Thứ Tư, 7 tháng 10, 2009

Sơ lược về đời làm báo của Phan Khôi (1)

Nguồn : Talawas
Tác giả: Lại Nguyên Ân

(Nhân kỉ niệm sinh nhật lần thứ 122 của Phan Khôi 06/10/1887-06/10/2009)

Phan Khôi (1887-1959) can dự văn chương không hiếm khi với tư cách người sáng tác (làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài) nhưng thường khi với tư cách người bình luận, người nghiên cứu, hoặc với tư cách dịch giả. Ở Việt Nam, rõ nhất là ở Nam Kỳ, từ nửa cuối thế kỷ XIX, nếu đời sống văn học bắt đầu dạng thức tồn tại trên hai loại hình (hoặc hai kênh) chính của truyền thông hiện đại là xuất bản và báo chí, thì hoạt động văn chương và học thuật của Phan Khôi lại chỉ thực hiện chủ yếu trên kênh báo chí. Hoạt động của ngòi bút ông gắn với báo chí đến mức di sản của ngòi bút ông có cơ mất hút trong mắt các lớp hậu thế nếu họ chỉ đi tìm ông theo cái kênh dễ soi là sách xuất bản thời trước và do vậy chỉ thấy được một ít văn phẩm (Chương Dân thi thoại, Việt ngữ nghiên cứu, …) dường như chưa xứng tầm cỡ tác giả!

Các bản tiểu sử Phan Khôi do thân nhân hoặc nhà nghiên cứu soạn thảo đã công bố thường nêu tên những tờ báo “nghe nói rằng” ông đã cộng tác, với những thời điểm được ghi nhận khá áng chừng, người ghi không kiểm định điều ghi ấy có phù hợp với cái “thực địa” là các tờ báo với các bài đăng hay không,− điều này dễ làm rối hơn là làm giàu cho bảng niên biểu Phan Khôi. Dưới đây tôi theo cách làm khác. Tôi chỉ ghi nhận những gì tôi kiểm định được trên “thực địa” báo chí.

Người ta nêu một vài sự việc như Phan Khôi đi theo Phan Châu Trinh ra Hà Nội từ 1907 để tham gia công việc của Đông kinh Nghĩa thục và Đăng cổ tùng báo. Tuy vậy, trên thực tế, phải sau đó mười năm, Phan Khôi mới bước vào nghề báo.

Năm 1918, Phan Khôi bắt đầu viết cho tạp chí Nam phong với bút danh Chương Dân. Mục Nam âm thi thoại do ông xây dựng bắt đầu xuất hiện trước công chúng từ tạp chí này và ông sẽ đem theo nó đến một vài tờ báo khác, trên đường hành nghề của mình. Ở Nam phong, ngòi bút Chương Dân bộc lộ tiềm năng của một cây bút viết cả chữ Hán lẫn chữ Việt, cả nghị luận, khảo luận lẫn sáng tác văn chương, tuy vậy, ngoài mục Nam âm thi thoại, tác giả chưa tỏ rõ được gì nhiều ở các bài mục khác.

Chỉ hơn một năm sau, Phan Khôi rời Hà Nội vào Sài Gòn. Tờ báo đầu tiên ở Sài Gòn mà Phan Khôi cộng tác là tờ Lục tỉnh tân văn. Ông có bài đăng báo này hầu như ngay sau khi thôi cộng tác với tạp chí Nam phong ở Hà Nội. Bài cuối cùng ông đăng Nam phong (Về việc cấm rượu ở các nước cùng việc rượu lậu ở nước ta // N.P., s. 23, tháng 5.1919) thì cũng ngay trong tháng ấy, ngày 7.5.1919 trên tờ Lục tỉnh tân văn ở Sài Gòn đã có bài của Phan Khôi. Ban đầu ông đăng sáng tác: hai bài ca Đưa chồngNhớ chồng, thác lời người vợ có chồng là lính tòng chinh sang Pháp tham gia thế chiến thứ nhất, đều là bản dịch hai bài thơ chữ Hán đã đăng Nam phong. Nhưng những loạt bài kéo dài thành mục báo đăng nhiều kỳ của Phan Khôi trên Lục tỉnh tân văn năm 1919 lại là những bài thường thức xã hội hoặc khảo về ngôn ngữ. Đó là mục Làm dân phải biết (với những nội dung bài cho từng kỳ báo lần lượt là : ‒ Nước mẹ đẻ; Địa dư nước An Nam; Chính trị nước An Nam; Phong tục nước An Nam; Dân phải nộp thuế ;…) và mục Ghi chép tiếng An Nam (tôi tìm được 10 kỳ báo có bài của mục này, từ 12.5 đến 25.6.1919).

