Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2009

Quần đảo ngục tù (3)

Nguồn : Talawas
Kỉ niệm 39 năm Nobel văn học Aleksandr I. Solzhenitsyn (8/10/1970)

Quần đảo ngục tù (3)
Aleksandr I. Solzhenitsyn

Ngọc Thứ Lang, Ngọc Tú dịch


7. Đầu máy kéo vô tù đày

Bên cạnh "nhà ga" Byturki có một phòng đặc biệt. Đó là phòng khám người, tuốt người để thằng nào mới vô là phải chịu lục soát thật kỹ cái đã. Phòng đủ rộng để 5, 6 cán bộ Cơ quan làm 20 thằng ZEK một lúc. Có mấy cái bàn nhưng mặt bàn trơ trụi chẳng có gì. Ở một bàn cuối phòng ngồi sừng sững một ông Thiếu tá NKVD, quân phục chững chạc mớ tóc đen chải đàng hoàng nhưng dưới ánh đèn chụp khuôn mặt hắn mới mệt mỏi, chán chường làm sao! In hình hắn mệt vì có ngần ấy đứa mà cứ phải đưa vô từng đứa một, bắt hắn chờ đợi không đáng. Nếu cần một chữ ký thì bắt chúng ký cả loạt việc và lẹ hơn nhiều.

Thấy tôi vô, ông Thiếu tá biểu ngồi, hỏi tên họ rồi đưa tay lục kiếm "hồ sơ" của tôi trong chồng giấy phía mặt. Cách cái lọ mực cũng có một chồng in hệt, giấy mỏng như giấy đánh máy nhưng chỉ nhỏ bằng nửa tờ. Kiểu bông lãnh xăng, phiếu phát vật liệu các công sở. Đây rồi, hắn rút đúng tờ giấy của tôi, cao giọng đọc cho biết "bản án": 8 năm đi đày. Sau đó hắn lật tờ giấy nắn nót vài chữ, ra điều "án được đọc lên cho kẻ chịu án", đúng ngày giờ đã định.

8 năm đi đày! Bản án được đọc lên nhưng tôi tuyệt đối không xúc động. Nó thông thường và dễ dàng quá khiến tim tôi cũng chẳng buồn đập mạnh chút xíu. Bộ khúc rẽ của cả một đời tôi chỉ có thế thôi sao? Muốn chuốc lấy ít cảm giác hồi hộp của một thằng bị tuyên án cũng không nổi! Ông Thiếu tá NKVD lẳng lặng chìa mảnh giấy trước mặt tôi, phía để trắng ngửa lên. Cây viết rẻ tiền nằm đó, chờ tôi đặt bút ký, chấp nhận bản án đi đày đây. Tôi không ngần ngại nói luôn:

"Trước khi ký, ít ra tôi cũng phải đọc lại?"

"Được, muốn đọc thì đọc! Bộ có gì nghi ngờ chắc? Đấy, đọc đi…"

Hắn đẩy tờ giấy ra một cách ngần ngại, chán chường quá. Tôi vội cầm lấy, cố tình đọc thật chậm rãi. Đọc rề từng nét chữ một chớ không phải từng chữ nữa! Mảnh giấy đánh máy nhưng không phải bản chính, rõ ràng chỉ là một bản sao.

Tôi nhớ đại khái có hàng chữ tựa như sau: "TRÍCH YẾU, chiếu Sắc lệnh của Hội đồng An ninh, Bộ Nội An, chính phủ Liên bang Xô Viết ngày 7 tháng 7 năm 1945. Số thứ tự…".

Phía dưới có hàng dấu chấm đánh máy chia đôi tờ giấy.

Một bên ghi: "Hồ sơ buộc tội tên… ngày sinh và nơi sinh…". Phía bên kia là bản án: NGHỊ QUYẾT: Nay quyết định tên… can tội hoạt động phản tuyên truyền với dự mưu thành lập một tổ chức nhằm chống lại chế độ Xô Viết… bị trừng phạt 8 NĂM đi đày trại Lao động Cải tạo. Phía dưới cùng là hàng chữ sao y chính bản, với chữ ký của một ông Bí thư.

Bản án chỉ giản dị vậy và chờ tôi ký tên chấp nhận thật sao? Tôi ngẩng nhìn coi ông Thiếu tá có ý định giải thích gì thêm. Không, hắn chỉ ngó tôi và đã vẫy tay ra lệnh cho gã giám thị hờm sẵn ở cửa, "sửa soạn đưa thằng này đi…, cho thằng kế tiếp vô".

Không thể chấp nhận quá máy móc vậy, tôi bắt buộc phải hỏi lại: "Ủa sao vậy? Tới 8 NĂM ĐI ĐÀY lận? Kinh khủng quá, mà tôi có tội tình gì đâu?". Tôi nói "kinh khủng" nhưng sự thật giọng nói nghe chẳng có gì "kinh khủng" và chính ông Thiếu tá NKVD cũng biết điều đó. Hắn đưa tay chỉ vào chỗ trống trên tờ giấy, lơ đãng biểu: "Đây, chỗ này! Ký cho rồi đi cha".

Tôi ký chớ. Ký liền tức thì. Vì còn làm gì khác được ngoài việc đặt bút ký? Nhưng bề nào cũng phải nói với một câu, chớ cứ lẳng lặng ký ngoan ngoãn vậy sao?

"Ký thì ký đây! Nhưng phải cho tôi viết thêm vài hàng kháng cáo chớ. Tôi có làm gì đâu mà khi không lãnh tới 8 năm, bất công vậy?"

Ông Thiếu tá gật gù, với tay lấy một tờ ở chồng giấy bên trái chìa ra trước mặt tôi, nói tỉnh bơ:

"Đây, kháng cáo. Luật pháp đã dự liệu rồi! Có sẵn mẫu giấy đây…"

Tất cả đã diễn tiến máy móc. Chưa xong gã Giám thị đã tới sát bên tôi: "Thôi, đi đi…".

Tôi đứng dậy đi theo liền, ngoan ngoãn.

Nhiều người không chịu ngoan như vậy. Như Geogri Tenno lúc cầm bản án 25 năm đã lên tiếng: "Hai mươi lăm năm kể như chung thân còn gì? Thời quân chủ tuyên bản án chung thân là phải đánh cồng tập hợp dân chúng lại, công bố đàng hoàng. Bây giờ chỉ một mảnh giấy như bông lãnh xăng cỡ này là đi!"

Arnold Rappoport còn hăng hơn. Hắn viết ngay sau lưng bản án: "Tôi cực lực phản đối bản án khuyên bảo, bất hợp pháp này và đòi hỏi phải trả tự do cấp kỳ". Ông sĩ quan NKVD chờ chữ ký cầm lấy đọc, uất quá xé tan. Nhưng bản án cố nhiên vẫn còn. Đây chỉ bản sao mà.

Trái lại, Vera Korneyeva hí hửng ký, thiếu điều giật vội lấy mảnh giấy ký lập tức "kẻo họ đổi ý kiến thì khổ". Đang sợ bị 15 năm mà liếc nhìn chỉ thấy một con số 5 thì mừng quá! Gã sĩ quan ngờ vực hỏi: "Bà có nghe tôi vừa đọc cái gì không?". Thì Vera cười ha hả: "Nghe chớ. Có 5 năm đi đày Trại Cải tạo chớ gì?".

Janos Rozsas người Hung bị 10 năm nhưng bảo ký là ký gấp. Nghe tuyên đọc (bằng tiếng Nga) có hiểu mù tịt gì. Họ lại đọc ngoài hành lang xà lim nên Janos cứ nằm chờ bản án mãi! Đi đày rồi cũng chỉ nhớ mang máng…

Lúc được trả về nhóm, tôi mỉm cười. Thấy vui vui, rõ ràng nhẹ thở hẳn. Mới có 8 năm mà. Bọn họ lãnh một chục năm chẵn, kể cả "thầy bói sáng" Valentin! Kẻ đau khổ gần chết là gã kế toán 5 năm, nhẹ nhất đám rồi đến tôi.

Bên ngoài cửa sổ nắng xuân reo vui, gió xuân mơn man, tiếng chim ríu rít, hạnh phúc biết mấy! Bên trong chúng tôi cũng bắt đầu cười vì mọi sự tiến hành tốt đẹp quá, và gã kế toán có 5 năm đã ngất xỉu được! Nực cười cho những niềm hy vọng ngớ ngẩn hồi sáng, bà con "tiễn biệt" lâm ly quá. Cứ tưởng "kẻ ở người về" thật, nhiều thằng đã dặn "mật hiệu" y củ khoai luộc mà.

Khốn nạn, lúc bấy giờ vẫn còn những thằng tin "Yên chí đi! Vấn đề thủ tục phải tiến hành vậy thôi. Rồi sẽ về hết! Tổng đại xá đến nơi…".

"Đúng vậy, Stalin tuyên bố với nhà báo Mỹ, có đăng báo đàng hoàng mà".

"Nhà báo Mỹ hả? Nhà báo Mỹ tên gì?"

"Tên gì tôi quên rồi! Chỉ nhớ sắp tổng đại xá…"

Tụi tôi cười nói cho đến lúc được lệnh xách khăn gói lên, sắp hàng hai đi ngược trở ra, lại đi ngang mảnh vườn hoa nhỏ. Và lại đi tắm, trời đất! Sáng mới tắm giờ lại tắm nữa. Quần áo lại phải cởi ra, khăn gói lại treo trên mắc. Xà bông hôi khét nhưng vòi nước nóng vẫn dễ chịu lạ. Được đi tắm cả bọn lại xôn xao, cười nói. Vui như học trò đi thi về chớ chẳng phải đám tù sắp đi đày. Cũng may là còn cười được để "bồi dưỡng cơ thể" phần nào!

Lựa đúng lúc lau khô người, Valentin tới bên tôi rỉ rả: "Thôi vậy, cho nó xong đi! Tụi mình còn trẻ, còn trẻ, còn sống nhiều. Chỉ cần ở Trại phải lo giữ mồm giữ miệng, họ biểu công tác là làm cho đàng hoàng là khỏi sợ lãnh thêm nữa".

Thì ra gã "thầy bói sáng" đã có kế hoạch chương trình đi đày rồi. Cứ vậy mà sống thì còn có hy vọng. Niềm hy vọng của hạt lúa nhỏ nhoi mắc kẹt giữa cái cối xay đá Stalin! Ai cũng muốn sống làm việc đàng hoàng ngậm miệng cho xong. Rồi ráng quên hết.

Nhưng trong tôi một sự thật chợt lóe lên: nếu muốn sống điều thiết yếu là phải không sống thì thử hỏi còn sống để làm gì?

Chế độ đi đày do quyết định Hội đồng An ninh chẳng phải sáng tác sau Cách mạng. Nữ hoàng Catherine không thích ông nhà báo Novikok nên phạt tù 15 năm có cần đưa ra Toà xử đâu. Hậu duệ của ông bà vua nào chẳng lâu lâu ghét mặt thằng nào hạ gục thằng ấy?

Từ 1860 mới canh cải chế độ tư pháp, từ vua quan đến dân đều ý thức vai trò tư pháp rõ hơn. Vậy mà Korolenko đào bới lại lịch sử khoảng 1870 – 1880 vẫn vạch ra thiếu gì những "biện pháp hành chính" giẫm lên quyết định của Toà án. Năm 1872 chính đương sự và 2 sinh viên cùng bị ông Thứ trưởng Tài nguyên Quốc gia tống đi đày… khỏi đưa ra Toà. Sau đó 2 anh em Korolenko còn bị đày đi Glazov. Vị "đại diện nông dân" Fyodor Bogdan lên bệ kiến nhà vua đã bị nhà vua cho đi đày, cũng như Pyankov được Toà tha bỗng vẫn có lệnh vua cho đi an trí như thường. Còn Vera Zssulich bỏ trốn ra nước ngoài vẫn có thư về vạch rõ: Không trốn vì sợ Toà tống giam mà không muốn đày đoạ tấm thân vì "biện pháp hành chính".

Những "biện pháp hành chính" kiểu bản án đánh máy sẵn chia làm 2 cột đã có từ lâu nhưng hiển nhiên ở một nước Á châu ngái ngủ còn được nhưng ở một xã hội văn minh tiến bộ gương mẫu thì không thể chấp nhận. Ai cho ra "biện pháp hành chính"? Hội đồng An ninh (OSO). Nhưng Hội đồng An ninh là ai? Là Nga hoàng, là ông Thống đốc, ông Thứ trưởng chẳng hạn. Tại sao Hội đồng An ninh lại có đặc quyền ghê gớm đó?

Danh từ Hội đồng An ninh chính thức xuất hiện khoảng 1920 trở đi với thủ tục tam đầu, công tác thường xuyên. Nghĩa là một bộ ba lập thành Hội đồng, họp kín trong phòng để thường xuyên qua mặt Toà án! Lúc mới đầu còn sử dụng mỹ từ "Ủy ban tay ba của GIẢI PHẪU" sau chẳng cần giấu tên các ông trong Ủy ban! Có thằng nào đi đảo Solovesty mà không nhớ quý danh bộ ba lừng danh của Mạc Tư Khoa? Gleb Boky, Vul và Vasilyev. Nghe chữ troika quả lạ tai. Dường như nó gợi nhớ hình ảnh một cỗ xe trượt tuyết thời cổ, nó tượng trưng cho cả một bí mật.

Tại sao phải cần bộ ba, troika? Toà án đâu phải Bộ Tư, cần sự thay thế của nó? Vả lại troika đâu thể là Toà án được?

Bộ ba troika dễ sợ ở chỗ nó chỉ họp kín, chỉ chiếu hồ sơ quyết định, không cần bị can. Bộ ba chỉ cần cho ra quyết định trên mảnh giấy nhỏ để "ký tên vô đó" nên khủng khiếp hơn Toà án Nhân dân nhiều. Tụi tôi hình dung bộ ba như một cơ quan cực kỳ bí mật. Từ ăn ngủ đến làm việc troika giống người khác, chừng bắt tay vô việc là không ai có quyền biết. Bộ ba tự cô lập trong bí mật để cho ra những bản đánh máy mà nạn nhân chỉ có quyền đọc hay nghe đọc rồi ký tên chớ không được giữ.

Những ủy ban tay ba chỉ xuất hiện trên giấy tờ, không ai biết mặt mũi ra sao, có nhiệm vụ ghê gớm là không trả tự do cho một thằng nào bị câu lưu điều tra. Nếu ngành Kỹ thương có Sở Kiểm soát Phẩm chất hàng hoá để cấm chặn hàng xấu thì người xấu có troika GPU lo liệu! Trường hợp không có tội, không đưa ra Toà xét xử được thì troika vẫn có thẩm quyền cho hưởng thủ tục giảm khinh (thủ tục 32) nghĩa là biệt xứ, không được lai vãng các đô thị lớn hay cho đi an trí vài ba năm để "đẩy ra ngoài lề sinh hoạt xã hội" ở một địa phương nào đó.

(Kể ra còn nhắc tới danh từ có tội là còn lạc hậu vì nhà nước tống giam kẻ nào chẳng phải vì nó có tội mà vì nó là mầm mống đe doạ an ninh xã hội. Nói cách khác vô tội nhưng bị coi có thể làm hại cho xã hội cũng tù. Ngược lại, có tội nhưng được xã hội chấp nhận ắt sẽ được phóng thích. Ngay Bộ Hình Luật 1926 còn bị ông Chưởng lý Vyshinsky – sau trên ¼ thế kỷ áp dụng – chỉ trích là "nặng tinh thần tư sản không chấp nhận được", là "thiếu hẳn giai cấp tính" cũng như "quá đặt nặng vấn đề cân nhắc hình phạt căn cứ theo tội trạng").

