất hiện bên cạnh tụi tôi – tuổi trẻ cao ngạo, những khuôn mặt nhợt nhạt trong ngục tù đã vượt qua tụi tôi hồi nào không hay. Họ mới là những người tiền phong, tụi tôi sẵn sàng nhường chỗ. Bây giờ chính họ mới là những người đam mê học hỏi cũng như tranh luận. Họ đã tự chọn lấy một con đường đi xứng đáng và không hề thắc mắc hay hối tiếc đã chọn lầm. Chỉ nghĩ đến những con người đầy nhiệt tình, thông minh giờ đây bị đày đoạ trong ngục tù tôi cũng đủ rởn gai ốc.

Có những khuôn mặt trẻ kiêu hãnh, hốc hác vì tù ngục bắt gặp trong Byturki khiến tôi phải nổi da gà. Làm sao quên nổi những con người như Boris Gammenov? Một tháng trước tôi phải xuống một xà lim bán bệnh xá. Vừa bước vô, chưa nhìn ra một chỗ nào nằm tạm được bỗng đụng đầu một thân hình thất thểu, trời mùa Hè mà run rẩy khoác tấm áo dạ nhà binh cũ mèm, thủng không biết bao nhiêu lỗ! Khuôn mặt xanh xao, tái mét, nhưng nét thông minh Do Thái vẫn không thể nhầm lẫn được. Boris Gammerov đấy!

Sao trên đời lại có thể có một thằng ham tranh luận đến sỗ sàng như vậy? Mới trao đổi dăm câu chuyện, biết tên tuổi nhau là sẵn sàng cãi chính trị được rồi! Chuyện qua chuyện lại với tình hình thế giới, chuyện Tổng thống Rosevelt, không hiểu sao tôi chợt nhớ một câu kinh cầu nguyện của cố Tổng thống Mỹ mà các báo Nga vừa đăng, kèm theo một câu phê bình chủ quan:

“Ôi chao, đúng là đạo đức giả!”

Có vậy thôi. Vậy mà Boris nhăn mặt, trề môi, hỏi vặn lại:

“Ủa, đạo đức giả là thế nào? Theo anh, cứ lãnh tụ lớn là không thể cầu nguyện, không thể tin tưởng Thượng Đế sao?”

Tôi thật không ngờ! Thế hệ sanh năm 1923 mà còn những thằng “duy tâm” cỡ này? Đáng lẽ tôi phải mạnh dạn đáp lời Boris ngay nhưng ở tù lâu đâm rụt rè, vả lại tôi chợt nhận ra bên trong con người chúng ta vẫn bàng bạc một cảm giác trong sạch, thanh cao, đứng hẳn ra ngoài mọi xác tín. Rõ ràng lời phê bình tôi vừa thốt ra chẳng phát xuất từ sự tin tưởng của mình mà do từ ngoài cấy vào. Đúng rồi, chính vì lẽ đó tôi không dám trả lời thẳng câu hỏi mà chất vấn ngược lại Boris:

“Bộ anh tin tưởng Thượng Đế chắc?”

“Lẽ cố nhiên.”

Hắn đáp thật bình thản. Lẽ cố nhiên, lẽ cố nhiên. Đoàn Thanh niên Cộng sản đã nắm được hết, nhưng với điều kiện Công an Mật vụ phải đi kèm kìa!

Boriss Gammerov là chiến sĩ chớ. Hắn còn là trung sĩ xuất sắc, trẻ măng trong một đơn vị lừng danh chết bỏ là đơn vị chống chiến xa. Hắn mang chiến thương ở phổi không lành nổi và thêm chứng lao phổi luôn nên được giải ngũ vì lý do sức khoẻ. Cởi bộ áo lính là trở lại ngưỡng cửa đại học ngay, Boris ghi danh ban Sinh vật, đại học đường Mạc Tư Khoa. Lập tức hắn bị giằng xé bởi một con người chiến sĩ từng phục vụ và một con người sinh viên khao khát sống và không điên đầu chút nào!

Thế là chẳng ai rủ ai, chẳng có lệnh nào, một nhóm sinh viên cũng hình thành, quy tụ những thành phần có tư tưởng và thắc mắc về tương lai. Lập nhóm thì qua mặt sao nổi cặp mắt soi bói xưa nay của Cơ quan? Lập tức ba thằng trong nhóm được tuyển lựa để tống vào khám.

(Năm 1937 thân phụ Gammerov đã bỏ mạng trong ngục thì giờ đây có hắn nối dõi. Hình như giữa lúc bị tra khảo Boris đã ung dung ngâm mấy bài thơ của hắn cho ông điều tra viên nghe chơi. Tôi hối tiếc không nhớ nổi một bài nào để cho in dưới hàng chữ này. Biết tìm đâu cho ra bây giờ?)