Thời gian Phan Khôi cộng tác với tờ Lục tỉnh tân văn rất ngắn, chỉ trong vòng vài tháng. Theo Phan Thị Nga (1936) thì “làm được ít lâu vì ông viết một bài kịch liệt quá người ta buộc ông thôi, ông lại ra Bắc…”. (1)

Bài báo “kịch liệt quá” ấy, nếu là bài đã đăng, thì, theo tìm hiểu của tôi, đó có thể là bài Giải đại ý bài diễn thuyết của quan Toàn quyền Sarraut về cuộc Đông Dương tự trị, đăng hai kỳ báo (LTTV. 14.5 và 21.5.1919). Theo thông tin trong bài báo ấy thì trước đó ít lâu, tại một buổi tiệc trà của hội Khai trí Tiến đức ở Hà Nội, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut có bài diễn thuyết về chủ đề Đông Dương tự trị; Lục tỉnh tân văn đã đăng toàn văn bản dịch bài diễn thuyết ấy; bài viết của tác giả Chương Dân chỉ đưa ra những lời giải thích; trong những điều ông giải thích có chỗ nói rằng: “chữ “Đông Dương tự trị” đó nghĩa là phủ Toàn quyền Đông Dương đối với Mẫu quốc mà được quyền tự trị, chớ không phải người Đông Dương đối với nước Lang Sa mà được quyền tự trị đâu”, tức là Phan Khôi nói trắng ra rằng Toàn quyền Sarraut nói “Đông Dương tự trị” là nhằm đòi thêm quyền cho mình trên cương vị quan chức Pháp lớn nhất ở Đông Dương chứ không phải đòi quyền cho dân Đông Dương. Phải chăng chính ý này đã khiến toà soạn Lục tỉnh tân văn cho là “kịch liệt quá” và buộc ông thôi cộng tác?

Dẫu sao thì sự hiện diện lần đầu trên báo chương Sài Gòn của Phan Khôi cũng tạm chấm dứt ở đấy. Ông trở ra Hà Nội, cộng tác dịch Kinh Thánh Ki-tô giáo cho hội thánh Tin Lành, đồng thời cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo và tạp chí Hữu thanh, ‒ việc viết báo thời gian này của ông ít hiệu quả.

Vài năm sau, Phan Khôi lại vào Nam, 1926-1927 ở Sài Gòn, không biết có viết cho tờ báo nào hay không; theo chính Phan Khôi, trong lời dẫn khi cho đăng bài thơ Chơi thuyền trên sông Tân Bình trên tuần báo Phụ nữ thời đàm số 3 (1. 10.1933) ‒ và Phan Cừ, Phan An (1996) (2) có lẽ đã căn cứ vào nguồn này, ‒ thì, vào năm 1927, có thể là để tránh sự truy nã, Phan Khôi phải chạy xuống Cà Mau ẩn náu nơi nhà một người bạn là chủ đồn điền, dành thời gian tự học thêm tiếng Pháp qua thư từ với Djean de la Bâtie, một nhà báo tự do người Pháp ở Sài Gòn.

Thời kỳ thứ hai Phan Khôi góp mặt với báo chương Sài Gòn có thể tính từ đầu năm 1928. Thời kỳ này kéo dài đến năm 1933, gắn với các tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập tiếng Việt, cũng ít nhiều gắn với các tờ Quần báo hoặc Hoa kiều nhật báo chữ Hán ở Chợ Lớn.

Thời kỳ này đánh dấu sự chuyển biến về chất của ngòi bút Phan Khôi. Lại xin dẫn lời nữ ký giả Phan Thị Nga (1936, Hà Nội báo): ”Ông bắt đầu viết được lối văn sát sóng như lối văn ông hiện giờ, từ hồi ông làm cho Đông Pháp thời báo ở Nam” (3)

Xin được nhắc lại một vài tình tiết thuộc ”báo chí sử” Sài Gòn những năm 1920-30, khi Diệp Văn Kỳ trở về từ Pháp với tấm bằng cử nhân luật nhưng lại thích môi trường báo chí văn chương (nhân tiện xin nhắc rằng Diệp Văn Kỳ là tác giả của khá nhiều tác phẩm sân khấu như Tứ đổ tường, Áo người quân tử, Bể ái đầy vơi, Tơ vương đến thác,… lại cũng là tác giả một số tiểu thuyết, ví dụ Chưa dứt hương thề đăng Thần chung từ 4.7.1929, v.v…). Cuối năm 1927 hai ông hội đồng (nghị viên hội đồng quản hạt hoặc hội đồng thành phố Sài Gòn) Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá mua lại từ tay Nguyễn Kim Đính tờ Đông Pháp thời báo (cũng có tên tiếng Pháp Le Courrier Indochinois). Học giả Huỳnh Văn Tòng (2000) nhận xét rằng “hai ông này đã biến đổi hoàn toàn tờ báo”, biến nó từ chỗ “có khuynh hướng thân chính phủ” trở nên “có khuynh hướng đối lập” và “là tờ báo có rất nhiều người đọc”. (4) Việc Đông Pháp thời báo mời được Tản Đà và Ngô Tất Tố từ Bắc vào tăng cường cho bộ biên tập và làm gia tăng rõ rệt thành phần văn chương học thuật trong nội dung tờ báo, ‒ thì nhiều nhà nghiên cứu (Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Huỳnh Văn Tòng,…) đã ghi nhận. Nhưng việc Phan Khôi cũng góp mặt trên tờ báo này từ khi nó thuộc về hai chủ nhân mới, ‒ thì ít thấy nhà nghiên cứu nào ghi nhận, hoặc nếu có ghi nhận thì chỉ nói chung chung là Phan Khôi có lúc viết cho Đông Pháp thời báo chứ không ghi nhận cụ thể gì hơn. Lý do có lẽ cũng đơn giản do cách tái xuất hiện khá kín đáo lần này của chính Phan Khôi trên báo chí Sài Gòn: tất cả các bài đưa đăng Đông Pháp thời báo, từ những bài tranh luận với Trần Huy Liệu và Huỳnh Thúc Kháng về một đoạn sử quan hệ Pháp-Việt thế kỷ XVII – XVIII, kể cả Nam âm thi thoại mà những bài đầu tiên của nó đã từng xuất hiện trên Nam phong những năm 1918-19, kể cả bài thơ Dân quạ đình công làm từ sau ”vụ án xin xâu” ở miền Trung hồi 1907-08, v.v…, – tất cả, Phan Khôi đều ký tắt, có khi bằng K. hoặc Kh., nhưng thường khi bằng hai chữ C.D. – hai chữ cái đầu tên hiệu Chương Dân mà ông đã dùng để ký dưới các bài báo của mình trên tạp chí Nam phong hồi 1918. Việc Phan Khôi viết báo trong năm 1928 chỉ dưới các tên ký tắt hẳn có liên quan đến chính cái lý do đã khiến ông phải tạm lánh ít lâu xuống Cà Mau kể trên.