Tôi không có bổn phận viết về lịch sử cái gọi là troika đó cũng như biến nó thành Hội đồng An ninh lúc nào, đổi tên ngày nào hoặc tỉnh nào cũng có Hội đồng An ninh địa phương hay chỉ có ở Trung ương. Tôi cũng không vạch rõ ông lớn nào có tên trong Hội đồng An ninh, Hội đồng họp mấy ngày một lần, mỗi lần bao nhiêu lâu và lúc họp có nước trà giải khát, có chuyện vãn hay các ông Hội đồng chỉ cắm cúi vào hồ sơ. Tôi chẳng phải thứ sử gia ấy. Vả lại có được biết gì đâu mà viết?

Chỉ được biết Hội đồng An ninh hình thức là tay ba nhưng căn bản công tác thì nhất thể. Nghĩa là tuy ba mà một. Không biết tên từng đơn vị trong Hội đồng An ninh nhưng chắc chắn Hội đồng gồm đại diện thường trực của 3 cơ quan: một đại diện Trung ương Đảng, một đại diện MVD, một đại diện Viện Công tố.

Tuy nhiên cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu sau này phát giác ra có Hội đồng An ninh nhưng Hội đồng chẳng hề nhóm họp một lần! Tất cả chỉ có một nhóm thư ký đánh máy nhà nghề, chuyên sản xuất những trích lục bản án ma, dưới quyền điều khiển của một cán bộ tổng quản trị. Nhóm thư ký đánh máy hiển nhiên là có và họ có làm việc. Tôi có thể bảo đảm.

Cho đến 1924 thẩm quyền troika chỉ được quyết định tối đa 3 năm đi đày. Từ 1924 trở đi tăng lên 5 năm đi đày trại Cải tạo. Nhưng từ 1937, Hội đồng An ninh có quyền "ra án" 10 năm và từ 1948 trở đi còn nới rộng thẩm quyền tới 25 năm. Nhiều nhân chứng – trong đó có Chavdarov – còn cả quyết thời chiến Hội đồng An ninh còn tuyên nhiều bản án tử hình. Điều này chẳng có gì lạ.

Hội đồng An ninh là một cơ quan mà Hiến pháp không đề cập đến, không hề ghi trong Bộ Hình Luật này. Tuy nhiên đó là một guồng máy xay dễ xài nhất, tiện lợi, không đòi hỏi thủ tục rườm rà, không cần "đánh bóng" bằng pháp lý. Hình Luật đi một đường, Hội đồng An ninh đi một đường riêng. Guồng máy xay cứ tiếp tục nghiến người, không cần một điều nào trong số 205 điều của Bộ Hình Luật. Nhắc tới hay viện dẫn Hình Luật cũng khỏi! Dân đi đày ưa hài hước:

"Có tội gì mà phải cần Toà Án? Đã có Hội đồng An ninh bao hết!"

Nếu Toà án có những điều luật này, bộ luật kia thì Hội đồng An ninh cũng phải quy định một số tội trạng và cần phải có tên tắt cho dễ nhớ. Con nít cũng không thể quên vì các tội trạng tổng quát của Hội đồng An ninh chỉ gồm 10 chữ tắt. Xin nhắc sơ lại dưới đây:
  • ASA: Tội xách động (nhà nước) Xô Viết
  • KRD: Tội hoạt động phản cách mạng
  • KRTD: Tội hoạt động phản cách mạng theo phe Trotsky (tội này chỉ thêm một chữ T nhưng chịu không biết bao nhiêu hành hạ)
  • PSh: Tội tình nghi gián điệp (trường hợp gián điệp rành rành mới đưa ra Toà xét xử)
  • SVPSh: Tội có những tiếp xúc có thể dẫn tới tội Tình nghi gián điệp
  • KRM: Tội có tư tưởng phản cách mạng
  • VAS: Thành phần nguy hiểm cho xã hội
  • SVE: Thành phần có hại cho xã hội
  • PD: Nó hành động phạm pháp (thường dùng để buộc tội các cựu tù nhân từng bị đi đày về)
Ngoài 10 tội tên tắt trên còn thêm một tội gần như có thể gán cho mọi người. Đó là tội chắc chắn, tức người cùng gia đình, thân thuộc của một người bị đày vì 1 trong 10 tội nói trên.

Xin nhớ 11 tội của Hội đồng An ninh không áp dụng nhất loạt, mỗi thời đại mỗi khác. Cũng như các điều luật và Sắc lệnh đặc biệt, có giai đoạn áp dụng ào ào như nạn dịch vậy. Cũng đừng quên Hội đồng An ninh không tuyên án. Hội đồng An ninh chỉ sử dụng biện pháp trừng phạt hành chánh mà thôi nên cố nhiên Hội đồng có quyền độc lập về pháp lý. Không phải một bản án nhưng "biện pháp hành chánh" của Hội đồng An ninh ngoài việc cho đi đày tối đa 25 năm còn thêm những khoản sau:
  • Tước bỏ chức tước, cấp bậc, huy chương
  • Tịch thu tài sản
  • Câu thúc thân thể
  • Cấm chỉ liên lạc thư từ, tiếp xúc
Một nạn nhân của "biện pháp hành chánh" Hội đồng An ninh bị biến khỏi mặt đất quá dễ dàng, chắc chắn hơn bản án của Toà án rừng nhiều. Độc hại nhất là nạn nhân hoàn toàn không có quyền thượng tố… nghĩa là không có cơ quan nào – hoặc lớn hơn, hoặc ngang hàng – để mà kháng cáo! Hội đồng An ninh chỉ chịu lệnh Bộ trưởng Nội An, Stalin và quỷ Sa-tăng!

Lại nữa, nhịp quyết định của Hội đồng An ninh vô cùng mau lẹ! Tất cả chỉ là đánh máy, nên chỉ sợ máy chữ đánh không đủ nhanh.

Còn điểm thuận lợi này mới đáng kể: Hội đồng An ninh không xử mà chỉ quyết định kín, căn cứ theo hồ sơ. Đỡ phải thấy mặt nạn nhân, đỡ phí tổn chuyên chở và một bức hình can phạm cũng khỏi tốn. Thời buổi tiết kiệm, nhà tù quá đông, đỡ phải nhốt những cái miệng ăn hại! Chỉ chưa xong hồ sơ còn được thí miếng bánh nhà nước. Hội đồng an ninh có quyết định là tống đi đày tức khắc để "lao động cải tạo". Nếu cần thì người đi trước, quyết định của Hội đồng sẽ gởi tới trại sau!

Thông thường bọn tù đi đày đều là "người đi trước", đi xe lửa. Lúc tới trạm xuống là bị lùa xuống, quỳ ngay ngắn dọc đường rầy để kiểm soát và tránh đào tẩu. Cảnh tượng này trông như họ quỳ gối trước Hội đồng An ninh để lắng nghe tuyên đọc thời hạn đi đày. Có khi tới trại Cải tạo (như trại Perebory 1938) mới có ông thư ký Ban Tiếp nhận cầm danh sách đọc. Chẳng hạn như: Tên X, tội SVE, 5 năm (thì ra công trường đào kênh Volga – Mạc Tư Khoa đang đòi hỏi gấp một số nhân công vĩ đại).

Nhiều kẻ đến trại, "lao động" mấy tháng vẫn chưa biết Hội đồng An ninh quyết định ra sao về số phận mình. Như trại Stalino, Ban Quản đốc lựa đúng ngày lễ Lao động 1-5-1938, treo cờ tưng bừng để đọc cho nghe quyết định của Hội đồng An ninh (thời gian này vì nhu cầu nhân công quá cao nên Hội đồng An ninh phải tản quyền về địa phương). Mà quyết định của Hội đồng An ninh địa phương đâu phải nhẹ. Từ 10 đến 20 năm.

Cũng năm đó, một đám Zek được đổi trại từ Chelyabinsk tới Cheropovets, chưa có quyết định. Đợi mấy tháng vẫn chưa có. Một hôm trời giá lạnh quá lại nhằm ngày nghỉ bị kêu tập họp ở sân trại để nghe ông Trung úy vừa tới trại thông báo quyết định của Hội đồng An ninh. Có lẽ ông sĩ quan trẻ còn chút lòng thương mấy thằng tù giày dép không đủ ấm mà phải đứng đợi lâu trên nền đất băng giá nên ra lệnh:

"Trời giá lạnh cỡ này mà tập họp làm chi cho khổ thân? Giá chung Hội đồng An ninh lần này cho các anh là 10 năm chẵn. Chỉ rất ít, rất ít được 8 năm. Nói vậy hiểu chưa? Thôi, giải tán!"

Bộ máy Hội đồng An ninh đã làm việc hiệu quả, trơn tru như vậy thì hà tất phải có Toà án? Có xe lửa tối tân, đi êm không tiếng động, tù lại không trốn nổi thì tại sao phải xài xe ngựa? Bộ tính nuôi mấy quan Toà cho mập chắc?

Nhưng không lẽ một quốc gia dân chủ lại không có Toà án? Năm 1919, một trong những mục tiêu do Đại hội Đảng kỳ thứ 9 đề ra là "tích cực hướng dẫn công nông học tập đường lối tư pháp". Hướng dẫn công nông sinh hoạt tư pháp thì hơi khó. Việc xử án tế nhị, phức tạp quá mà! Nhưng "bỏ qua" toà án thì không xong! Tuy nhiên toà Chính trị, toà Quân sự, từ cấp dưới đến Tối cao Pháp viện đều noi gương Hội đồng An ninh: làm việc cấp tốc, không mất thời gian xử án lôi thôi, khỏi tranh luận giữa hai bên nguyên bị. Đặc điểm số một của tổ chức tư pháp của chúng ta là tất cả mọi cấp Toà đều giống như ở điểm xử kín. Toà chỉ xử kín dân Nga đâm quen với lề lối xử kín đến độ nghe đòi hỏi "Toà án là phải xử công khai" thì ngay thân nhân những người từng lãnh án cũng cãi lại: "Toà xử mà công khai thế nào được? Địch biết hết còn gì? Phiên xử án cũng là tin tức chớ?

Khốn nạn, chỉ sợ địch biết hết tin tức mà chấp nhận xử kín? Họ có biết đâu ngay dưới thời quân chủ, phạm tội mưu sát nhà vua bằng súng như Karakozov ra toà vẫn có luật sư biện hộ, án chính trị cũng xử công khai không sợ bọn Thổ biết hết tin, Vera Zasulich mưu sát hụt, bắn qua đầu ông Trưởng ty Mật thám thủ đô đâu có bỏ xác trong hầm tra tấn. Phiên toà xử công khai, tha bổng Vera mà nữ phạm nhân còn được xe ngựa đến rước về nhà nữa!

Nói vậy không phải tôi có ý ca ngợi chế độ tư pháp thời Nga hoàng toàn hảo, tốt đẹp. Chỉ một xã hội văn minh, trưởng thành mới có nổi một chế độ tư pháp tốt. Và dĩ nhiên người bình dân Nga chẳng ưa gì Toà án, chứng cớ là Vladimir đắc lực nghiên cứu phong tục thời xưa đã xác nhận "trước thời đại giải phóng nông nô, kho tàng ca dao tục nữ Nga không hề có một câu ca ngợi Toà án bao giờ"! Nhưng ít nhất cũng có một cuộc cải tổ chế độ tư pháp năm 1864 để ít nhất xã hội thị dân Nga cũng bắt kịp Anh quốc về tổ chức Toà án.

Chính nhà vua Dostoievsky từng công kích lối xử án có Bồi thẩm đoàn và có các ông luật sư tranh luận chỉ cốt để trổ tài hùng biện. Theo Dostoievsky thì nhiều khi Bồi thẩm bị quyến rũ theo các cuộc lý sự đó mà quên phứt trách vụ công dân. Đồng ý những cuộc hùng biện quá trớn đó cũng có ảnh hưởng phần nào đến một chế độ tư pháp đang thời kiện toàn. Có thể là một chứng bệnh dân chủ nữa nhưng dù sao không độc hại bằng lối xử kín. Cũng Dostoievsky mơ tưởng đến một lề lối xử án mà tất cả những yếu tố cần yếu cho sự bênh vực can phạm đều được chính Ủy viên Công tố trù liệu hết. Đẹp quá, nhưng bao giờ có nổi, trong khi luật sư biện hộ thời buổi này – nhân danh công dân Xô Viết – buộc tội bị cáo là chuyện thường thấy!

Toà xử kín thuận lợi cho mấy ông thẩm phán quá. Dễ làm việc, khỏi cần áo thụng mà xắn tay áo lên còn được mà. Không máy phóng thanh, không có nhà báo, không công chúng. Lâu lâu cũng có mấy hàng ghế công chúng nhưng toàn một mặt điều tra viên! Ở Toà Lêningrad nhân viên cơ quan ưa theo dõi tận phiên toà để coi cung khai ra làm sao để nếu cần đêm đến xuống tận xà lim "hỏi thăm".

Đặc điểm thứ hai của các phiên toà xử Chính trị của ta là quan toà chỉ ngồi cho có, bản án đã có sẵn từ trước rồi [1] . Cấp trên muốn gì, quan Toà phải biết rồi (nếu cần chỉ phải nhấc điện thoại lên!). Nghĩa là bắt chước bên Hội đồng An ninh, Toà cho lập những bản án có sẵn, đánh máy để trống chỗ điền tên họ tù nhân bằng tay.

Năm 1942 trước phiên toà quân sự quân khu Lêningrad, phạm nhân Strakhovich kêu ầm lên:

"Xin Toà xét cho, năm ấy tôi đăng lính cho Ginatovsky thế nào được? Tôi mới 10 tuổi mà."

Ông Chánh thẩm gạt phăng, nạt lớn hơn: "Coi chừng! Bị can không được phép mạ lỵ Sở Quân báo nghe!"

Cũng phiên toà đó được lệnh sẵn: đứa nào dính dáng đến Ginatovsky là xử bắn hết. Kẹt một thằng tên Lipov không hiểu sao dính vô vụ này nhưng trước Toà, cả nhóm không biết mặt hắn mà Lipov cũng chẳng biết ai. Vì vậy chỉ bị 10 năm tù!

Xét cho cùng Toà xử theo lệnh trên càng đỡ khổ cho ông thẩm phán. Chẳng phải thắc mắc, ân hận vì xử oan ức cho một ai! Vì đỡ phải cân nhắc tội trạng nên nghiêm khắc nổi tiếng như Chánh án Ulrikh – chuyên viên tuyên án tử hình – cũng tự cho phép đùa bỡn, vui vẻ một chút. Chính Ulrikh người lùn, mập ngồi Chánh thẩm phiên toà quân sự xử bọn tự trị Estonia năm 1945 đã luôn miệng giễu cợt với các đồng nghiệp và cả tù nhân. Gọi đến tên Susi, biết hắn là luật sư nổi tiếng nên quan toà "chọc quê":

"Rồi, nghề của chàng đây! Thử trổ hết tài coi có hơn chút nào không?"

Làm sao hơn được? Lệnh trên đã quyết định rồi: phiên toà có xử (hay không) thì mỗi người trong nhóm Susi cũng lãnh đều 10 năm!

Vì lẽ đó phiên Toà diễn ra êm ả, vừa xử vừa hút thuốc cũng còn được, xế trưa tạm ngừng để ăn cơm trưa và tối đến ra lệnh cho tù ngồi đợi suốt đêm, đợi Toà đình nghị án. Đêm hôm mà nghị án gì? Các ông toà về nhà ngơi nghỉ, để 9 giờ sáng hôm sau quần áo tươm tất, râu tóc cạo đàng hoàng… ông Chánh thẩm bước vô oai vệ hết:

"Mọi người đứng lên! Toà tái nhóm…"

Toà tái nhóm, Toà nghị xử rồi Toà tuyên án! Vì bản án có sẵn và Toà còn diễn "phường tuồng" như vậy nên nhiều người cho rằng thà trắng trợn như Hội đồng An ninh còn hơn đóng kịch máy móc.