Cũng là tình cờ trong vòng ít tháng tôi đã được gặp cả 3 người trong nhóm sinh viên này, sau Boriss Gammerov. Người thứ nhất là Vyacheslav Di, cũng ở xà lim Byturki. Sinh viên tranh đấu và bị bắt thì bao giờ chẳng có một cậu Vyacheslav? Hoạt động hăng tinh thần sắt đá lắm nhưng lọt vô phòng điều tra là mềm xèo tức thì! do đó cái phải lãnh bản án nhi đồng 5 năm và cậu Vyacherlav còn tin rằng trước sau ông bố thế lực cũng gỡ ra được.

Cũng ở Byturki nhưng lúc đổi qua xà lim Thánh đường tôi mới gặp Georgi Ingal, già dặn, lớn tuổi nhất trong nhóm. Ở tuổi Georgi mà đã được đề bạt ra tranh cử một chân trong Hội Nhà văn Liên Xô là quá sớm và quá bảnh. Hắn viết thật mạnh dạn, bút pháp thật bén và xung sát. Phải chi đừng có “đi sai đường lối” thì văn nghiệp thanh công bảo đảm: Georgi Ingal gần hoàn thành một tiểu thuyết về Debussy kia mà. Dù có thành công sớm và tương lai tràn đầy hứa hẹn hắn cũng không chịu câm nín. Nhân dịp đưa đám ông thầy Yuri Tynyanov, học trò Geogri Ingal không ngần ngại đọc điếu văn, tố cáo Tynyanov là nạn nhân của một vụ thanh trừng, dù biết rằng nói ra là đi đày chắc! Hắn lãnh 8 năm.

Tình cờ Gammerov cũng qua xà lim Thánh đường nên trước khi đi Krasnaya Presnya, tôi có dịp nhận định lập trường cả hai người. Phải nhìn nhận đó là cả một sự khó khăn đối với tôi vì hồi đó tôi còn mắc chứng bệnh chung của thời đại là không dám chấp nhận bất cứ một sự kiện gì mới, không dám thẩm định bất cứ một tư tưởng nào mới. Phải đợi coi nó bị Đảng dán nhãn hiệu nào rút ra từ đống nhãn hiệu cũ rích đã. Phải đợi coi nó bị liệt vào hạng “sản phẩm sao chép vụng về của tư bản thối nát”, hay “đề cao tư tưởng đồi trụy của bọn trí thức lạc hậu” cái đã!

Tôi nhớ trong cuộc thảo luận Ingal và Gammerov tuyệt không đả kích Marx nhưng Tolstoi thì bị họ quay tơi bời, từ địa hạt tôn giáo trở đi. Chẳng hạn Tolstoi chối bỏ Giáo Hội? Tại sao ông ta không nhìn Giáo Hội ở vai trò tổ chức và siêu linh? Bài bác Kinh Thánh? Há chẳng biết khoa học tân tiến đâu có phủ nhận Thánh Kinh, kể cả đoạn mở đầu giải thích về nguồn gốc địa cầu? Tolstoi bác bỏ cơ chế nhà nước? Nhưng không nhà nước, hỗn loạn thì sao? Tolstoi chủ trương hồn thể hợp nhất trong đời sống con người, nhưng có cách nào đánh đồng thiên tài và khả năng? Khốn nạn, ông đại văn hào còn chối bỏ cả tư tưởng “nhân vật lịch sử vạn năng” mà chính Stalin là một điển hình cụ thể! [4] Không còn gì mâu thuẫn bằng!

Ngày đó Ingal và Gammerov đã ngâm thơ cho tôi nghe và yêu cầu tôi ngâm đáp lễ, nhưng tôi đâu đã có bài nào. Họ nói chuyện tiểu thuyết, bốc Pasternak lên tận mây xanh. Riêng tôi mới đọc qua cuốn Chị tôi nhưng không thú. Nó có giá trị nhưng quá cao, không thích hợp với đại chúng. Nghe mấy câu thơ của Trung úy Shmidt đọc trước toà, tôi lại cảm động và thấy đúng tâm sự quá chừng:

Ba mươi năm ròng nuôi dưỡng
Tình yêu đất nước quê hương
Thà chết không đòi ân xá
Van xin chúng bay tình thương.

Đó cũng là bài thơ đồng điệu của Gammerov và Ingal: Chúng tao đâu thèm xin khoan hồng. Tù cứ tù, chúng tao hân hạnh nằm tù, chớ có chết hụt trong tù đâu mà sợ? (Chao ôi, có thằng nào nằm tù không đau khổ, chết dần chết mòn?). Mới có mấy tháng Ingal được tin mất vợ. Con vợ trẻ đã chính thức từ bỏ thằng chồng phản động! Cũng may là Gammerov hăng say làm cách mạng, chưa có người yêu!). Có nằm xà lim mới thấy Chân lý sụp đổ và khắc khoải, khao khát tự do, thương cho thân phận con người: Những thân hình nằm la liệt, chui rúc đây kia không phải con người, không phải đồng bào ta sao?