Trong số những bài Phan Khôi đưa đăng trên Đông Pháp thời báo, chỉ có ít bài bình luận thời sự chính trị (ví dụ Cái tình thế chánh trị xứ Trung kỳ và Nhân dân đại biểu viện xứ ấy, ĐPTB 28.8.1928; Ít lời lạm bàn về chánh sách của ông Pasquier, quan Toàn quyền mới Đông Pháp, ĐPTB 30.8.1928), nhưng có khá nhiều bài thiên về khảo chứng hoặc bình luận sử học. Nổi bật là chùm bài tranh luận phản bác điều mà ông gọi là ”cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII”; cạnh đó là những bài cũng phản bác “cái thuyết châu Âu sắp tan nát” của học giả Cô Hồng Minh (1856-1928), nhận diện tình hình học thuật tư tưởng ở Trung Hoa đương đại, so sánh đặc điểm tư tưởng phương Đông và phương Tây, khẳng định việc lớn trước mắt phải làm ở phương Đông, ở châu Á là phải ”Âu hoá”, phải học văn minh phương Tây để đưa xã hội mình lên trình độ của thế giới hiện đại (Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu // ĐPTB 26.7.1928 ; Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết Âu châu sắp tan nát // ĐPTB 15.9.1928; Tư tưởng của Tây phương và Đông phương //ĐPTB 27.9 và 2.10.1928 ; Bác cái thuyết tân cựu điều hoà // ĐPTB 11.10.1928).

Thời Phan Khôi, Tản Đà, Ngô Tất Tố cùng cộng tác với Đông Pháp thời báo cũng có thể xem là thịnh thời của ”văn hoá đọc”, khi mà trên báo chí Sài Gòn, truyện đều kỳ (feuilleton) được in xen kẽ với quảng cáo như là phần dẫn nhập đưa người đọc ham xem truyện tiện thể xem các quảng cáo, như là phần thưởng toà soạn dành cho người đọc các trang quảng cáo. Vào dịp có một loạt khách văn sĩ thi nhân nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc tụ hội ở báo mình, toà soạn Đông Pháp thời báo đã mở ra ”Phụ trương văn chương” vào mỗi thứ bảy hằng tuần do chủ bút Bùi Thế Mỹ chủ trì, bên cạnh ”Phụ trương thể thao” và “Phụ trương phụ nữ và nhi đồng”; những cửa mở phụ trương kiểu này sẽ trở thành thông dụng cho nhiều tờ báo ở Sài Gòn trong nhiều năm sau.

Phần văn học Phan Khôi góp với Đông Pháp thời báo khá đa dạng: sáng tác thơ (Dân quạ đình công, ĐPTB 2.6.1928 ; Cái chết của con nhà nghèo, ĐPTB 21.7.1928), bình luận văn học (Cấm sách, sách cấm, ĐPTB 1.9.1928; Thi văn với thời đại, ĐPTB 6.10.1928 ; Văn chương và văn chương của nhà báo, ĐPTB 27.10.1928); khảo chứng (Cái dốt cuả triều Huế, ĐPTB 8.5.1928; Một bài vận văn rất có giá trị về lịch sử: Hà Nội chánh khí ca”, ĐPTB 4.10.1928); giới thiệu văn sĩ và văn chương nước ngoài (Cái thế lực của nhà văn hào, ĐPTB 5.6.1928 [nói về L. Tolstoy] ; Hồ Thích với Quốc dân đảng, ĐPTB 18.12.1928 ; Ông Eroshenko, thi nhân mù nước Nga, ĐPTB 19.5.1928); dịch thuật văn chương (dịch bài Quan về vườn, ĐPTB 5.5.1928 của nhà thơ Pháp H. de Racan [1589-1670] ; dịch một số tác phẩm của Eroshenko (qua bản dịch chữ Hán của Lỗ Tấn); dịch phần đầu tiểu thuyết Bá tước Monté Cristo của A. Dumas-père (cũng qua một bản dịch chữ Hán) và cho đăng đều kỳ như một cuốn ”tiểu thuyết chánh trị”).(5)