Đặc điểm thứ ba và cuối cùng của Toà án là xử theo biện chứng. Có điều khoản, có bộ luật rành rành nhưng xét vì "luật pháp không phải là đá tảng chặn đường" nên người ngồi xử án phải áp dụng biện chứng để linh động hoá việc xử án theo chiều hướng tiến bộ, thích nghi với hoàn cảnh. Đúng nghĩa nôm na của câu: "Miệng nhà quan có gang có thép!"

Ngay bên cạnh mỗi điều khoản của Bộ Hình luật đã có sẵn các hình thức suy diễn, chiều hướng, chỉ thị, để tròng vào cổ bị can. Mà dù hành động của bị can không một điều luật nào dự liệu trừng phạt cũng còn có thể tuyên án căn cứ vào một trong 3 biện chứng:
  1. Suy diễn để đồng hoá tội trạng (danh từ "suy diễn" tự nó đã rộng nghĩa chán!)
  2. Xét tới gốc gác, giai cấp. Chẳng hạn xuất thân giai cấp phản động, phản cách mạng [2] .
  3. Xét tới liên hệ, tiếp xúc với những phần tử nguy hiểm [3] . Biện chứng thứ ba này vô cùng linh động: biết ai là phần tử nguy hiểm? Định nghĩa thế nào là liên hệ?
Xin đừng phàn nàn "biện chứng pháp cao su"! Ngay Sắc luật tuyên hủy án tử hình cũng thình lình bị Sắc luật ngày 13 tháng 1 năm 1950 hủy bỏ dễ như chơi. Vả lại trên thực tế có bao giờ án tử hình không tồn tại! Nhân chứng Beris còn đó! Sắc luật mới tròng án tử hình lên những phần tử phá hoại, gây rối trị an. Nhưng thế nào là hành động phá hoại, gây rối thì Sắc luật không quy định rõ. Lửng lơ vậy mới dễ suy diễn! Phải chăng dùng chất nổ TNT phá tung một khúc đường rầy mới là phá hoại? Không phải. Sản xuất hàng xấu, không đúng tiêu chuẩn cũng là phá hoại kinh tế. Còn phá rối thì hai người ngồi xe điện nói chuyện với nhau cũng có thể bị kết tội âm mưu phá rối trị an vậy! Lấy chồng ngoại quốc cũng có thể liệt vào hạng có hành động gây rối dễ như không…

Thực tế quan toà không xử án. Quan toà chỉ lãnh lương tuyên án. Xử án đã có các chỉ thị. Chỉ thị năm 1937: mười năm, hai mươi năm, xử bắn. Chỉ thị năm 1945: giá chung 10 năm cho tất cả mọi người, cộng thêm 5 năm an trí (vừa vặn 3 đợt nhân công cho 3 kế hoạch ngũ niên). Chỉ thị năm 1949: đồng loạt 25 năm hết [4] .

Cũng như Hội đồng An ninh, Toà án được quan niệm như một thợ máy phát án, một đầu máy xe lửa kéo con người vào tù đày. Ngay lúc đặt chân vô phòng tuốt người của Nội an, từng hàng nút áo bứt ra là tù chắc. Hết cựa quậy mà có bị chồng án, kéo dài ngày ra cũng chẳng đến nỗi. Vì quan niệm chắc chắn và ngấm lâu đến quen quá mất rồi nên năm 1958 những đấng quen ra chỉ thị bị hố một cú quá nặng khi cho ra chỉ thị mới: "Nguyên tắc căn bản về thủ tục hình án Liên Sô". In trên báo rồi mới quên không chừa chỗ cho một trường hợp miễn nghị nào hết! Nhật báo Izvestiya ngày 10 tháng 9 năm 1958 nhẹ nhàng sửa lưng: "Chỉ thị như vậy dễ khiến người ta có cảm tưởng, các toà án của chúng ta chỉ có trừng phạt mà không có tha".

Tuy nhiên có thể đặt vấn đề. Tại sao cứ bắt buộc bản án của toà phải có 2 chiều là tống giam tha bổng, trong khi tổng tuyển cử chỉ có một chiều độc diễn. Xét về kinh tế thì không thể có vấn đề tha bổng! Tha bổng phạm nhân nào là vô hiệu hoá bao nhiêu công tác, bao nhiêu cán bộ làm việc, kể như không sao. Nào điểm chỉ viên, mật báo, nhân viên đi bắt, điều tra viên thẩm cung. Công tố viên truy tố, thẩm phán ngồi xử đều vô ích. Còn giám thị gác khám, còn công voa đưa đi đày…

Dưới đây là một trường hợp xét xử điển hình của Toà án Quân sự. Năm 1941 đạo quân trú phòng Mông Cổ nhàn nhã quá nên có chỉ thị An ninh quân đội phải gia tăng hoạt động. Viên trợ y nhà binh Lozovsky biết thóp bèn áp dụng chỉ thị lập tức để quất tình địch là Trung úy Pavel Chupenyev. Lựa lúc rỗi rảnh chỉ có 2 đứa, Lozovsky bèn gợi chuyện "thảo luận thân mật" để cho ông Trung úy vào bẫy. Đề tài thứ nhất:

"Tại sao quân ta cứ triệt thoái mãi trước quân Đức vậy?"

"Tại chúng trang bị mạnh hơn, chúng điều động trước nên giành được chủ động."

"Đâu phải! Đó là chiến thuật ta triệt thoái để nhử địch vào sâu!"

Đề tài thứ hai:

"Anh có tin là Đồng minh sẽ viện trợ chúng ta?"

"Chắc chắn Đồng minh sẽ viện trợ nhưng chẳng phải giúp chúng ta khơi khơi."

"Xin lỗi. Họ cho chúng ta ăn bánh vẽ. Sẽ chẳng viện trợ gì hết!"

Đề tài thứ ba là: "Theo anh, tại sao Thống chế Voroshilov được gởi qua chỉ huy chiến trường Tây Bắc?". Sau mục "thảo luận thân mật" tay đôi cố nhiên Trung úy Chulpenyev được Phòng Chính trị Sư đoàn gọi lên, bị Đoàn Thanh niên Cộng sản khai trừ lập tức về 3 tội: (1) tinh thần chủ bại, (2) đề cao giá trị vũ khí địch và (3) đánh giá thấp chiến lược của Bộ Tổng Tư lệnh.

Trước phiên bình nghị, tố Chulpenyev hăng nhất là Bí thư đoàn Thanh niên Kalyagin. Chẳng là hắn tác phong quá hèn hạ trong trận Khalkhin Gol mà Chupenyev lại biết tẩy nên hắn mượn dịp quật địch thủ trước. Sau khi bị câu lưu, Chupenyev được gặp gã trợ y để đối chất theo thủ tục. Điều tra viên không chờ đối chất về nội dung cuộc thảo luận tay đôi mà chỉ hướng về nhân chứng Lozovsky hỏi một câu duy nhất: "Chulpenyev, anh biết người này không? Có hả? Tốt, cám ơn. Nhân chứng có thể về!"

Thì ra cuộc đối chất biến thành đối diện! [5]

Đơn vị đóng ở Mông Cổ nên Chulpenyev được nếm mùi "nằm giếng cá nhân". Một tháng sau mới được đưa ra phiên toà của Sư đoàn 36 cơ giới, hiện diện có Chính ủy Sư đoàn 36 Cơ giới, hiện diện có Chính ủy Sư đoàn Lebedev và Trưởng phòng Chính trị Slesarev. Nhân chứng Lovzovsky không xuất hiện. Sau này chỉ có chữ kỹ trong hồ sơ. Trước Toà bị cật vấn, Chupenyev cứ sự thật khai và còn nhấn mạnh: "Tôi nói vậy có gì hại đâu? Nhiều người cũng nói có sao?". Toà vặn hỏi: "Ai nói? Cho tên họ đi". Đời nào chịu khai bậy, bị can bèn chối quanh và xin được nói "lời nói chót" là để chứng minh lòng yêu nước xin Toà cứ gởi đến một chỗ nào chắc chết nhất và nếu có thể xin mời ông bạn đã tố cáo đi cùng!

Có đời nào Toà quân sự lại trẻ con, chấp nhận đề nghị "anh hùng rơm" đó? Mật báo viên đã làm xong công tác thì Toà cũng phải làm công tác trừng trị để ngăn ngừa những thành phần nguy hiểm, tư tưởng lệch lạc chứ? Toà đình xử để các quan toà hút thuốc lá và nghị án. Sau đó bản án của Trung úy Chulpenyev là 10 năm tù cộng 3 năm an trí.

Thế chiến II vừa qua mỗi Sư đoàn phải có ít nhất 10 vụ Chulpenyev. Nếu không chẳng hoá ra lập Toà Quân sự cấp Sư đoàn tốn tiền vô ích? Mà chúng ta có bao nhiêu Sư đoàn cả thảy? Đó cũng là lý do những phiên toà quân sự đâm nhàm chán, buồn nản như khuôn mặt quý vị thẩm phán nhà binh. Bản án đã có giá sẵn, thi hành nhất loạt nên quan toà chỉ đóng vai những máy đóng dấu.

Toà như vậy, tuyên án như vậy nhưng ai ai cũng làm nghiêm trang quan trọng, dù biết là phường tuồng hết ráo! Lính áp giải vẫn gốc nông dân, đụng chạm quá nhiều với thực tế càng biết nhiều hơn hết. Nếu không ở trạm dọc đường Novosibirk năm 1945. Ban Tiếp nhận đâu có lối điểm danh phạm nhân lần lượt theo thứ tự điều khoản trừng phạt? Chẳng hạn như:

"Nào bạn 58/1A "đi" 25 năm đứng ra đây!"

Hoặc gã trưởng toán áp giải có thể hỏi một thằng: "Sao, anh làm gì mà bị?" Nghe trả lời: "Tôi có làm gì đâu", hắn cười gằn:

"Anh nói láo! Không làm gì đâu thì chỉ 10 năm."

Gặp trường hợp khẩn Toà Quân sự ngồi một vụ đâu có đến 1 phút. Đứng lên, ngồi xuống là xong! Những lần phải xử 16 giờ liên tiếp, Toà rút vào trong nghị án thì lúc nhìn vô sẽ thấy một bàn đầy trái cây trải khăn trắng. Lâu lâu rỗi rảnh các quan toà nhà binh mới chơi trò tâm lý, nồ phạm nhân bằng bản án tối đa để cho nó lịm người đi đã. Sau một hồi quan sát, ông Chánh thẩm mới hạ giọng: "Xét vì bị can thành khẩn hối ngộ, Toà truyền…".

Có dịp ghé mắt coi phòng xử án Toà Quân sự, để ý chỗ vách tường phòng tù ngồi đợi phiên xử thế nào cũng thấy cả rừng "lưu bút" nguệch ngoạc bằng viết chì hoặc móng tay. "Tử tội X…". "Kẻ lãnh 25 năm…". "Tôi 10 năm". Dĩ nhiên muốn xoá bỏ thì quá dễ nhưng nhà nước có ý để chúng nằm đấy để dằn mặt phạm nhân ngồi đợi xử:

"Cứ coi đấy! Đừng tưởng trước toà chối tội mà dễ. Muốn giở trò gì thì án vẫn là án!"

Đúng thế, cho dù có hiền như cừu, có khúm núm cũng một bản án. Dám hùng biện, tranh luận với quan toà hăng cỡ Olga Slioberg trước Tối cao Pháp viện năm 1936 cũng vô ích. Có ai làm cử toạ đâu, ngoài mấy ông Điều tra viên? Chỉ muốn tăng án là dễ ợt: Thay vì 10 năm muốn tử hình cũng được! Đó là trường hợp Nikolai S. Daskal, năm 1937 ra toà đặc biệt ở Maikop đã nổi hung chửi vào mặt phiên toà do Chánh thẩm Kholik chủ toạ:

"Tụi bay là những quân Phát-xít! Tao lấy làm hổ thẹn mấy năm trời đã hoạt động trong Đảng của chúng bay."

Dĩ nhiên bản án Daskal chỉ có thể tử hình. Nó đã dám mạ lỵ Đảng và cán bộ Đảng trước phiên Toà thì xử nó một lượt cho rồi, đỡ phải xử lần nữa.

Trường hợp bị cáo phản cung trước Toà thì sao? Cũng được, song coi chừng. Cả nhóm phản cung toà vẫn có biện pháp xử trí rất êm.

Chavdarov kể lại một phiên toà lớn, bao nhiêu bị cáo phản cung hết, chối hết tội. Công tố viên gật đầu đứng dậy, đưa mắt nhìn Toà. Vài giây sau Toà tuyên đình, khỏi nêu lý do. Các bị can được đưa khỏi phòng xử. Một số điều tra viên và "phụ tá" từ khám giam cứu chạy sang gấp. Mỗi điều tra viên lãnh một mạng phản cung đưa ngay vô một phòng nho nhỏ ở gần đó. Những gì hiện ra bên trong ai cũng biết. Chừng điều tra viên xong việc thì Toà tái nhóm và lần này chẳng bị cáo nào phản cung hết (vì Toà mà đình xử lần nữa thì nguy quá! Điều tra viên vừa "dặn" hờ mà!).

Vụ án rắc rối nhất mà Toà phải xử thực sự có lẽ là vụ của đồng chí Aleksandr G. Karetnikov, Giám đốc Nha Khảo cứu ngành Dệt [6] . Trước khi Tối cao Pháp viện, ban Quân sự nhóm xử, Karetnikov "rỉ tai" lính gác. Gã chạy đi ngay và ông Chưởng lý đồng ý cho gặp gấp vì có mấy khi tự ý phạm nhân chịu khai thêm, khai nhiều chi tiết mới? Tưởng gì, phạm nhân chìa một bên xương quai xanh gãy còn chưa lành cho ông Chưởng lý coi và tuyên bố: "Đấy, bản tự thú như vậy đấy". Ông Chưởng lý "khoái khai thêm" biết mình hố, dính vào vụ rắc rối này dễ kẹt lắm lắm. Vị đại diện Công tố đâm rét, không dám quyết định và đã lỡ cưỡi cọp, Karetnikov đành liều làm tới. Ông Chưởng lý không dám tha, đành để Toà xử.

Trước toà, Karetnikov vẫn chìa chỗ xương gãy ra. Toà Quân sự chưng hửng đành phải nghị xử thực sự. Toà không thể trơ tráo kết tội mà cũng không dám tha bổng, bèn tuyên bố bế mạc, phạm nhân không có án!

Tuy nhiên, Karetnikov thay vì tự do thì chỉ được trả về khám giam cứu. Xương gãy chữa 3 tháng vừa hết lại lãnh trát mới, có ông điều tra viên mới.

Điều tra viên mới hỏi cung rất tử tế khiến Karetnikov tưởng đâu cứ làm tới chắc được tha bổng, làm găng luôn, không nhận bất cứ tội trạng nào. Đúng, hồ sơ không có gì thì Toà xử sao được? Nhưng đã có quyết định của Hội đồng An ninh. Nghĩa là vẫn 8 năm tù! Hội đồng An ninh đã lườm sẵn để làm công việc thay Toà cho tiện, dù Toà án vẫn bị thi sĩ Drezhavin "hạ" bằng mấy vần thơ sau:

Toà không vô tư là Toà ăn cướp
Là nơi Pháp luật ngủ yên
Để dân đen cúi đầu đưa cổ
Ra Toà, cho ông Toà hỏi tội.

Bao nhiêu con người như Karetnikov, như A. D. R… từng được dẫn ra trước phiên Toà ấy chịu phán xét. Tối cao Pháp viện, ban Quân sự! Thời cuộc đổi thay, đến lượt tôi cũng được hân hạnh diễn tiến. Đó là tháng Hai năm 1943, tôi cũng leo 4 thang lầu lên Toà nhưng không phải tội nhân vì bên cạnh tôi có ông Đại tá, chuyên viên nghi lễ rất lịch sử, hào hoa của Đảng. Cũng gian phòng mênh mông, hàng cột cao vút, cũng chiếc bàn móng ngựa khổng lồ bên trong có kê bàn nữa, với 7 ghế cho 7 ông Toà Tối cao ngồi xử. Nhưng bữa ấy tôi được dịp hầu chuyện đông đủ 70 ông Tối cao họp khoáng đại.