“Con đường chúng ta đã đi ngang. Không cần xin bọn hay tha thứ.”

Những người trẻ nằm xà lim vì chính trị năm ấy dĩ nhiên không thuộc đám đông bình thường mà họ đã tiến xa hơn hẳn một khoảng cách. Đám đông những người trẻ tuổi còn đang dối diện một tương lai phân hoá đến ngỡ ngàng mất hướng, chán nản, chấp nhận một cuộc sống dễ dàng. Có lẽ phải đôi lúc bấy giờ họ mới khởi sự lại cuộc hành trình gian khổ vươn lên tới đỉnh hai mươi năm nữa chắc? Nhóm người trẻ tuổi nằm tù năm 1945 quả đã nhảy vọt qua được hố sâu thụ động, ù lì để ngửng đầu lên ngạo nghễ, đối diện với cái chết.

Nằm xà lim Thánh đường khám Byturki những con người trẻ tuổi vừa lãnh án, bị cô lập tất cả để sửa soạn lên đường đi đày đã làm một bài ca để cùng vụng về cất tiếng trước buổi hoàng hôn:

Ngày ba lần xuống khiêng cháo nóng;
Đêm đêm ta hát ta ca,
Lấy sợi chỉ cây kim lén lút,
Ta khâu vá hành trang đi đày.
Ta còn thiết gì thân ta,
Đặt chữ ký cho xong việc,
Đợi đi đày Tây Bá Lợi Á
Biết có ngày nào trở lại.

Tiếng hát đi đầy của những người trẻ tuổi! Bây giờ tôi mới được nghe vì có bao giờ dám ngờ? Những lúc chúng tôi gian khổ ngoài chiến trường, chân lội xình bì bõm, núp mình xuống hố tránh đạn hay bắc ống nhòm nhìn sang trận tuyến địch thì ở quê nhà một lớp người trẻ tuổi đang lớn lên, bắt đầu xông xáo. Lớp người đó gan dạ cất bước về một ngả khác, một ngả mà chúng tôi không đủ tư cách, không dám xông xáo tới! Thế hệ mới đâu có như chúng tôi hồi đó?

Thế hệ chúng tôi ở mặt trận về, những kẻ giã từ vũ khí ngực lủng lẳng huy chương và lấy làm vinh hạnh kể lại những mẩu chuyện chiến trường. Lớp người trẻ tuổi ngó chúng tôi lắc đầu thương hại: “Một đám ngu ngốc!”

Tháng 11-1974

- Hết -



[1]Căn cứ theo tài liệu Nicolaivsky và Dallin (khuynh hướng Dân xã thì tổng số tù đi đày các trại Cải tạo Liên Xô đã từ 15 tới 20 triệu).
[2]Sau khi tự do, nhiều lần tôi thư từ thăm hỏi Kostya Kiulanhg đều biệt vô âm tín. Tuyệt nhiên không có tin tức gì nên tôi chắc hắn không còn trên dương thế.
[3]Trong hệ thống tổ chức của MVD có một Ủy ban đặc biệt mệnh danh “Đặc ban số 4” chuyên trách sử dụng tù vào những công tác khoa học, thí nghiệm.
[4]Trước khi và trong những ngày tù đày, tôi vẫn nghĩ là chính con người vạn năng của Stalin đã dẫn đất nước Nga vào khúc quanh lịch sử tai hại. Đột nhiên và âm thầm lãnh tụ từ trần nhưng con thuyền quốc gia có thấy rẽ ngoặt sang ngã khác đâu? Dấu tích cá nhân Stalin lưu lại trong những công trình lịch sử chỉ thấy một sự nghi kỵ ngu muội, một chính sách độc tài và thần tượng hoá cá nhân. Chỉ còn ngần ấy thứ, ngoài ra Stalin hoàn toàn theo đúng đường lối truyền thống, đúng từng bước từng khúc quanh một!

Nguồn: Quần đảo ngục tù (The Gulag Archipelago) của Solzhenitsyn. Bản dịch Ngọc Tú - Ngọc Thứ Lang. Cơ sở Văn Khoa Trí Dũng xuất bản lần thứ nhất tại Việt Nam. Bìa Nguyễn Hè. In tại Vân Long 68/12A Trần Quang Khải, Sài Gòn. Chủ trương xuất bản: ông Đỗ Đăng Đảng. Giấy phép cuốn 1: số 5122/BDVCH/PHBCNT/ALP/TP cấp 21.9.1974. Giấy phép cuốn 2: số 5240/74/BDVCH/PHBCNT/ALP/TP cấp ngày 1.10.1974. Số lượng 2.500 ấn bản – phát hành ngày 7.10.1974. Tổng phát hành Nam Cường, 185-187 Nguyễn Thái Học, Sài Gòn, ĐT: 23.867. Giá: 1.200đ. Bản điện tử do talawas thực hiện.

Share/Save/Bookmark

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Related Posts with Thumbnails