Chính trên tờ Đông Pháp thời báo Phan Khôi đã bắt đầu thử nghiệm một thể tài văn chương gắn liền với báo chí là thể tài hài đàm. Dưới bút danh Tân Việt trong mục Câu chuyện hằng ngày do chủ báo Diệp Văn Kỳ đặt ra, Phan Khôi trở thành tay bút chính tìm tòi thể nghiệm dạng sáng tác mới mẻ này, và nhân đây xây dựng một ”mặt nạ tác giả” (6) hay là một kiểu tác giả đặc thù mà sự tồn tại “ảo” của nó là hệ quả kiểu giao tiếp gián cách giữa tác giả với độc giả thông qua kênh truyền thông báo chí. Vai trò Tân Việt trong Câu chuyện hằng ngày sẽ được Phan Khôi tiếp tục trên tờ Thần chung (1920-30). Trong việc tìm tòi cách viết tản văn cho thể hài đàm, Phan Khôi chú trọng kinh nghiệm của hai nhà báo Pháp là Clément Vautel (1876-1954) và Georges de la Fouchardière (1874-1946) trên các tờ Le JournalL’ Oeuvre xuất bản ở Paris đương thời. (7)

Về điểm đứt nối giữa hai tờ Đông Pháp thời báoThần chung, nhân đây xin nêu đôi chi tiết thuộc ”báo chí sử” Sài Gòn: theo khảo sát của tôi, tờ Đông Pháp thời báo ngừng xuất bản không phải vì bị chính quyền đương thời đóng cửa như một vài học giả đã mô tả, mà sự thể chỉ đơn giản là chủ nhân của nó tự chấm dứt tờ báo này để ra tờ báo khác. Nói rõ hơn, tuy Diệp Văn Kỳ đã mua lại tờ báo này của Nguyễn Kim Đính nhưng ông vẫn xin giấy phép ra một tờ báo khác nữa. Đến khi có được giấy phép ra tờ Thần chung rồi thì Diệp Văn Kỳ xử lý theo kiểu đổi tên: tờ báo đang mang tên Đông Pháp thời báo bị ông chấm dứt từ ngày 22.12.1928 (số báo 809) để rồi hai tuần sau, vẫn tại toà soạn ấy ở góc đường Filippini và Espagne tại thành phố Sài Gòn, vẫn với nguyên vẹn ban biên tập ấy, từ ngày 7.1.1929, tờ báo lại ra mắt với nhan đề Thần chung (có tên bằng tiếng Pháp là La Cloche du Martin) đánh số từ số 1. Nói gọn lại thì Đông Pháp thời báo đã được đổi tên thành Thần chung, nhưng giấy phép của Đông Pháp thời báo thì lại được trả lại cho Nguyễn Kim Đính; ông này sau đó có lúc đánh tiếng ở vài tờ báo khác rằng sẽ tục bản tờ báo cũ này của mình, nhưng việc ấy rốt cuộc không xảy ra, chỉ có nhà in cũ của báo này, chuyển sang tay vợ ông Đính là bà Thạnh Thị Mậu, thì vẫn tiếp tục hoạt động. Tờ Thần chung được in tại nhà in Bảo Tồn của Diệp Văn Kỳ.

Chuyện bị chính quyền đóng cửa là chuyện có thực đã xảy ra với tờ Thần chung sau 15 tháng nó hoạt động rất hiệu quả theo hướng báo chí đối lập. Lệnh đóng cửa tờ báo này ban ra từ phủ Toàn quyền ở ngoài Bắc (22.3.1930) buộc tờ báo này ở Sài Gòn phải lập tức thi hành, và toà soạn Thần chung đành phải dùng những tờ rơi dán lên tường nhà một vài đường phố Sài Gòn để báo tin và nhân thể tỏ ý cảm ơn và từ giã bạn đọc. (8)

Trong số bài vở Phan Khôi góp cho mặt báo Thần chung, dễ thấy nhất là việc duy trì mục “Câu chuyện hằng ngày” dưới bút danh Tân Việt. Tôi đếm được 337 kỳ báo có bài của mục này trên tổng số 346 kỳ báo Thần chung. Khi còn nằm trên Đông Pháp thời báo, vì báo chỉ ra 3 kỳ mỗi tuần, nên ”câu chuyện hằng ngày” vẫn ở tình trạng ”cách nhật”. Nay nhật báo Thần chung ra tất cả các ngày thường trong tuần, trừ chủ nhật, câu chuyện mà Tân Việt góp với người đọc báo mỗi ngày quả thực là ”câu chuyện hằng ngày” với đủ loại nội dung có thể nói tới, từ các sự việc xảy ra hằng ngày tại đô thị Sài Gòn và các miền trong nước đến các sự việc ở nước ngoài. Nhờ mục này mà nay đọc lại chúng ta biết các chuyện bầu cử hội đồng quản hạt, chuyện thiếu nước, chuyện nghiện hút ở Sài Gòn, rồi chuyện thi hào Tagore đến thăm thành phố, chuyện phế đế Phổ Nghi và các tay quân phiệt bên Tàu, chuyện thi sắc đẹp bên Tây, v.v., và nổi bật lên là cái giọng riêng của tác giả, khi cười cợt khi nghiêm chỉnh.