Bữa ấy tôi đã nói rằng:

"Thưa quý Toà, hân hạnh làm sao tôi gặp được quý Toà hội họp và đón tiếp long trọng thế này. Xin thú thật tôi là thằng tù bị đày 8 năm và an trí thì gần như vĩnh viễn… vậy mà chưa được thấy mặt một ông Toà nào!"

Theo tôi thì lúc bấy giờ các ông Toà Tối cao chắc phải dụi mắt ngó vì họ đã thấy tận mắt một thằng Zek nào đâu? Nhưng họ không phải thành phần tù cũ, họ xác nhận vậy. Những ông cũ, những ông thời đó không còn ngồi đây nữa. Họ một phần về hưu, một phần bị sa thải (như "chuyên viên tử hình" Ulrikh, năm 1950 dưới thời Stalin cũng bị sa thải. Có thể nào giảm khinh ghê gớm thế?). Có một số bị truy tố dưới thời Kruschhev nhưng đã ngồi hàng ghế bị cáo, có ông còn dám nạt lại rằng:

"Mấy anh coi chừng nghe! Bữa nay tôi đứng ra đây cho mấy anh xử. Nhưng rồi đây chính tôi sẽ xử lại mấy anh!"

Có điều ngày đó không hề có. "Phong trào" Kruschhev bất quá chỉ là lửa rơm, chỉ ồn ào sửa sai lúc đầu để rồi sau đó tắt ngấm. Chỉ được đến đấy là hết!

Làm sao tôi quên được buổi họp mặt hôm ấy và những điều tâm sự, những tiết lộ của những ông toà địa vị cao nhất nước? Có ông lên diễn đàn tố cáo những ông toà chế độ trước, trong các phiên họp công tác dám lấy làm vinh dự vỗ ngực khoe đã thành công hoàn toàn trong việc vận động ngưng giảm khinh. Do đó các đồng nghiệp mới có thể tuyên những bản án 25 năm thay vì 10 năm chớ. Có ông kể tội Toà hồi ấy lệ thuộc Cơ quan một cách quá nhục nhã. Phải nhắm mắt xử theo chỉ thị là thường. Biết sao hơn được? (Thì ra thế!). Có lần cơ quan gửi sang một thằng nào ở Mỹ về can tội nói láo rằng: "Đường sá bên Mỹ tốt hơn bên mình nhiều quá!" để yêu cầu Toà trừng trị. Ông Toà thấy vô lý quá, bèn gởi trả hồ sơ và người về "điều tra lại".

Kết quả là cơ quan nổi nóng, trừng phạt ngay ông Toà đã dám nghi ngờ việc làm của nhân viên cơ quan. Dĩ nhiên ông Toà ẩu vẫn còn làm Toà như thường, nhưng thuyên chuyển ra làm thư ký Toà Quân sự đảo Sakhlin! [7]

Nói gì ông Toà, Công tố viện cũng còn phải nể Cơ quan nhiều quá! Năm 1942 Ryumin đã gây bao nhiêu tai tiếng trong ban phản gián Hạm đội miền Bắc. Cả nước biết, Công tố viện cũng biết nhưng không dám truy tố mà chỉ thông báo lịch sự cho xếp Abakumov! Quả nhiên Abakumov đã không trừng phạt còn kêu đàn em về để cho lên chứ" và sau này bị hạ bệ cũng vì Ryumin.

Phải chi bữa đó còn thời giờ thì tôi hẳn còn được nghe nhiều chuyện gấp mười! Nhưng bấy nhiêu đó xét cũng đủ rồi, có điều tôi ngạc nhiên là vì các ông Toà Tối cao vừa nhìn nhau vừa kể cho tôi nghe một cách giản dị quá. Họ cũng quan Toà. Họ cũng là người mà! Sao họ có thể hào hứng tố cáo dễ dàng như vậy? Họ kể có vẻ thiện chí lắm nhưng tôi có cảm tưởng nếu thời cuộc đổi thay, chính những ông này sẽ lại ngồi xử tôi. Có thể chính trong gian phòng Đại hội này. Cố nhiên là tôi sẽ phải có tội, sẽ phải đi tù chắc.

Như vậy tội ở người hay ở chế độ?

Ngạn ngữ cổ có câu: "Luật pháp không đáng sợ. Nên sợ quan án". Nhưng theo tôi thời buổi này phải lật ngược lại mới đúng vì luật pháp dữ dằn, dã man hơn người nhiều. Nhất là luật pháp của Abakumov!

Bữa hôm đó có ông Toà còn lên diễn đàn ca ngợi cuốn Một ngày của Ivan Denisovich, một cuốn sách đọc xong cảm thấy lương tâm yên ổn. Họ cho rằng những gì tôi nói ra còn quá ít, quá tốt vì thực sự đời sống trong Trại Cải tạo còn thậm tệ hơn nhiều, họ cũng biết như vậy. Trông vị nào cũng trí thức cả, đáng độc giả của Novo Mir cả! Họ hăng hái có ý kiến, nào đòi hỏi cải tổ lại chế độ, nào công kích những ung nhọt xã hội, nhất là ở miền quê.

Ngồi lặng yên trước mặt 70 ông Toà Tối cao hăng say như vậy tôi còn biết nói gì? Tôi ngồi yên và không thể không có cảm nghĩ cuốn Một ngày trong đời Ivan Denisovich dù sao cũng chỉ là một giọt nho nhỏ của Sự Thật. Một giọt mà đã thế. Nếu bao nhiêu Sự Thật trút xuống ào ào như thác nước trên đất nước này thì thử hỏi còn phản ứng đến đâu?

Tôi vững tin thế nào cũng có một ngày. Ngày của Sự Thật phải tới.


8. Bình minh công lý

Không hiểu các dân tộc bạn có vậy không, chớ dân Nga chúng tôi mau quên lắm. Chúng tôi không nhớ nổi chuyện xảy ra mà chỉ nhớ những gì người ta đóng vào đầu óc hoài hoài bắt nhớ. Có thể đức tính mau quên do lòng tốt mà ra nhưng quả dễ bị lừa gạt quá. Nếu người ta muốn chúng tôi quên cả những phiên toà xử công khai thì cũng chẳng nhớ làm chi. Hãy nhớ những gì radio ong óng rót vào tai tối ngày! Tuổi trẻ chưa biết gì không nhớ đã đành, ngay lớp trung niên mắt thấy tai nghe mà hỏi lại về những phiên toà quan trọng quảng cáo rình rang có lẽ họ chỉ nhớ nổi vụ Bukharin, vụ Zinoviev… Nghĩ mãi có thể nhớ ra còn vụ Đảng Kỹ nghệ! Thế là hết, làm như chỉ có bấy nhiêu.

Sự thật thì biết bao nhiêu phiên toà đã diễn ra từ 1918, từ ngày sau Cách mạng. Hồi đó đã làm gì có Luật? Công nông muốn sao thì Toà xử vậy, làm gì có vấn đề hợp pháp hay không? Đó là buổi BÌNH MINH CỦA CÔNG LÝ mà chương sách này sẽ tìm về, băng qua đống tro tàn của quá khứ.

Những năm sôi động đó súng dao còn xài nhiều đâu đã nghỉ ngơi. Mãi sau này mới có lối ban đêm xách người xuống hầm, thảy một viên vào sọ khỉ. Cho đến năm 1918 thủ lãnh Cheka ở Ryazan là Stelmakh còn ra lệnh bắn tù giữa sân, ban ngày cho những đứa khác ngó thấy trước mắt. Hồi đó có danh từ trừng trị bên lề toà án. Không phải không có toà án để làm công việc này mà để Cheka trừng trị thuận tiện hơn [8] . Toà cứ việc xét xử và tuyên án tử hình. Cheka cứ "làm riêng" và làm ngoài lề mà căn cứ theo tài liệu đích thực và những con số khiêm nhường nhất của chính ông Toà Latsis thì thành tích trừng trị "bên lề" của cơ quan trong 18 tháng (năm 1918 và nửa đầu 1919) như sau đây. Chỉ tính 20 tỉnh Trung nguyên tức phân nửa nước Nga nên dù sao cũng phải hiểu dưới sự thật rất xa!
  • Xử bắn: 8.389 vụ
  • Phá vỡ: 412 tổ chức
  • Tống giam: 87 ngàn phản động
Xin ghi nhận tám ngàn ba trăm tám chín người bị xử bắn ngoài lề toà án nên quá ít thì bốn trăm mười hai tổ chức lại quá nhiều, xét vì hồi đó dân Nga quen sống riêng rẽ, nghi ngại nhau mà thực sự họ không đủ khả năng để kết hợp ngần ấy phe nhóm! Cũng như số 87 ngàn người bị bắt thì nào phải chỉ có ngần ấy.

(Theo tài liệu của nhóm Chống lại án tử hình năm 1907 thì suốt 80 năm thời Nga hoàng (1826-1906) tổng cộng có 1.937 án tử hình thì 233 vụ được ân xá, 270 vụ vắng mặt không bắt lại được nên thực tế chỉ có 894 người thực sự chịu án. Nếu kể cả 1906 thì nguyên một năm này đã tuyên 1.310 án tử hình, cộng thêm 950 án mà Toà Quân sự Stolypin tuyên trong 6 tháng hoạt động. Toà Stolypin nổi tiếng sát máu nhất nhưng tính bằng con số còn thua Cheka tới 3 lần, không cần án Toà).

Ở buổi bình minh của Cách mạng, tính từ tháng 11 năm 1917, Toà án toàn quyền xét xử, tuyên án. Cho đến 1919 mới có "Người ra chỉ đạo của hình luật Liên Sô", trong đó đặc biệt có điều khoản "câu lưu cho đến khi có lệnh mới". Có 3 hệ thống Toà án:
  • Toà án Nhân dân
  • Toà án Thông thường các cấp
  • Toà án Cách mạng
Toà Nhân dân chuyên xử những vi phạm, những hình phạm không có tính cách chính trị. Không có thẩm quyền tuyên án tử hình đã đành, còn không được tuyên quá 2 năm tù. Cho đến tháng 7 năm 1918, nếu có yêu cầu đặc biệt của chính quyền, áp dụng từng cá nhân không thể hối ngộ mới được tuyên án 2 năm. Ngoài ra thẩm quyền tối đa 5 năm. Nhưng năm 1922 hết nguy cơ chiến tranh rồi, Toà án Nhân dân lại được tăng thẩm quyền lên 10 năm, với điều kiện không được kêu án dưới 6 tháng!

Toà án thông thường cũng như Toà án Cách mạng ngay từ đầu đã có thẩm quyền tuyên án tử hình nhưng bị rút quyền trong một thời gian ngắn. Toà thường năm 1920 và Toà Cách mạng năm 1921.

Riêng Toà Cách mạng, như tên gọi, đâu chịu ngủ yên. Toà làm việc theo lề lối cách mạng. Mỗi lần một đô thị được giải phóng là một lần khét lẹt mùi khói súng Cheka và duy nhất vì những phiên toà Cách mạng sáng đêm. Đâu phải ít án tử hình. Mà không cần phải Sĩ quan phản động, địa chủ, tu sĩ hay có chân trong các Đảng đối nghịch mới ra Toà Cách mạng. Có bàn tay không có chai cũng đủ chết!

Đó là thời gian những cuộc nổi dậy và đàn áp bùng nổ tứ tung ở địa phương mà thành phần nông dân còn lãnh nặng hơn nữa. Nhất là từ 1918 đến 1921, dù lịch sử Nội chiến không ghi lại những hình ảnh nông dân hè nhau vác gậy vác cuốc vùng dậy chống đại diện để rồi sắp hàng dài dài, tay trói quặt sau lưng chịu chết. Mười mạng đổi lấy một cũng cam! Có điều những cuộc nổi dậy quá lẻ tẻ, địa phương nào biết địa phương ấy, không đếm được.

Sau này ông Toà Latsis mới lập bảng thống kê: ít nhất ở 20 tỉnh đồng bằng năm 1918 và 6 tháng đầu 1919 nhà nước cũng phải dẹp tới 344 vụ nông dân khởi loạn. Tuy nhiên quan điểm của nhà nước thì đấy chỉ là bọn kulak làm loạn, chớ nông dân có đời nào chống lại chính quyền công nông? Nhưng làm loạn đâu phải một vài nhà. Cả làng nổi dậy! Họ vác cày vác gậy, không phải để diệt kulak làm loạn mà cùng với kulak xông ào vào các ổ đại liên của chính quyền công nông. Giải thích sự kiện ngược đời ấy, ông Toà Latsis cho rằng nông dân đã bị kulak xách động, hoặc xúi biểu, hứa hẹn hoặc đe doạ bằng mọi cách. Hứa hẹn thì còn gì hứa hẹn bằng các khẩu hiệu nhà nước… mà đe doạ thì có gì dữ dội bằng các ổ đại liên?

Để hiểu lề lối làm việc của các phiên toà Cách mạng không gì bằng thuật lại vụ án điển hình xử công dân I. Y. ở Ryazan năm 1919. Đó chỉ là một trong 54.697 thằng đào ngũ bị bắt và gởi ra chiến trường Ryazan tháng 9 năm 1919.

Năm 1919 Hồng quân có lệnh cưỡng bách nhập ngũ dù mới năm trước tung ra nhiều khẩu hiệu phản chiến "Đả đảo chiến tranh…", "Cho về hết…", "Lưỡi lê cắm xuống đất"…

Công dân I. Y. vốn Công giáo thuần thành, chịu ảnh hưởng Tolstoi nặng, bị bắt lính nhưng không chịu vác súng tập luyện để ra trận "bắn vào các anh em". Bị đưa tới Cheka vì tội "không công nhận chính quyền Sô Viết" và ba thằng dí súng lục Naguan vào hông hét lớn: "À, mày anh hùng hả? Bao nhiêu thằng anh hùng chỉ một phút là phải quỳ lạy tụi tao hết! Không đi chiến đấu là bắn bỏ". Bắn thì bắn, I. Y. không chịu nên đành phải ra Toà Cách mạng.

Trước Toà Cách mạng có ông luật sư già biện hộ I. Y. Ủy viên buộc tội (chưa gọi Công tố viện) cũng là một luật sư già. Có gã bồi thẩm cứ sỉ vả bị can: "Thanh niên công nông thứ anh mà lại chịu làm đệ tử của thằng Bá tước già quý tộc Tolstoi sao?". Chánh thẩm phải gạt đi hắn mới thôi!

"Anh không được cầm súng giết ngườI, còn hô hào người khác. Bọn phản động gây chiến, anh dám phá hoại cuộc chiến đấu tự vệ của nhà nước! Cho anh đi Kolchek, tha hồ cỗ võ hoà bình."

Bị can chấp nhận "Muốn đi đâu cũng được", nhưng Ủy viên buộc tội nhân danh một luật gia can thiệp:

"Xin lưu ý Toà Cách mạng chỉ xử những ca phản cách mạng, không phải để xử những vụ đào ngũ như thế này. Trên phương diện luật pháp, đề nghị Toà chuyển sang một Toà án thường cho đúng thủ tục…"

"Toà Cách mạng đủ thẩm quyền xử. Toà xử heo tinh thần Cách mạng, không xử thủ tục luật pháp."

Ủy viên buộc tội yêu cầu chánh thẩm ghi câu đó vào hồ sơ. Luật sư cũng lên tiếng ủng hộ, xin Toà Cách mạng chuyển sang Toà thường thì bị Chánh thẩm nạt: "Mấy anh già rắc rối! Để Toà thường xử thì đến bao giờ?"