Trên Thần chung Phan Khôi xuất hiện với họ tên thật của mình chỉ từ 3.10.1929 trong loạt 21 kỳ của tiểu luận Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta, và sau đó trong những bài thảo luận về dịch sách Phật học với nhà sư Thiện Chiếu. Ông cũng vẫn ký Chương Dân hoặc ký tắt C.D. trong những bài về ngôn ngữ, về thi văn. Một bút danh khác ông dùng ở một vài bài đăng Thần chung là Khải Minh Tử, đây là bút danh ông đã dùng cho một số bài báo chữ Hán ông viết cho tờ Quần báo của Hoa kiều ở Chợ Lớn. (9)

Ngoài những bài ký tên hoặc bút danh rõ rệt, có lẽ Phan Khôi còn có nhiều bài ký tên toà soạn (Thần Chung, T.C.) hoặc không ký tên, ví dụ nói về bút chiến, về tiềm năng “giàu hơn Nam Kỳ” của vùng Tây Kỳ (Tây Nguyên ngày nay), về luận lý học, về thời sự trong nước, thời cuộc Trung Hoa, v.v… Ta cũng có thể dự đoán rằng trong những loại công việc mà báo Thần chung tổ chức như cuộc thi quốc sử, chắc hẳn có vai trò đáng kể của Phan Khôi. Nhìn vào 30 bản tóm tắt sự tích và công trạng 30 nhân vật trong sử Việt (mà Thần chung lần lượt đăng tải mỗi bản sự tích đến 2 lần cho độc giả đọc để biết mà tham gia trả lời các câu hỏi), ta có thể dự đoán là có bàn tay Phan Khôi tham gia soạn thảo. Chính Nguyễn Vỹ trong một cuốn sách mang tính hồi ký nhan đề Tuấn, chàng trai nước Việt (1970) đã nhớ lại sự việc này tuy ông gắn hành động ấy của Phan Khôi với tờ Phụ nữ tân văn, mặc dù trên thực tế không phải tuần báo này mà chính nhật báo Thần chung đã tổ chức cuộc thi quốc sử, cuộc thi có lẽ đã không được tổng kết trao giả, do tờ báo bị cấm rất đột ngột.(10)

Giữa năm 1929, Phan Khôi tham gia từ đầu vào một tờ tuần báo mà tên gọi của nó sẽ được nhắc nhở nhiều về sau như một thành công rất đáng kể của báo chí tiếng Việt những năm 1930: tuần báo Phụ nữ tân văn. Đối với cơ quan tư nhân này, Phan Khôi là một trong những người gắn bó đến mức được gọi là “đứng mũi chịu sào”(11) cùng với Đào Trinh Nhất, nhưng nếu họ Đào thường đảm nhận vai trò chủ bút thì họ Phan trước sau chỉ giữ vai trò một cộng tác viên. Lượng bài ông viết đăng trên tuần báo này là khá lớn: khoảng trên 100 bài lớn nhỏ trong tổng số 273 kỳ xuất bản tuần báo này từ 2.5.1929 đến 21.4.1935 (chưa tính đến việc nhiều bài thực chất là những chuyên mục kéo dài hàng chục kỳ).

Trong sự đa dạng của các đề tài được đề cập thì nổi bật vẫn là xoay quanh đề tài về giới nữ với đủ cung bậc loại hình: nghị luận xã hội, khảo luận lịch sử, nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Việc Phan Khôi và các tác giả khác cùng thời ông đề cập vấn đề phụ nữ, theo nhận xét của tôi, không đơn giản là việc kiếm đề tài cho hợp với nhãn một tờ báo, mà thực sự là việc triển khai đường lối duy tân vào thực tế đời sống. Hoạt động báo chí đương thời cho thấy không phải chỉ một nhóm làm tờ Phụ nữ tân văn mà còn nhiều nhóm khác nhận ra đề tài phụ nữ như một lối vào thuận lợi để tác động đến xã hội, tạo ra những chuyển biến hiện đại hóa trong nếp sống của cư dân, trước hết là ở các đô thị. Trong các bài viết của Phan Khôi, chủ trương bình đẳng nam nữ, giải phóng thế hệ trẻ khỏi sự áp chế của cái khung đại gia đình trung cổ được tác giả kiên trì theo đuổi bằng những lý lẽ thuyết phục; có thể hình dung điều đó qua nhan đề các bài viết (Việt Nam phụ nữ liệt truyện, PNTV 2.5.1929; 13.6; 4.7; 1.8; 8.8; 15.8; 12.9.1929; Tơ hồng nguyệt lão với hôn nhân tự do, PNTV 12.9.1929; Chữ trinh: cái tiết với cái nết, PNTV 19/9/1929; Luận về phụ nữ tự sát, PNTV 26.9.1929; Chuyện bà cố tôi (Một cái đơn kiện cái chế độ gia đình An Nam) PNTV 17.10.1929; Nữ công, PNTV 24.10.1929; Hoàng đế với phụ nữ, PNTV 9.1.1930; Lại hoàng đế với phụ nữ (Chuyện một bà hoàng hậu vì mắc oan mà bị tử hình), PNTV 1.5.1930; Đàn bà mới của một nước mới Thổ Nhĩ Kỳ, PNTV 8.5; 15.5.1930; Thân oan cho Võ Hậu, PNTV 22.5.1930; Gia đình ở xứ ta nay đã thành ra vấn đề rồi, PNTV 21.5.1931; Cái chế độ gia đình nước ta đem gióng với luân lý Khổng Mạnh, PNTV 4.6.1931; Sự lập thân của thanh niên nam nữ đời nay, PNTV 18.6.1931; Lại nói về tam cang với ngũ luân, PNTV 2.7.1931; Tống nho với phụ nữ, PNTV 13.8.1931; Một cái hại của chế độ đại gia đình: bà gia với nàng dâu, PNTV 20.8.1931; Vấn đề cải cách cho phụ nữ, PNTV 28.1.1932 ; Vấn đề phụ nữ giải phóng với nhân sinh quan, PNTV 7.7; 21.7.1932; Con có vợ rồi có nên ở chung với cha mẹ chăng? PNTV 14.7.1932; Thanh niên với tổ quốc, PNTV 13.10.1932; Câu chuyện lấy vợ đầm, PNTV 6.12.1934 )…

Ở khía cạnh văn học, Phan Khôi đã nhân tính chuyên đề về giới của tờ tuần báo này để thử nêu các khía cạnh: văn học của các tác gia phụ nữ (Về văn học của phụ nữ Việt Nam, PNTV 2.5.1929; Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thịnh, PNTV 2.5.1929), và văn học về đề tài phụ nữ (Văn học với nữ tánh, PNTV 9.5.1929; Lại nói về vấn đề văn học với nữ tánh, PNTV 6.6.1929; Cái tánh ghen cùng dật sự thi văn bởi nó mà ra, PNTV 23.5.1929; Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta, PNTV [11 kỳ] từ 30.5 đến 29.8.1929, v.v…).

Một loạt bài khác, Phan Khôi đã làm cho tờ Phụ nữ tân văn nổi tiếng, được cả những độc giả có học vấn cao tìm đọc, đó là loạt bài thảo luận về tư tưởng học thuật. Được khởi lên từ một vài bài ông đề nghị trao đổi hoặc chất vấn về nội dung học thuật và về học phong (Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim, PNTV 29.5.1930; Cảnh cáo các nhà học phiệt, PNTV 24.7.1930), Phan Khôi đã khiến những cây bút hàng đầu của học thuật đương thời như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh,… lên tiếng trên tuần báo Phụ nữ tân văn phúc đáp và thảo luận về những vấn đề ông nêu ra. Cuộc tranh biện giữa những đầu óc uyên thâm không dễ cho bất kỳ ai học vấn nông cạn có thể tham dự, nhưng nó vẫn được đông đảo người đọc chờ đợi có lẽ vì đấy là dịp khá hiếm hoi để lắng nghe những người hiểu biết nhất trong nước bàn luận về những điều không hề dễ hiểu như các khái niệm và phạm trù của Nho giáo, nhận định về hoạt động tư tưởng văn hoá ở Việt Nam, về học phong của giới học giả,… Không khí tranh biện nghiêm túc mà không hề nhiễm thói giả dối và hàn lâm kinh viện của những thảo luận này khiến ta có thể nghĩ rằng đây là những thời khắc thăng hoa không dễ lặp lại trong hoạt động tư tưởng học thuật ở Việt Nam. Có thể chính không khí ấy cũng đã hỗ trợ nâng bước cho Phan Khôi, khiến ông minh mẫn khác thường; điều này không chỉ bộc lộ qua việc không về hùa với người em rể là Lê Dư trong chuyện nói chung chung “nước ta có quốc học”, mà còn thể hiện ở khả năng nhận định chính xác nhiều vấn đề lịch sử và lịch sử tư tưởng ở tầm xa: Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến (PNTV 29.11.1934), Thánh hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ (PNTV 13.12.1934).