Coi là bị nhục mạ, ông luật sư già cũng yêu cầu ghi hồ sơ thì Chánh thẩm cười hề hề: "Muốn ghi thì ghi! Ghi hồ sơ liền đi". Cả phòng xử cười rầm thì Chánh thẩm tuyên đình xử để Toà Cách mạng vô nghị án! Sau một hồi nghị án kín ồn ào như mổ bò, Toà tái nhóm để nghe ông Chánh thẩm tuyên án: Tử hình, xử bắn.

Phòng xử xôn xao, Ủy viên buộc tội la lên: "Tôi chống án! Tôi sẽ thượng tố lên Bộ Tư pháp". Luật sư hùa theo "Chống án" thì ông Chánh thẩm Toà Cách mạng xua tay tuyên bố:

"Toà bãi xử. Truyền giải tán."

Áp giải "tử tội" I. Y. về khám, trưởng toán hộ tống còn khen ngợi:

"Nếu mọi người đều dám như chú mày thì khá quá! Hết chiến tranh, không có đỏ mà cũng chẳng có trắng."

Vì bản án quá vô lý nên đơn vị Hồng quân ở Ryazan nhóm ban đêm để sáng mai đánh kiến nghị phản đối về Mạc Tư Khoa.

"Tử tội" I. Y. nằm khám đợi kết quả 37 ngày. Qua cửa sổ nhìn xuống ngày nào chẳng thấy hành hình. Nhưng rốt cuộc bản án tử hình bị bác, chỉ phải chịu án 15 năm cấm cố.

Đó là một vụ án điển hình nhưng đặc biệt. Có mấy người tranh đấu lì được như I. Y.? Ủy viên buộc tội có đồng ý với luật sư biện hộ bao giờ? Không phải trách nhiệm, toán lính áp giải còn uất ức, nhất định có thái độ là một điều hiếm có! Bản án chứng tỏ không phải Công nông và Toà Cách mạng muốn gì được nấy dễ dàng. Cũng gay go lắm!

Bây giờ lần giở lại những phiên toà của thời kỳ Bình minh Công lý quả là gian nan. Người viết sử biết căn cứ vào đâu? Kẻ chết ngậm miệng, kẻ đi đày mỗi người một phương, bị cáo, chứng nhân, luật gia hay lính áp giải chẳng ai dám nói sự thật. Chỉ có một nguồn gốc có thể đào lên được là núi hồ sơ Công tố.

Hồ sơ quý nhất tôi được hân hạnh tiếp nhận là tập tài liệu in nguyên văn những bản cáo trạng nảy lửa trong những vụ án lớn nhất mà tác giả không ai ngoài chiến sĩ Cách mạng Krylenko. Đừng quên Krylenko từng nắm chức Bộ trưởng Binh vụ đầu tiên của chính phủ Công nông, từng là Tổng Tư lệnh và từng lãnh trọng trách tổ chức những Toà án Đặc biệt của Bộ Tư pháp. Kể như lãnh tụ cốt cán cho đến khi bị chính Lenin gạch bỏ và từ cương vị Chưởng lý buộc tội biến thành kẻ thù lớn của nhân dân! Để hiểu rõ không khí những phiên toà những ngày đầu tiên sau Cách mạng (1918 – 1922) thì hồ sơ Krylenko quả là tài liệu giá trị số một.

Phải chi còn giữ lại được những biên bản tốc ký ghi không sót một lời đối đáp của nạn nhân, lời chất vấn hay buộc tội của những ông Toà đầu tiên giờ đã ra người thiên cổ, ở vào một giai đoạn bất trắc, không ai dám ngờ sẽ đốt cháy không tha một ai, kể cả những ông Toà Cách mạng!

Chưởng lý Krylenko giải thích vì rất nhiều lý do trở ngại kỹ thuật không thể công bố toàn bộ biên bản. Chỉ cần đăng cáo trạng buộc tội và bản án là đủ. Ông Chưởng lý còn chê tất cả biên bản tốc ký giữ trong Văn khố Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa và Toà Cách mạng Tối cao cho đến 1922 đều ghi vô trật tự đọc lại không hiểu nổi, đoán không ra! Có những vụ án quan trọng như xử đảng viên Xã hội Cách mạng, xử Đô đốc Schhastny hoàn toàn không có biên bản tốc ký.

Sau Cách mạng tháng 2, Cách mạng tháng 10, thì vụ trừng phạt đảng viên Xã hội Cách mạng kể như khúc quanh quan trọng thứ ba trong lịch sử Nga, đánh dấu sự chuyển hướng sang độc đảng, số tử hình khá cao. Vậy mà Toà không giữ lại biên bản, hay không làm biên bản?

Năm 1919, Cheka phát giác và dập tắt âm mưu khuynh đảo của nhóm tướng lãnh, sĩ quan. Theo Krylenko thì bắt được trên một ngàn phản động hiển nhiên phải có âm mưu thật, do đó Cheka phải xử chúng "bên lề Toà án". Số phản động đông như vậy Toà xử sao cho xuể?

Cũng nhờ tài liệu Krylenko mới hay thời đó Ủy ban Hành pháp Trung ương có quyền can thiệp vào bất cứ vụ án nào, có thói quen ân xá hay tăng án vô hạn định. Gọi là Ủy ban Hành pháp Trung ương nhưng thực tế chỉ một mình Chủ tịch Sevrdlov quyết định nên ông Chủ tịch cũng đồng ý với ông Chưởng lý là "Hành pháp và Lập pháp của chúng ta không mắc bức tường giả dối thẩm quyền như Âu Mỹ nên chúng ta làm hữu hiệu hơn, giải quyết công việc cấp kỳ". Nghĩa là việc gì cũng giải quyết gấp bằng điện thoại được, ngồi văn phòng ông Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, vẫn có thể tăng án từ 6 tháng lên 10 năm.

Thảo nào trong các cáo trạng, Chưởng lý Krylenko từng vạch rõ nhiệm vụ của Toà án Liên Sô vừa đẻ ra luật và là võ khí chính trị. Dù đẻ ra luật mà cầm quyền được 4 năm, vứt hết những bộ luật cũ của thời quân chủ, chế độ mới vẫn chưa có luật, xét vì "Toà Cách mạng thời đại Cách mạng không bó buộc phải dựa hoàn toàn vào những đạo luật có sẵn, mà cũng chẳng phải nơi khoe luật, đấu luật. Chúng ta tạo luật mới, đặt bình diện luân lý mới… không câu nệ ý thức nào công lý, nào sự thật mà vì nó chúng ta suýt phải trả giá đắt.

Quan điểm Krylenko là Toà Cách mạng không phải Toà mà là bộ phận tranh đấu của Công nông chống thù địch, đặt quyền lợi Cách mạng lên trên hết và phục vụ Công nông trước hết cho nên Toà không đặt vấn đề bị can có tội hay không theo quan niệm trưởng giả lỗi thời. Yếu tố quyết định duy nhất phải là giai cấp. Toà Cách mạng không khoe luật, đấu luật, bao nhiêu lý luận pháp lý đều vô dụng một khi Toà không xử theo tinh thần một đạo luật, không đặt vấn đề giảm khinh mà căn bản là phải tiêu diệt kẻ thù giai cấp, không phải vì tội mà nó đã phạm nhưng có thể phạm sau này, nếu không tiêu diệt bây giờ.

Vậy thì tìm hiểu thêm làm gì buổi bình minh của Công lý khi quan điểm Krylenko đã rõ ràng như vậy và tự nó đã nói lên đầy đủ vai trò và công dụng của Toà án những năm đầu tiên sau Cách mạng? Hãy nhắm mắt một phút để tưởng tượng một phiên toà có ông Chưởng lý Krylenko ngồi buộc tội, chiếc áo vét lao động mở cổ để lộ áo lót kẻ sọc kiểu thủy thủ. Ngôn ngữ Krylenko thì điển hình ưa chơi chữ, lâu lâu xài điển tích Latinh (một nhà cách mạng có học, có chuyên môn mà). "Đặt vấn đề sự kiện đi", "Yếu tố khuynh hướng cần định rõ trong trường hợp này". Tuy nhiên, ông Chưởng lý cũng có thể có phản ứng rất bình dị để bật ra trước mặt bị can: "Quân vô loại chuyên nghiệp!"

Krylenko cũng chẳng phải giới thâm trầm, đạo đức giả. Trường hợp bắt gặp một bị can dám mỉm cười, người không ngần ngại dằn mặt thẳng thừng, không quanh co úp mở ngay trước khi buộc tội:

"Công dân Ivanova, chị sẽ trả giá nụ cười bằng thân phận của chị. Cố nhiên chúng tôi sẽ có cách để chị không bao giờ cười được nữa!"

Ở buổi bình minh của Công lý có nhiều bản án có thể gọi là điển hình của thời đại mà nhân vật chính là ông Chưởng lý Cách mạng Krylenko. Xin kể qua một vài vụ:


Vụ báo Russkiye Vedomosti

Đây là vụ án tự do báo chí đầu tiên, một thử thách của chế độ vừa làm xong Cách mạng. Nhật báo Russkiye Vedomosti nổi danh "chuyên nghiệp" ngày 28-3-1918 đăng bài “Lên đường” của Savinkov. Báo vừa ra là nhà nước muốn vồ tác giả gấp, nhưng không nổi vì Savinkov đã "lên đường" đúng lúc. Không có tác giả thì báo bị đóng cửa và ông Chủ nhiệm Yegorov ra toà để trả lời tại sao dám đăng bài ấy. Vì chế độ MỚI vừa vặn có 4 tháng nên ông chủ báo còn ngây thơ giải thích: "Bài do một cây viết lỗi lạc viết, nói lên một ý kiến mà toà soạn không nhất thiết phải đồng quan điểm". Theo Yegorov thì “Lên đường” không hề mạ lỵ, xuyên tạc mà chỉ nói lên một sự thật là "nhóm Lenin, Natanson đã về nước qua ngã Bá Linh" nghĩa là nước Đức của Hoàng đế Wilhelm đã đưa giùm đồng chí Lenin về Mạc Tư Khoa làm cách mạng vô sản.

Chưởng lý Krylenko gạt bỏ, nói rõ là báo Vedomosti không bị truy tố về tội "mạ lỵ, xuyên tạc" mà vì "âm mưu gieo ảnh hưởng trong quần chúng". Vì dám phạm tội ấy, tờ báo nhà nghề xuất bản từ 1864 trải qua bao giai đoạn khó khăn nhất đã bị Cách mạng đóng cửa vĩnh viễn. Chủ nhiệm Yegorov bị án biệt giam 3 tháng và ở tù như đi du lịch Hy Lạp vậy!

Nếu ông Chủ nhiệm còn sống lâu chút nữa chắc chắn sẽ còn vào tù ra khám hoài. Dầu sao cũng mới năm 1918 và dầu sao cũng có tiền!

Vì dù Cách mạng có bùng nổ ghê gớm thật thì hối lộ vẫn là "nếp sống" Nga từ thượng cổ thời đại. Như bây giờ và mãi mãi, người đưa vẫn đưa, người nhận vẫn nhận nhẹ nhàng. Lo lót nhiều nhất vẫn là ngành Tư pháp và Cheka! Sách sử vàng son cố nhiên không có ghi nhưng ông già bà cả sẵn sàng làm chứng rằng những năm đầu của chế độ Cách mạng vận mệnh tù chính trị nằm gọn trong một chữ tiền. Tiền đưa ra là người về một cách tự nhiên, vô tội! Giai đoạn 1919 – 1924, Krylenko xác nhận có khoảng 10 vụ, nhưng chỉ kể ra 2. Thực tế là ngay cả Toà Mạc Tư Khoa lẫn Tối cao Pháp viện cũng trưởng thành chật vật trên ngả đường quanh co của hơi đồng.


Vụ 3 thẩm vấn viên Tòa Cách mạng Mạc Tư Khoa

Tháng 3-1918 nhà buôn vàng khối Beridge bị bắt. Bà vợ chạy đi lo chuộc chồng, móc nối được một ông thẩm vấn viên Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa và kéo thêm 2 ông đồng nghiệp. Họ ra giá 250 ngàn đồng rúp nhưng kéo nài mãi thành giá 60 ngàn, đặt cọc ½ trước, tiền sẽ trao ở Văn phòng luật sư Grin. Thu xếp kín đáo vậy là xong, có đời nào vụ chuộc người lọt vào hồ sơ Krylenko và để Quốc hội bận tâm? Bao nhiêu vụ khác êm đẹp cả chứ? Nhưng phút chót mụ vợ chỉ mang tới 15 ngàn rúp tiền cọc cho luật sư Grin, đã vậy đêm về suy tính lại không chịu ông luật sư này. Sáng mai tới lo ông Yakulov. Cố nhiên ông đồng nghiệp này đầu cáo gấp.

Ngay tháng 4 nội vụ ra Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa. Nhân chứng chưa giác ngộ, cứ lo che giấu cho bị cáo làm Công tố viện khó xử. Họ bị Chưởng lý Krylenko cảnh cáo đầu óc chất hẹp, hủ bại với con buôn. (Nhưng họ đã dám đụng đến các thẩm vấn viên Toà Cách mạng quả đã liều lắm lắm!).

Điều đáng kể là cả 3 ông thẩm vấn vừa là cộng sự viên thân thiết của Toà Cách mạng, đồng chí và giúp việc đắc lực cho Công tố viện (như ông Leist từng nổi tiếng thẩm vấn quá gắt) nhưng vừa phạm tội là bị quật thẳng tay. Không phải vì tội tham nhũng, làm mất mặt Toà Cách mạng! Họ bị đào bới quá khứ, tới gốc gác nghĩa là vấn đề giai cấp được đặt ra.

Thẩm vấn viên Leist bị moi gốc tích: nguồn gốc trí thức thụ động, cha là giáo sư đại học Mạc Tư Khoa, nổi tiếng phản động từ 20 năm, không chịu sinh hoạt chính trị! Sự thối nát, tham nhũng đã bị bới tận gốc.

Thẩm vấn viên Podgaisky bị moi gốc con công chức cao cấp Toà án chế độ cũ, có ông cha phản động từng cộng tác với chế độ bảo hoàng 20 năm và điều nổi bật là bị cáo đang học Luật đã vận động, luồn lọt vào được Toà Cách mạng với dụng tâm phá hoại.

Bị truy gốc nặng hơn cả là Gugel trước khi lọt vô Toà Cách mạng đã làm nghề xuất bản. Hắn làm sách không phục vụ cho Công nông, không in tác phẩm Marx mà chỉ chuyên cho ra những thứ văn chương đồi bại của bọn trưởng giả có đầu óc thân Tây phương, cố tình đầu độc tinh thần quần chúng.

Theo Krylenko, cả 3 tên Leist, Podgaisky, Gugel đều không phải cán bộ tốt mà là phường sâu bọ trí thức, chui vô cơ sở để bôi bẩn Toà Cách mạng. Trong khi đó, luật sư Grin nổi tiếng có gốc lớn, bồ bịch ăn có với giới chức cao cấp Công tố – một chuyên viên vớt người ra khỏi tù đày – thì bị Krylenko liệt vào hạng "trí thức hoạt đầu, một con đỉa sống bám vào cơ cấu tư bản chủ nghĩa".

Do đó, Chưởng lý Krylenko yêu cầu Toà Cách mạng trừng trị gắt các bị can, không phải chỉ vì tội nhận hối lộ, tham nhũng mà thôi! Vậy mà Toà Cách mạng chỉ chịu tuyên án quá nhẹ: các thẩm vấn viên mỗi người 6 tháng tù còn ông luật sư "móc nối" chỉ phạt vạ. Lập tức Krylenko chạy lên ông Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương để xin can thiệp mạnh. Bản án tức thì được đổi: 3 ông thẩm vấn viên bị tăng án – theo thẩm quyền của Ủy ban Hành pháp Trung ương – lên mỗi người 10 năm tù. Luật sư Grin chỉ bị 5 năm nhưng tịch thu toàn bộ gia sản.