Trên Phụ nữ tân văn, Phan Khôi, như một người chuyên nghiệp sống bằng ngòi bút, vẫn kiêm nhiệm nhiều vai trò: vai trò dịch giả (ví dụ trích dịch Tư Mã Thiên, Tư Mã Dung, Hàn Dũ, v.v…), vai trò nhà ngôn ngữ thực hành với đủ loại công việc, từ việc đề xuất ”viết chữ quốc ngữ cho đúng, dùng danh từ cho trúng” (PNTV 12.6.1930), “đính chánh lại cách xưng tên của người Việt Nam” (PNTV 26.6.1930), cảnh tỉnh đồng bào đừng thổi phồng khác biệt phương ngữ mà vô tình chia rẽ dân tộc (Tiếng hay văn Việt Nam cũng chỉ có một mà thôi, PNTV 11.6.1931), phản đối chủ trương dạy tiểu học bằng chữ nho (PNTV 24.3.1932),… Ông cũng đảm nhận vai trò người sửa văn, dọn vườn văn mà ông cao hứng tự phong cho mình ”vai ngự sử trên đàn văn”. Cũng có thể thấy ông trong vai trò người giúp việc lấp các khoảng trống cho toà soạn bằng những mẩu ”tạp trở” thông tin đủ thứ chuyện cổ kim đông tây. Ông vừa thử vai hương sư dạy cách làm văn quốc ngữ (tập bài hướng dẫn Phép làm văn của ông đăng Phụ nữ tân văn từ 23.10 đến 30.11.1930, hết bài thứ tư thì dừng lại), vừa lặp lại vai trò ”thày đồ” dạy chữ nho (tập bài giảng nhan đề Hán văn độc tu ‒ phụ đề tiếng Pháp là Chinois sans maitre ‒ của ông được báo Đuốc nhà Nam in và phát hành như một phụ trương trước khi đăng trên Phụ nữ tân văn liền trong 20 kỳ, từ 18.8 đến 29.12.1932, sau này Phan Khôi cho đăng lại trên Sông Hương, 1936-37).

Ở phương diện thuần văn học, bên cạnh loạt bài chuyên về văn học của tác gia phụ nữ và văn học về đề tài phụ nữ như đã nêu trên, ở Phụ nữ tân văn, Phan Khôi còn có những bài mang tính khái quát lý thuyết về thể loại (Giới thiệu lối văn phê bình nhân vật, PNTV 30.7.1931; Một lối văn mà xứ ta chưa có: nhật ký, PNTV 23.6.1932; Sự nghị luận sai lầm bởi dùng chủ quan, PNTV 15.9.1932; Cái địa vị khôi hài trên đàn văn, PNTV 3.11.1932; Sử với tiểu thuyết, PNTV 1.12.1932; Lối văn học của bình dân, PNTV 15.12.1932), về văn chương và nghề văn nói chung (Một ít nghiên cứu văn học về thần mùa xuân, PNTV 4.2.1932; Sự dùng điển trong thơ văn và sự chú thích, PNTV 18.8.1932; Cái bịnh ăn cắp của Tàu, PNTV 1.9.1932; Văn học chữ Hán của nước ta, PNTV 22.9.1932; Sách tiếu lâm đời xưa, PNTV 22.12.1932).

Tất nhiên trong số bài vở đó ta không thể quên bài báo Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ (PNTV 10.3.1932),(12) bài báo đề xướng “một lối thơ mới” được coi như tín hiệu phát động phong trào thơ mới tiếng Việt (1932-45), mở ra một cuộc cách tân sẽ đưa tới thành tựu lớn nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ XX. Xin nhắc lại một cảm tưởng trong hồi ức: ở miền Bắc sau suốt ba bốn chục năm tên tuổi Phan Khôi bị coi là nguy hiểm nên bị quên lãng, khi kỷ niệm 60 năm phong trào thơ mới, tức là vào năm 1992, tên tuổi Phan Khôi chỉ được nhắc lại một cách dè dặt, như thể ông chỉ dính dáng một cách ngẫu nhiên tới phong trào cách tân văn học này. Thế nhưng nếu tìm hiểu lại, ta sẽ thấy vai trò Phan Khôi gắn với phong trào này là không hề ngẫu nhiên. Hồi những năm 1970 ở Sài Gòn, nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh (13) đã nêu những dấu hiệu cho thấy kiểm duyệt thực dân có vẻ như đã ngửi ra mùi “duy tân”, ”cải lương” trong những lời Phan Khôi kêu gọi đổi mới thi ca. Đọc lại một cách tương đối hệ thống loạt bài Phan Khôi đăng Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn những năm 1928-1932, chúng ta sẽ có thể thấy Phan Khôi như một trong những cây bút hàng đầu đã tạo cơ sở và chuẩn bị về nhiều mặt cho những thay đổi trong văn hoá, học thuật và văn chương của người Việt những năm 1930-40, trong đó có phong trào thơ mới, có tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn, có văn nghị luận hiện đại mà phê bình văn học là một bộ phận. Tôi tin rằng đã và sẽ có nhiều nhà nghiên cứu văn học sử và văn hoá sử Việt Nam nhận ra vai trò này của Phan Khôi.

Ngoài chuyện bài vở đăng báo, Phan Khôi còn tham dự một số hoạt động xã hội của báo này, ví dụ chấm thi để trao ”học bổng phụ nữ” của Phụ nữ tân văn cho học sinh đi du học sang Pháp.

Tờ báo thứ tư ở Sài Gòn mà Phan Khôi tham gia là nhật báo Trung lập. Về tờ báo này, học giả Huỳnh Văn Tòng (2000, sđd.) xếp nó vào loại báo thiên về thông tin thương mại, ”tự nhận mình không làm chính trị, đứng trung lập, có sao nói vậy, không thiên vị dân chúng hoặc chính quyền, có chủ đích rõ rệt là thương mại nhưng ít nhiều vẫn theo khuôn khổ của chính quyền thuộc địa” (sđd., tr. 398). Tờ nhật báo này vốn là bản tiếng Việt của tờ báo tiếng Pháp Impartial, cả hai được sáng lập bởi Henri de Lachevrotière, một người Pháp lai Việt, xuất thân cai thợ, sau tiến thân vào chính trường, lên đến chức chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam Kỳ; khoảng 1925-26, cả hai tờ này được bán đứt cho tập đoàn tài phiệt của Octave Homberg (theo Huỳnh Văn Tòng, sđd., tr.411). Có những thời kỳ, Trung lập báo bị các đồng nghiệp vận động tẩy chay, do việc báo này hoặc người chủ trì nó là Nguyễn Phú Khai tố giác phong trào cấp tiến, ngăn cản các hoạt động tưởng niệm Phan Chu Trinh, ngăn cản thanh niên Sài Gòn tổ chức đón rước Bùi Quang Chiêu du học Pháp trở về… Chính Phan Khôi dưới bút danh Tân Việt, Bùi Thế Mỹ dưới bút danh Phiêu Linh Tử trên Đông Pháp thời báoThần chung từng không ít lần châm chọc Trung lập.

(Còn 1 kì)

____________________

Chú thích

(1) Phan Thị Nga: Lối tự học của những bực đàn anh nước ta : [ kỳ 1] Ông Phan Khôi học chữ Tây và làm quen với cô Luận Lý // Hà Nội báo, Hà Nội, s. 10 (11 Mars 1936).

(2) Phan Cừ&Phan An: Phan Khôi niên biểu // Chương Dân thi thoại (tái bản), Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 1996, tr.152-163.

(3) Phan Thị Nga: bài đã dẫn.

(4) Huỳnh Văn Tòng: Báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1945, Tp. HCM.: Nxb. Tp. HCM., 2000, tr. 185.

(5) Chi tiết hơn xin xem trong: Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1928. Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2003 ; cũng có trên trang : lainguyenan.free.fr/phankhoi

(6) Khái niệm “mặt nạ tác giả” [maska avtorskaja] được một số học giả Nga định nghĩa như phương thức mà nhà văn dùng để che giấu nhân thân của mình nhằm tạo nên ở độc giả cái hình ảnh một tác giả khác hẳn (so với dạng thực có); đây là thủ pháp chính của mê hoặc (мистификация / mistifikacija) trong văn chương (theo O.E. Osovsky, маска авторская / Maska Avtorskaja / Mặt nạ tác giả / trong sách: Литературная Энциклопедия Терминов и понятий / Literaturnaja Enciklopedija Terminov i ponjatij // A.N. Nikoljukin tổng chủ biên // Moskva: HPK “Intelvak”, 2001, tr. 511-512).

(7) Về hai nhà báo và nhà văn Pháp này, các thông tin là do dịch giả Trần Thiện Đạo từ Paris tra cứu và cung cấp. Xin chân thành cảm ơn.

(8) Xem: Vương Lệ Thiên: Thỏ chết động lòng chồn (Tại sao báo Thần chung bị cấm xuất bản?) // Trung lập, S. G., 27.3.1930; Phan Khôi: Có lẽ là điều sai lầm của những người trí giả // Trung lập, S. G., 10.5.1930.

(9) Chi tiết hơn xin xem trong: Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1929 / Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/, Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2004 ; cũng có trên trang : lainguyenan.free.fr/phankhoi

(10) Chi tiết về việc này, xin xem: Lại Nguyên Ân: Phan Khôi và cuộc thi quốc sử của báo Thần chung, Sài Gòn 1929 // Xưa và Nay, H.N., s. 310 (tháng 6. 2008), tr. 18-22. cũng có trên trang : viet-studies.info/phankhoi

(11) Tin: “Phụ nữ tân văn” chỉ bị đóng cửa 5 tháng // Trung lập, 14/5/1931.

(12) Thật ra bài Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ của Phan Khôi đã ra mắt công chúng Hà Nội từ trước Tết Nhâm Thân (6.2.1932) trong Tập văn mùa xuân, một phụ san Tết Nhâm thân 1932 của báo Đông Tây ; ý kiến phản hồi về bài ấy đã xuất hiện trên báo Đông tây (Hà Nội) ngày 17.2.1932, gần 1 tháng trước khi Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn đăng lại bài ấy.

(13) Bùi Đức Tịnh: Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (1865-1932), [in lại có sửa so với bản in lần đầu 1975], Tp. HCM: Nxb. TP HCM, 1992, tr. 235.


Share/Save/Bookmark

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Related Posts with Thumbnails