Vụ án 3 ông thẩm vấn viên Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa cho thấy 2 điều:

"Lập trường Công tố căn cứ thuần túy ở "giai cấp tính".

"Bản án Toà đã tuyên xử không có nghĩa gì trước quyết định "thẩm quyền" của Ủy ban Hành pháp Trung ương.


Vụ thanh tra đoàn Cheka hủ hóa, tham nhũng

Kosyrev và ba bồ bịch Libert, Rothenberg, Solovyev, là cán bộ Ủy ban Cung cấp Thực vật liệu chiến trường miền Đông. Trước Toà Cách mạng ngày 15-2-1919 cả bọn nhìn nhận đã lợi dụng chức vụ, nuốt nhiều số tiền từ 70 ngàn đến 1 triệu đồng rúp tậu nhà, sắm xe hơi, tiệc tùng xa xỉ, chơi ngựa đua và giải trí bằng đàn bà đẹp! Toà Cách mạng không truy cứu tội tham nhũng đó, dù Ủy ban bị giải tán tức thời. Cả ba từ mặt trận miền Đông về, không bị hạ công tác mà còn được cử vô Thanh tra đoàn của Cheka cùng với Nazacenko, cựu tù nhân khổ sai, từng đi đày Tây Bá Lợi Á cùng Kosyrev.

Điều làm mọi người kinh ngạc là không hiểu sao thành tích như vậy mà cả năm người lại được cử vào một chỗ quá nhiều quyền hành? Trong nội bộ Cheka Thanh tra đoàn đứng cao hơn hết, chỉ đứng dưới có Chủ tịch đoàn gồm 5 ông lớn: Dzerhinsky,Urilsky, Peters, Latsis, Menzhinsky và Yagoda. Có quyền điều tra, giám sát tất cả các Nha Sở trừ Chủ tịch đoàn. Bất cứ lúc nào cũng có thể mở hồ sơ công tác kiểm soát, toàn quyền bác bỏ mọi quyết định của các cấp kia mà.

Nếp sống của 5 ông Thanh tra Cheka được mô tả cực kỳ hào hoa. Cùng với một nhóm bà hủ hoá không phải đảng viên, họ lập nhiều "Câu lạc bộ du hí" có rượu, có đàn bà và có sòng bài ăn thua hàng ngàn đồng rúp. Ông Kosyrev còn có "tổ quỹ" riêng, trị giá 70 ngàn rúp, mỗi lần tiệc tùng bày toàn muỗng nỉa bạc, ly pha lê. Không lẽ ý thức hệ, biện chứng hay cơ quan đã cung phụng ngần ấy thứ? Không, ông Thanh tra được hưởng phần gia tài, cỡ 200 ngàn rúp để trương mục nhà hàng Chicago!

Cấp "thẩm quyền" Thanh tra đoàn như Kosyrev thì thiếu gì cơ hội can thiệp ra tiền. Buổi giao thời Cách mạng bọn có tiền của vòng vàng, châu báu bị cơ quan chiếu cố quá nhiều. Thân nhân muốn chuộc mạng chỉ cần tìm cho đúng trung gian. Còn tay trung gian nào "dẫn mời" đắc lực bằng người đẹp Uspenskaya, hai mươi hai tuổi… nữ sinh tốt nghiệp trung học, mật báo viên tình nguyện của Cheka? [9] . Người đẹp xác nhận trước Toà làm mật báo viên chỉ để lấy tiền thưởng nhiều ít tùy từng vụ và có áp phe còn được "chia hai". Chia với ai Toà không bắt khai (để bảo vệ bí mật công tác!). Nhưng Krylenko vạch rõ nữ mật báo viên Uspenskaya có lãnh tiền Cheka là lãnh tiền thưởng chứ không phải lương vì không phải nhân viên chính thức [10] . Số lương tháng 500 rúp của Hội đồng Kinh tế Tối cao nào có nghĩa gì so với số tiền áp phe 5 ngàn đồng (xin cho một nhà buôn một con dấu của Hội đồng Kinh tế Tối cao thôi!) và 17 ngàn rúp do vợ tù nhân Meschherskaya Grevs "đền ơn"!

Vụ Thanh tra đoàn Cheka tham nhũng đổ bể cũng vì mật báo viên Uspenskaya hướng dẫn mụ Grevs đi gặp Godelyuk, bồ bịch tin cậy của Thanh tra Kosyrev để xin hạ bớt số tiền chuộc 600 ngàn đồng rúp chạy không nổi! Móc nối bí mật thế nào mà bị ông luật sư Yakulov đánh hơi ra và đầu cáo tức khắc [11] với Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa. Chánh thẩm Toà Cách mạng cũng đang bận vì Cơ quan can thiệp với Ủy ban Hành pháp Trung ương quất 3 thẩm vấn viên bản án quá nặng nên mượn dịp này chơi lại Cheka. Nên thay vì gác hồ sơ, thông báo thân thiện cho xếp lớn Dzerhinsky để "giải quyết êm đẹp nội bộ" thì hắn quyết làm lớn chuyện.

Ông Chánh thẩm bèn đích thân thẩm cung Godelyuk, có tốc ký viên núp sau màn ghi lại đầy đủ chi tiết những lời khai của trung gian Godelyuk về vụ móc nối ăn chia với Thanh tra Kosyrev, thanh tra Solovyev. Biên bản ghi rõ trong Cheka những ông nào ăn, ăn bao nhiêu và sau khi lãnh tiền cọc 12 ngàn rúp hắn đã đưa mụ Grevs vô trong Cơ quan "nhờ vả" Libert và Rottenberg như thế nào. Phiếu nhập sở của mụ Grevs còn rành rành chữ ký của hai ông Thanh tra nằm ở Phòng Điều tra vừa được Thanh tra đoàn buộc chuyển gấp lên kiểm chứng lại.

Chứng cớ phạm pháp rành rành vậy, cả 5 ông Thanh tra cao cấp nhất cơ quan dính một lượt, nội vụ lại diễn tiến ngay trong sở và đang bị Toà Cách mạng lập biên bản chi tiết do chính kẻ móc nối phun ra thì còn gì là thanh danh, còn gì màu áo xanh da trời cao đẹp của Cheka? Đồng ý lâu nay vẫn có "xúc động công vụ" dài dài giữa Cơ quan và Toà án Cách mạng, nhưng không lẽ cùng phục vụ Cách mạng vô sản mà cán bộ cao cấp hai bên cứ rình từng cơ hội để gài chơi nhau sát ván? Gã chánh thẩm chỉ vì ganh tức, bực bội mà dám quất một lượt 5 cán bộ Thanh tra đoàn hay chính hắn cũng có liên hệ gì đó trong vụ này?

Những vụ lẻ tẻ đó khỏi bàn. Vấn đề lớn là thể diện, uy tín của Cheka. Không thể để Cheka mất mặt nặng như vậy!

Không hiểu cố ý hay tình cờ mà Toà Cách mạng gởi phạm nhân Godelyuk vô khám Taganka thay vì Lubyanka, nhà giam "ruột" của Cơ quan. Nhưng Thanh tra Solovyev vẫn xin phép Toà cho vô thăm Godelyuk. Toà khước từ. Với tài nghệ cá nhân, Solovyev vẫn lọt vô được xà lim của hắn để "nói chút chuyện", Không cần phép Toà. Sau đó phạm nhân Godeyuk bỗng lâm bệnh, bệnh nặng. Trước khi hấp hối, biết khó sống hắn đã thành tâm phản tỉnh, rất lấy làm hối hận đã vu cáo Cơ quan nên năn nỉ xin mảnh giấy để tự tay viết bản tự thú. Hắn đã bôi nhọ cán bộ Cơ quan nhất là Kosyrev và biên bản tốc ký ghi sau màn hoàn toàn không có thật.

Còn tấm giấy nhập sở có chữ ký Libert và Rottenberg cho mụ Grevs vô thì sao? Thì bỏ! Có ai đưa, ai tổ chức đưa Solovyev vô khám Taganka để có chút chuyện nói với Godelyuk? Ông Chưởng lý Krylenko cho rằng thiếu bằng chứng phạm tội, cũng như Solovyev có thể được đưa vô bởi nhóm người nào đó có liên hệ và còn tại đào.

Dĩ nhiên Toà Cách mạng phải cho đòi 2 Thanh tra Libert, Rottenberg. Có trát bắt buộc nhưng họ không ra. Họ lánh mặt. Đòi đến mụ Grevs thì đến mụ cũng không thèm ra mà Toà Cách mạng cũng chẳng có cách nào dẫn giải! Gốc trưởng giả phản động mà dám coi thường cả trát Toà Cách mạng thì lạ quá. Nhân chứng kiêm phạm nhân Godelyuk chết dở thì phản cung. Chánh phạm Kosyrev không chịu nhận bất cứ một tội gì. Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa còn ai nữa mà xét xử?

Ngay lúc đó có 2 nhân chứng không được Toà vời ra cũng "tình nguyện" làm chứng cho Kosyrev! Một là đồng chí Phó Tổng giám đốc Peters. Hai là đích thân đồng chí Tổng Giám đốc Feliks E. Dzerdzinsky. Nội sự hiến dâng của đồng chí Tổng Giám đốc Cheka bằng xương bằng thịt trước Toà cũng làm mấy ông Toà Cách mạng rầu quá! Ông Tổng Giám đốc quả quyết Thanh tra Kosyrev vô tội. Một đồng chí trung kiên, tinh thần phục vụ cao, chuyên môn lỗi lạc. Cố nhiên đây là một vụ vu cáo.

Vu cáo thật, nếu giở lại tiểu sử của đồng chí Thanh tra Kosyrev lỗi lạc, trung kiên của Cheka! Thành tích ở tù trước Cách mạng của Kosyrev lẫy lừng đô thị Kostroma với mấy bản án sát nhân: bẻ cổ giết bà già Smirnova, toan giết cha, sát hại một đồng đội để đoạt giấy thông hành. Số còn lại toàn án lừa đảo. Nhờ lệnh đại xá của Nga hoàng hắn mới được phóng thích chớ Kosyrev thì hết đi đày đến chịu án khổ sai. (Có dịp ăn chơi là ông Thanh tra chơi bằng thích cũng phải!).

Đặc biệt trong vụ án này Chưởng lý Krylenko nghiêng hẳn về phía chống tham nhũng, thối nát, dù được nghe ông Tổng Giám đốc Cheka doạ dẫm: "Kosyrev có thể là nạn nhân oan uổng của sự tranh chấp quyền hành giữa các Cơ quan". Nhưng dù sao cũng xác định thái độ để tránh mọi hậu quả vì phải có lý do gì tay tổ Cheka mới hối hả ra toà làm một nhân chứng tầm thường chứ? Nên nhất quyết buộc tội sau khi rào đón:

"Tôi không bao giờ muốn và cũng không đủ thẩm quyền để muốn biến vụ án Thanh tra đoàn này thành vụ án xét xử Cheka. Hãy quan niệm giản dị rằng chỉ kẻ nào có tội là kẻ ấy sẽ bị trừng phạt đích đáng và để làm công việc ấy, Công tố viện cương quyết làm cho ra lẽ".

Có lẽ không dám phiêu lưu quá xa để bênh vực bọn thuộc cấp phạm pháp quả tang quá rõ nên Dzerdzinsky rút lui ngay để vận động ngả khác. Toà đình xử. Mấy ngày liền sóng gió tơi bời trong nội bộ Cheka. Phải chi cứ đà đó mà tiến thì ngày giờ này đâu còn Lubyanka? Chắc là ông Tổng Giám đốc Cheka đã phải xin gặp Lãnh tụ để "giải thích" không xong nên ngày 17 tháng 2 năm 1919 Lenin mới có lệnh đặc biệt tạm bãi bỏ quyền xét xử bên lề Toà án của Cheka.

Như vậy phải hiểu là Toà Cách mạng đã được bật đèn xanh, với điều kiện giới hạn. Tai hại là sau khi Toà tái nhóm có mật báo viên ngày nào và bây giờ là nhân viên Cheka đã phun bậy nhiều quá. Uspenskaya đã lồng lộn tố cáo giới thẩm quyền Cơ quan, kể cả đồng chí Phó Tổng Giám đốc Peters mà người đẹp đã mượn tên để hù ra tiền và từng nhiều lần ngồi vắt vẻo trên buya-rô trước mặt nhân viên dưới quyền! Lại còn tố cáo quá khứ Peters hồi ở Riga.

Mới có 8 tháng trời làm cho Cheka mà người đẹp đã nguy hiểm vậy! Đó là lý do Chưởng lý Krylenko lên tiếng trừ khử giùm một tai hoạ cho Cơ quan:

"Cho đến ngày chế độ ta vững mạnh, thì để bảo vệ cách mạng thiết tưởng không bản án nào thích hợp với nữ công dân Uspenskaya cho bằng bản án tối đa. Một bản án 10, 25 năm chắc chắn không đem lại kết quả nào hết. Một người như thế giam giữ không được!"

Đúng, Uspenskaya không phải là người giam giữ được. Một người biết quá nhiều nên quá nguy hiểm. Một người dám nói bừa.

Một người như vậy không để sống được. Phải thủ tiêu luôn cùng một lúc với bản án xử bắn Kosyrev. Phải hy sinh một ông Thanh tra để cứu gỡ những ông Thanh tra khác, cả thể diện Cơ quan chứ.

Sự thật bề trong của bản án như thế nào sau này chỉ có thể tìm trong Tổng văn khố Lubyanka. Nhưng cả núi tài liệu, hồ sơ đã ra tro trong lò lửa từ lâu.


Vụ án các hàng giáo phẩm Mạc Tư Khoa

Theo Chưởng lý Krylenko, đây là một vụ án sẽ ghi lại trong lịch sử án lệ Cách mạng Sô Viết. Nếu vụ Thanh tra đoàn Cheka tham nhũng chỉ cần 1 ngày để xin cái đầu Kosyrev thì vụ án tôn giáo kéo dài từ 11-1 đến 16-1 năm 1920 trước Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa.

Bị cáo chính là 4 cấp lãnh đạo Giáo hội:
  • A.D. Samarin, chức sắc cao cấp của Giáo hội Nga, từng chống lại giáo gian Rasputin, cứu Giáo hội khỏi ách thống thuộc của Nga hoàng, nguyên Chánh đại diện Đại hội Tôn giáo toàn quốc
  • Kuznetsov, học giả, Giáo sư Giáo luật Trường Đại học Mạc Tư Khoa
  • Uspensky và Tsvetkov, hai vị Giám mục địa phận Mạc Tư Khoa (Giám mục Tsvetkov được Krylenko công nhận là một nhà đại hiền, chức sắc Công giáo thuần túy nhất trong hàng giáo phẩm Nga)
Tội danh thứ nhất của các bị cáo là thành lập "Hội đồng liên giáo khu" nhằm kết hợp một số giáo dân từ 40 đến 80 tuổi tình nguyện chia phiên nhau thường xuyên canh chừng (không võ trang) tư dinh Giáo chủ Tikhon để phòng trường hợp những người bị nhà nước làm khó dễ. Nếu có động họ sẽ giật chuông nhà thờ cấp báo hay điện thoại tập hợp một số đông giáo đồ để cùng đi theo Giáo chủ và sẽ thỉnh cầu Hội đồng nhân dân Trung ương can thiệp, không cho bắt giữ Người.

Quan điểm công tố viện là Giáo chủ Tikhon có bị đe doạ gì đâu mà phải đề phòng sẵn để tập họp giáo chúng bảo vệ? Công tố viện không cần biết ngoài những vụ xử án bên lề Toà án của Cheka từ 2 năm nay, mới đây Đức Tổng Giám mục địa phận Kiev bị 4 Hồng quân hạ sát và "hồ sơ giáo chủ Tikhon" đã hoàn tất chỉ chờ ngày đưa ra Toà Cách mạng vì không thể để kẻ thù của quần chúng Công nông ung dung tự do mãi. Hai năm liền Giáo chủ gởi nhiều thông điệp cho Hội đồng Nhân dân, cho các hàng giáo phẩm và giáo dân, vạch rõ sự khủng bố, tàn sát người vô tội và hiểm hoạ đất nước lâm nguy. Thông điệp của người không nhà in nào dám đánh máy từng tờ gửi đi).

Tội danh thứ hai là Hội đồng Liên giáo khu đã phổ biến lời kêu gọi giáo dân chống lại sự kiểm soát, xung công tài sản Giáo hội sử dụng chuông nhà thờ để cấp báo. Sau khi đóng cửa các tu viện, truất hữu tài sản (kể cả những đồ thờ tự chứ không phải ruộng đất, nhà cửa mà thôi) đến lượt giáo đường toàn quốc phải kê khai tài sản để nhà nước kiểm soát.

Tội danh thứ ba là họ đã liên tiếp gởi nhiều thỉnh nguyện thư đến Hội đồng Nhân dân Trung ương yêu cầu can thiệp để chấm dứt nạn chính quyền địa phương miệt thị, vu cáo các cấp giáo quyền xúc phạm giáo đường, công nhiên xâm phạm tự do tín ngưỡng. (Theo hồi ký của Bronch Bruyevich, quản trị viên Hội đồng Nhân dân Trung ương thì Hội đồng đã gạt bỏ tất cả thỉnh nguyện thư, miễn cứu xét.)

Với ba tội danh lớn như vậy thì cố nhiên ông Chưởng lý Krylenko phải xin mấy cái đầu, ít nhất toà Cách mạng cũng phải xử bắn Samarin và Kuznetsov để triệt hạ bằng hết mầm mống phá hoại, nhân danh nhu cầu cách mạng. Krylenko nhấn mạnh: "Đồng ý là đồng chí Dzerdzinsky đã áp dụng sắc lệnh, thông tư cho các cấp Cheka hủy bỏ án tử hình – một vinh hạnh của chế độ ta – nhưng không phải bản án tối đa đã được quyết định hủy bỏ vĩnh viễn. Còn Toà án Cách mạng, còn thẩm quyền của Hội đồng Nhân dân Trung ương. Bản án tử hình vẫn còn duy trì ở đây!".

Quả nhiên án tử hình được duy trì thật, để triệt hạ bằng hết mầm mống phá hoại! Gậy ông lại đập lưng ông - nên bản thân ông Chưởng lý cũng sắp có một "bản án tối đa" cùng với một số dấu chỉ. Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa đã kéo dài năm ngày để nghe các bị cáo chối tội và luật sư biện hộ trổ tài hùng biện. Kết quả Chưởng lý đã xin hai cái dầu "phản động và cần thanh trừng", Samarin Kuznetsov thì Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa cũng thể theo… nhưng thòng thêm một ân xá: cho họ đi đày cho đến khi Cách mạng toàn thắng đế quốc. Giờ đây Cách mạng thế giới chưa hoàn thành mục tiêu thì hai người nếu sống sót hẳn còn nằm trong một trại cải tạo nào đó! Riêng Giám mục Tsvetkov, "vị đại hiền, chức sắc Công giáo thuần túy nhất trong hàng giáo phẩm Nga" thì lãnh án 15 năm, cho hưởng ân huệ còn 5 năm.

Cũng lồng trong một vụ án "các hàng giáo phẩm Mạc Tư Khoa" còn một số bị can được kể như những vai trò phụ, tiện việc mang ra xử luôn cho rồi. Vụ tu viện Zvengiorod xảy ra từ mùa hè 1918, tính ra các bị can đã bị giam cứu chờ xử trên 18 tháng chớ đâu có ít?

Nguyên một hôm các viên chức địa phương đột nhập Tu viện Zvengiorod, cho đòi Cha Bề trên Ion. Ông này nổi danh trong Giáo hội Nga, nguyên là Firguf, sĩ quan Kỵ binh trong đội Ngự lâm quân Nga hoàng được ơn trên kêu gọi nên bỏ địa vị, phân phát hết của cải cho dân nghèo rồi xin vô nhà tu kín. Họ bảo: "Mời quá bộ ra đây có chút việc" và yêu cầu ông Cha Bề trên giao nạp cho họ bộ hài cốt của Thánh tử đạo Savva. Mấy người nhà nước vô giáo đường vẫn phì phèo hút thuốc, ngay cả trước bàn thờ Chúa. Dĩ nhiên họ vẫn đội nón và một ông còn nhấc xương sọ của ông thánh lên, thử nhổ bãi nước bọt để coi Thánh có làm gì nổi. Họ còn xúc phạm nhiều nữa khiến các tu sĩ phải kéo chuông báo động. Giáo dân đổ xô tới và sau một chầu xung sát có 1 hay 2 ông thiệt mạng.

Trước Toà Cách mạng, các viên chức nhà nước không nhìn nhận có hành động xúc phạm tôn giáo. Họ khai như vậy và Công tố viện chấp nhận, chớ họ đâu phải ra toà? Chỉ có mấy ông tu sĩ bị áp giải.

Thông thường hồi đó Toà trung ương xử thế nào thì các Toà địa phương chỉ việc đúng tiêu chuẩn trung ương mà tuyên án cho thống nhất lề lối làm việc. Kể như một bản án mẫu. Sau "vụ án các hàng giáo phẩm" của Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa thì các toà án tỉnh bắt đầu xử dồn dập như sóng trào, đúng danh từ của Chưởng lý Krylenko. Không địa phương nào không có một vụ án tôn giáo để "triệt hạ bằng hết phản động", nghĩa là tu sĩ, linh mục, con chiên hàng loạt bị đưa ra toà. Trước vụ tu viện Zvengiorod bị xâm nhập, Đức Giáo chủ Tikhon từng nhiều lần phản kháng nhà nước cấm giảng đạo, bắt bớ tu sĩ hoàn toàn với tội danh mơ hồ "phản Cách mạng". Chỉ có một thời gian công tác triệt hạ Giáo hội tạm lơi vì nhà nước còn lo lấy lòng tín đồ Chính thống giáo để rảnh tay thanh toán nội chiến. Dẹp xong Denikin và Kolchak là những phiên toà lại dồn dập như sóng trào.

Ngọn sóng cao nhất có lẽ là vụ lục soát Đại tu viện Ba Ngôi Thánh Sergius ở Radonezh năm 1920. Ngay hài cốt của Đức Thánh Sergius cũng bị nhà nước tịch thu để đưa về trưng bày ở Bảo tàng viện Mạc Tư Khoa. Đây là đòn nặng cuối cùng của nhà nước giáng lên bộ phận đầu não tượng trưng của Giáo hội Nga, dù Bộ Tư pháp đã có thông tư từ ngày 25-8-1920 về việc thanh toán, triệt hạ bằng hết di tích cũ, những chướng ngại vật cản đường tiến tới một xã hội mới cao đẹp. Xưa nay, Đại tu viện St. Sergius vẫn là di tích gợi nhớ công cuộc dựng nước hào hùng của nhà Đại ái quốc Sergius, vẫn được toàn dân ngưỡng mộ, thờ kính. Theo Klyuchevsky thì cửa lớn tu viện chỉ có thể bị đóng, đèn thờ trên phần mộ của Sergius chỉ có thể tắt khi nước Nga mất hết sức mạnh tinh thần, đạo đức. Nào ngờ, chính Giáo chủ Tikhon đã thân hành xin yết kiến ông Chủ tịch Hội đồng Nhân dân để xin can thiệp đừng đụng chạm đến di tích lịch sử của Giáo hội và mớ xương tàn của Thánh Sergius nhưng vô hiệu, chỉ vì ông Chủ tịch Hội đồng Nhân dân bận công tác, chưa thể tiếp kiến ngay.


Vụ án trí thức khuynh hữu phản động

Tháng 8 năm 1920, một vụ án đặc biệt lại xảy ra trước Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa, lần này 28 người có mặt nhưng vắng mặt thì rất nhiều và Toà cũng phải xử từ ngày 16 đến ngày 20-8. Vụ án mệnh danh "Trí thức phản động", một thành phần Cách mạng đã lưu ý từ lâu nay đã tới lúc phải thanh toán sau khi đã thanh toán xong tư bản, địa chủ.

Ngay từ ngày 15-9-1919, trả lời thư của Maxim Gorky xin can thiệp cho một số trí thức bị bắt giữ, Chủ tịch Lenin đã thẳng thắn liệt họ vào hạng người bỏ đi, thay vì là tinh hoa của xã hội, một bọn cận thị phóng túng, thối nát phản lại quyền lợi Công Nông. Vì ông chủ tịch đã đánh giá trí thức không hơn một bọn vị kỷ, không xương sống, luôn luôn đi lùi lại sau thế hệ nên các nhà báo lập tức nhao nhao chĩa mũi dùi vào giai cấp trí thức. Ông Chưởng lý Krylenko dĩ nhiên còn đi mạnh hơn, vạch rõ Cách mạng là một dịp lớn để định lại giá trị xã hội và trí thức Nga đã chạy theo một số tướng lãnh phản động làm công cụ và đi ở mướn cho đế quốc Âu châu nên tự đánh mất giá trị, vùi sâu tên tuổi xuống đám bùn nhơ.

Quan điểm của Krylenko là xã hội không cần phải khai tử từng phần tử một trong hàng ngũ trí thức nữa vì cả giai cấp đã bị vượt qua, không bắt kịp đà tiến của xã hội. Lần này sở dĩ xã hội phải đụng đến họ vì họ đã kết hợp thành một khối, ít nhất cũng có 28 người (như những khối đã bị triệt hạ là khối Menshevik, khối Trostky, khối Zinoviev, khối Bukharinc). Đã lập khối là hiển nhiên có tư tưởng phản bội hay chạy theo làm công cụ đế quốc, một tổ chức hữu khuynh.

Nhóm 28 trí thức bị đưa ra Toà Cách mạng có phải một tổ chức không? Họ đâu có quy chế, đâu có chương trình hành động, đâu có thu tiền nguyệt liễm, niên liễm? Nhưng vẫn bị coi như tổ chức vì nhiều người hay tụ họp và cùng nhau trao đổi quan điểm, thế thôi!

Tội danh của họ được trình trước toà: một bọn phản động chống chế độ mà bằng chứng cụ thể là hai bức thư của Myakotin và Fyodorov. Đồng ý là hai người này đã ra khỏi nước Nga, họ chỉ có thể tuyên xử căn cứ theo 2 bức thư đó, xét vì hồi trước Cách mạng họ cùng một nhóm, cùng sinh hoạt với Myakotin và Fyadorov.

Điều nguy hiểm cho 28 người hiện diện là vì hai bức thư ấy đã được gởi cho tướng phiến loạn Denikin từ thời nội chiến để bài bác một số vấn đề căn bản, chẳng hạn như vấn đề nông dân, vấn đề Do Thái, vấn đề quốc tịch của các nước liên bang, vấn đề cơ cấu Chính quyền.

Toà không xét nội dung những lá thư đó mà chỉ kết tội 28 trí thức hiện diện đã có liên hệ và liên lạc thư từ với Denikin, như vậy là rõ ràng là có tội rồi. Ngoài ra chính họ cũng có liên lạc thư từ với những người bạn ở Kiev (tuy vẫn ở trong nước Nga nhưng quân Cách mạng chưa chiếm được thì cũng kể như ở ngoại quốc). Đối với Toà Cách mạng, những lá thư đó là những tang chứng buộc tội phản bội.

Ấy là chưa kể tới những bài báo, những tác phẩm họ đã sáng tác trong thời kỳ nội chiến. Dĩ nhiên chẳng phải những sáng tác căn cứ theo Lenin, Trotsky, Bukharin! Giáo sư Xã hội học Kotlyarevsky viết về cơ cấu tổ chức liên bang, Stempkovsky viết về vấn đề cải cách ruộng đất, Muralevich viết về tổ chức giáo dục tương lai ở Nga Sô. Nhà sinh vật học Koltsov còn bị lên án nặng hơn là đã cho mượn cơ sở để cả nhóm lấy chỗ hội họp.

Nói chung, cả nhóm 28 người bị kết tội "dám tụ họp nhau lại, bàn bạc, thảo luận những cơ chế tổ chức chính quyền trong tương lai, trường hợp chế độ Xô Viết sụp đổ" thay vì ngồi một chỗ gậm khúc bánh mì. Ngồi một chỗ không hoạt động là đã có tội huống hồ có liên lạc với phản loạn Denikin?

Đó là lý do sau khi nhóm họp, đình nghị án 5 ngày liên tiếp Công tố viện yêu cầu xử tử các chính phạm về tội phản loạn và Toà Cách mạng cũng đồng quan điểm, tuy nhiên sau này ân xá cho đi đày trại cải tạo cho đến dứt nội chiến.

Cũng ngồi trên băng bị cáo còn có 3 nhân vật đặc biệt, không hề có hoạt động chính trị gì nhưng suýt bị treo trên cổ một bản án tử hình vì chỉ tham gia sinh hoạt chung với nhóm.

Hoạt động xã hội thuần túy, tổ chức Hội Hồng thập tự để trợ giúp những phạm nhân chính trị như Khruscheva cũng lãnh đủ: tại sao dám đi quyên tiền, gởi phẩm vật vào khám Byturky giúp tù?

Alexandra, cô con gái của đại văn hào Tolstoi trước toà khai không làm gì hơn là lo phụ trách cơm nước, tiếp khách cũng bị nằm trại cải tạo 3 năm trời.

Nhân vật được ưu đãi nhất trong bọn là Savva Morozov, một Mạnh Thường Quân từng tán gia bại sản vì ủng hộ cách mạng Bolsêvich. Riêng với nhóm trí thức hữu khuynh, Morozov cũng có đóng góp ít tiền. Do đó cũng lãnh 3 năm đi đày, coi như một cảnh cáo nên được hưởng án treo. Tuy nhiên ông Mạnh Thường Quân lại là người chịu án nặng hơn cả: về đến nhà Morozov đã tự lấy lưỡi lam cắt đứt cuống họng để giã từ cuộc đời vĩnh viễn.

Bản án 28 trí thức hữu khuynh có thể coi như chấm dứt ở đây.



[1]Cũng trong tài liệu Chưởng lý Vyshynski, vấn đề bản án có sẵn là chuyện xưa rồi! Khoảng 1924-29 toà án phải chiếu "điều kiện" hành chính và kinh tế nữa". Từ 1924 vì nạn thất nghiệp lan tràn, Toà bớt tuyên án "cho đi lao động cải tạo" mà chỉ tuyên án ngắn hạn (đối với thường phạm) cho nên tù rặt những thằng cỡ 6 tháng, lỡ dở. Đầu 1929, Bộ Tư pháp Liên Sô có thông cáo số 5 đả kích những án ngắn hạn và ngày 6 tháng 11 năm 1929 – kỷ niệm 12 năm Cách mạng tháng 10, Ủy ban Hành pháp Trung ương có sắc lệnh tuyệt đối cấm chỉ những bản án dưới 1 năm tù.
[2]Lề lối xử án theo gốc gác, giai cấp đã được tái áp dụng mạnh mẽ ở Nam Phi… lúc tranh chấp kỳ thị màu da nổ dữ dội: bất cứ một dân da đen nào bị liệt vào hạng "nguy hiểm cho xã hội" cũng bị giam 1 tháng. Không cần điều tra, xét xử.
[3]Đây là một mới lạ… có thể kiểm chứng được trên tờ Izvestia tháng 7 năm 1957.
[4]Vì chỉ thị xử án đồng loạt 10 năm + 5 năm để cưỡng bức lao động nên tù thường phạm Babayev đã hét lớn: "Có tròng lên đầu thằng này 300 năm cũng khỏi ngán! Nhấc một ngón tay "lao động" cho nhà nước hưởng thì không!"
Năm 1948 toà quân sự nhóm xử ở Bá Linh tuyên phạt điệp viên thứ thiệt Schultz 10 năm tù. Nhưng Gunther Waschau chưa hề biết gián điệp là gì thì bị quất 25 năm… vì lỡ kẹt đợt 1949, đã có chỉ thị "đồng loạt 25 năm hết"! Năm 1949 khác, năm 1945 khác hẳn chứ?
[5]Xin ghi nhận là Lovzovsky đã tốt nghiệp y khoa và hành nghề đàng hoàng ở Mạc Tư Khoa, đời sống dễ chịu, Chupenyev vẫn còn sống cũng ở Mạc Tư Khoa. Ngày ngày đi lái xe điện.
[6] Ban Quân sự của Tối cao Pháp viện có thể xử tối cấp tốc như vụ A. D. R., kỹ sư điện. Bị điệu ra Toà, thang máy nhiều người xài quá nên lính áp giải xách cổ hắn, chạy 4 tầng lầu lên phiên xử. Vừa vặn xử xong một thằng đang đưa ra thì A. D. R. bị lính nhét vô. Toà vừa đứng dậy lại ngồi xuống và hỏi sơ qua thủ tục, các ông Toà nhìn nhau gật gù: Bản án 20 năm được tuyên tức thì: Xét ra Toà quyết định còn lẹ hơn A. D. R. lắp bắp khai tên họ (vừa ở khám ra phải chạy 4 tầng lầu). Nhưng phải vậy mới kịp vì A. D. R. vừa bị tống ra đã có một mạng mới bị thảy vô liền.
[7] Dưới thời Khruschhev, những ông Toà "lầm lỗi" không đến nỗi bị đi đày như vậy mà chỉ bị nhẹ nhàng đẩy ra khỏi ngành thẩm phán để làm… luật sư! Tờ Izvétiya ngày 9-6-1964 đã đăng tin trên. Thì ra quan điểm luật sư biện hộ là vậy! Dù sao cũng còn hơn dưới thời Lenin nhiều: thời đó ông Toà nào "giảm khinh" nhiều là bị khai trừ ra khỏi Đảng.
[8]Cheka hồi đó mới ra đời, chưa được "bén nhọn" nhưng là võ khí ruột của Cách mạng mà chính Trotsky cũng tuyên dương: "Khủng bố là một biện pháp mạnh của chính trị mà chỉ những thằng không tưởng mới phủ nhận". Sau đó Zinoviev cũng ca ngợi hậu thuẫn của họ là GPU như một danh từ đặc biệt, cả thế giới phải biết đến". Zinoviev đâu có ngờ sau này cũng bị hại vì "danh từ đặc biệt".
[9]Nghề mật báo viên được ông Chưởng lý Krylenko bênh vực trước Toà như một nghề không có gì xấu xa tồi bại và nếu nhằm phục vụ Cách mạng thì còn là một cần thiết.
[10] Sự thật thì Krylenko chẳng phải cải chính! Nhờ tài dắt mối và có chút ít nhan sắc, cô mật báo viên đã được nâng đỡ vào làm nhân viên chính thức Cơ quan. Lại còn vô Đảng và làm thẩm vấn viên nữa!
[11] Cũng ông luật sư Yakulov này từng tố giác vụ ba ông thẩm vấn viên Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa tham nhũng. Người tuyên bố làm cho bõ ghét vì hận thù lề lối làm việc vô sản của Toà án chế độ mới! Nhưng người tố ra vụ Thanh tra đoàn thì lập tức cũng bị Cheka vồ gấp: đang nằm khám Yakulov được lính hộ tống ra Toà Cách mạng để làm nhân chứng vụ Krylenko. Đã bị Cơ quan gài bắt bằng được để trả thù thì "con đỉa sống bám vào Toà" chắc khó lòng thoát khỏi xử bắn.

9. Công lý lớn lên

Buổi bình minh của công lý cách mạng đã sáng rõ với những bản án tiêu biểu như thế đó, những bản án mẫu làm nền tảng cho một nền Công lý đang lớn mạnh, tiến tới trưởng thành.

Giai đoạn lớn lên của luật pháp Sô Viết có thể kể từ hạ bán niên 1921, nội chiến gần dứt nhưng phía nhà nước cũng lâm cảnh con bệnh gần chết, sau 4 năm dồn nỗ lực chiến đấu mệt nhoài. Đời sống cực khổ hơn bao giờ hết, xăng nhớt cạn, than đốt cũng hiếm, nhiều chuyến xe lửa đã nằm vạ dọc đường, thị dân cám cảnh đói lạnh, thợ thuyền rủ nhau đình công ầm ầm. Sử sách cố nhiên không ghi lại một hàng! Thảm trạng đói khổ biết quy tội cho ai?

Không phải cấp lớn, cấp trung ương. Cấp địa phương cũng không. Muôn tội trút lên đầu bọn Spetsy là bọn cán bộ kỹ thuật – kỹ sư, cán sự, chuyên viên các cấp – được kết nạp để lãnh chỉ thị trung ương hoạch định chương trình, tính toán kế hoạch thực hiện tốt. Nếu trung ương không nắm vững tình hình thì bao nhiêu tội cố nhiên quy trách cho bọn kỹ thuật đặt kế hoạch sai, không cung cấp nổi thực phẩm, nhiên liệu là một con số không to tướng. Kế hoạch thổi phồng, sản xuất không tới mức dự liệu cũng là sai lầm của Spetsy. Không phải của cấp lớn ra chỉ thị, cũng không phải của Hội đồng lao động Quốc phòng hay Bộ chỉ huy trong Uỷ ban Nhiên liệu. Không than củi đốt lò, dầu xăng chạy máy là lỗi bọn Spetsy đã tạo tình trạng giao động, khủng hoảng, không tuân hành chỉ thị, phân phối bừa bãi.

Spetsy lỗi nặng như vậy nên cơ quan nào gặp khó khăn bế tắc là đưa ra toà. Nhưng chỉ thị căn bản của Trung ương là "giơ cao đánh khẽ", nhà nước Công nông cố nén cho bọn kỹ thuật hưởng những bản án ân huệ, bởi lẽ không có chúng lấy ai làm việc? Tình trạng không bế tắc nữa, mà dám sụp đổ luôn. Do đó Chưởng lý Krylenko lý luận bọn Spetsy không phản động, cố tình phá hoại chính sách nhà nước. Chúng chỉ thiếu khả năng nên không thể làm hơn. Giản dị là dưới chế độ tư bản chúng đã không học tập, chỉ nghĩ thiển cận và lo ăn của đút! Giai đoạn giao thời, kiến thiết rõ ràng nhà nước còn nương tay với bọn Spetsy.

Qua năm 1922 – năm hoà bình nhất – toà án bỗng nhiên thân chủ gấp bội. Nhân dân sửng sốt hỏi nhau chiến tranh dứt rồi tại sao toà hoạt động mạnh đến thế? (Năm 1945, rồi năm 1948 lại tái diễn y hệt).

Tháng 12 năm 1921, Quốc hội thứ 9 liên bang Sô Viết có sắc luật giới hạn bớt thẩm quyền của Cheka, đổi danh hiệu thành GPU (tháng 10-1922 thẩm quyền GPU lại nới rộng) nhưng TGĐ Dzerdzinsky tuyên bố công khai: "Giai đoạn này phải đề cao cảnh giác, đặc biệt theo dõi những phe nhóm phản động; chống chế độ, cơ quan giới hạn hình thức tổ chức, nhưng tăng cường phẩm chất công tác".

Có lẽ đó là lý do tháng 2 năm 1922, một thành phần kỹ thuật thuần túy đã bị đặc biệt theo dõi và "bao vây" đến phải tự ý chọn cái chết. Bằng không sẽ lại có một khối ít nhất 10 mạng cùng ra Verkthrib (Toà án Tối cao) thay vì 1 đồng chí cao cấp là Sedelnikov, 2 ông Kiểm tra Công nông, 2 cán bộ Nghiệp đoàn.

Nguyên kỹ sư Thủy điện Oldenborger từ tay kỳ cựu 30 năm của Nhà máy Nước Mạc Tư Khoa, từ hồi đầu thế kỷ để leo lên Kỹ sư trưởng. Trải qua ba cuộc chiến tranh, 3 lần Cách mạng dân Mạc Tư Khoa vẫn xài nước máy Oldenborger, nhân viên cơ quan hay tù phản động cũng chỉ có một thứ nước máy. Không vợ, không con, cuộc đời ông Kỹ sư Thủy điện chỉ biết có nước máy, chỉ lo chăm sóc cho hệ thống phân phối nước máy chạy đều. Năm 1905, lính gác mon men tới gần giếng nước, giàn lọc là bị Oldenborger cảnh cáo kịch liệt chỉ sợ "lính tráng làm ẩu" dám bể ống! Cách mạng tháng 2 vừa bước qua ngày thứ 2, ông xếp máy nước đã đôn đốc thợ đi làm đủ mặt vì "Cách mạng thì Cách mạng, vòi nước vẫn phải chạy đều". Tháng Mười đánh nhau giữa thành phố chỉ lo bảo vệ hệ thống cung cấp nước. Thợ thuyền Nhà máy Nước hưởng ứng lời kêu gọi đình công của phe Bônxơvich yêu cầu ông Giám đốc tham gia thì Oldenborger trả lời thằng: "Tham gia cái gì cũng có tôi hết, trừ việc ngưng cung cấp nước". Ủy ban ủng hộ đình công trao tiền cho công nhân thì ông Giám đốc ký biên nhận nhưng sau đó hối hả đích thân chạy đi gắn một ống nước bể!

Như nhiều người – kể cả các đồng chí tham gia tranh đấu – Oldenborger không tin chế độ Bônxơvich đứng nổi quá hai tuần lễ! Nhưng dù muốn dù không thì Cách mạng cũng phải phòng hờ cấp chỉ huy "người chế độ cũ" bằng cách gài cán bộ của Đoàn Kiểm tra Công nông thường xuyên theo dõi. (Một ông tên Makarov Zemlyanski, cựu nhân viên Nhà máy Nước bị sa thải vì tác phong bê bối. Hắn nhảy sang Đoàn Kiểm tra Công nông vì "lương hậu hơn" rồi cạy cục xong được một chân trong Hội đồng Nhân dân Trung ương vì "lương ở đây nhiều hơn nữa"! Sau đó được biệt phái về cơ sở cũ để theo dõi thì cố nhiên ông Giám đốc Oldenborger phải bị hắn trù đặc biệt).

Một cơ sở quan trọng như Nhà máy Nước Mạc Tư Khoa thì Đảng bộ Mạc Tư Khoa phải gài người vô nắm địa vị then chốt. Đồng chí Zenyuk được cử đến giám sát ông Giám đốc "người chế độ cũ". Dù không có chuyên môn hắn cũng chỉ huy luôn Oldenborger! Kết quả là Đảng định nắm vững cơ sở Nhà máy Nước, nào ngờ công việc lại đình trệ, tệ mạt hơn. Trong khi đó Giám đốc Oldenborger uất ức vì bị xỏ mũi, phá thối một cách ngu ngốc nên quên phắt thực tại chỉ là thứ chuyên viên "không có người nhà nước phải dùng đỡ", không ngần ngại công kích đám kỹ sư nửa mùa chế độ mới, đụng đâu hỏng đấy, đứng đầu là Zenyuk! Lập tức báo cáo bay về Kiểm tra đoàn như bươm bướm, tố cáo đích danh Giám đốc Oldenborger mưu toan phá hoại, cố tình làm hỏng toàn bộ hệ thống cung cấp nước để nhằm những mục tiêu chính trị! Phe chế độ mới công khai tố ông Giám đốc là "linh hồn của một tổ chức phá hoại kỹ thuật" trong khi chính họ dựng lên nhiều chướng ngại vật để phá Oldenborger và phá rối luôn Nhà máy,

Nhưng hệ thống ống dẫn nước chủ yếu của Mạc Tư Khoa, công trình của Ivan Kalita đặt từ thế kỷ thứ XIV đâu thể phá trong một vài ngày. Dân thủ đô vẫn xài nước máy đều đặn, nhiều Ủy ban đến thanh tra cũng không tìm thấy dấu vết phá hoại trầm trọng, nghĩa là sự phá hoại nếu có chỉ ở trong nội bộ. Cho đến ngày bầu cử Sô Viết Mạc Tư Khoa [1] thì cuộc tranh chấp nổ công khai. Đa số thợ thuyền vẫn bênh vực ông Giám đốc kỳ cựu nay lại dồn phiếu cho Oldenborger làm đại diện Nhà máy Nước ra tranh cử. Đảng ủy dĩ nhiên cử đồng chí Bí thư Chi bộ Sedelnikov. Bao nhiêu căm thù chất chồng được dịp bùng nổ, Oldenborger bị làm khó dủ điều: bị đẩy bật khỏi Hội đồng Quá trình, thường xuyên bị theo dõi, đưa ra ỦY BAN điều tra cật vấn, bị thay thế bởi một Ủy ban giám đốc tam đầu,

Một bài báo ký tên Sedelnikov thổi phồng những vụ phá hoại kỹ thuật do nhóm Oldenborger cầm đầu, đe doạ phá sập toàn bộ hệ thống ống ngầm và hơn nữa, dám làm rúng động và trôi luôn chân móng của thủ đô Mạc Tư Khoa! Ủy ban Hành chính thủ đô cấp tốc gửi phái đoàn điều tra. Không có gì hết! Sedelnikov cáo giác thẳng GPU vồ trọn tổ chức phá hoại cách mạng nằm giữa Nhà máy Nước Mạc Tư Khoa, có thể đưa đến thảm trạng đổ sụp cả bồn nước khổng lồ Rublevo.

Bị dồn ép quá, ông Giám đốc Oldenborger chịu hết nổi, phạm phải một lỗi lầm căn bản của thành phần trí thức tiểu tư sản cong lưng, thiển cận, là không muốn sống nữa. Công trình chăm sóc một đời người tiêu tan thì sống làm gì, huống hồ đặt mua mấy cái lò ở ngoại quốc vì trong nước chưa đúc nổi mà còn bị bác hết!

"Linh hồn của nhóm phản động" chết rồi, mà phản Cách mạng không phát giác ra một thằng, hành động phá hoại cũng không. Sau 2 tháng điều tra mật, nhóm Sedelnikov bị truy tố ra Toà Tối cao: một phe đã chết rồi thì phải cho phe kia một bài học chớ. Dù xác nhận trước là đối diện một kẻ không cùng giai cấp, người công dân có quyền nhìn hắn là thù nhiều hơn là bạn. Chưởng lý Krylenko vẫn gay gắt buộc tội Sedelnikov và đồng bọn: thù oán cá nhân, bịa đặt cáo giác vô căn cứ, lợi dụng chức vụ nhà nước, mượn danh đảng tác oai, vô trách nhiệm chính trị, phá hoại cơ sở Nhà máy Nước, làm hại cho chế độ, làm hại cán bộ chuyên môn giữa lúc cơ quan cần người làm việc.

Theo Krylenko thì tội ác của Sedelnikov chất chồng, Toà phải trừng phạt hắn thích đáng, chớ không thể giỡn chơi với Công lý!

Phiên toà Tối cao Mạc Tư Khoa cũng đồng ý tuyên một bản án làm gương, do đó một mình Sedelnikov lãnh bản án 1 năm tù!

Một bản án như vậy làm nhột nhạt đám cán bộ thật và nhân dân sung sướng đến muôn đời không quên. Họ không quên những ông kỹ sư của chế độ mới, những khuôn mặt ăn no ngủ kỹ đến mập lù.

Tiếp theo đó là hai bản án nội bộ gương mẫu để chuẩn bị cho một vụ án lớn với tầm ảnh hưởng vượt biên giới: đó là vụ án xử các đảng viên Xã hội Cách mạng làm xôn xao dư luận Âu châu cùng lúc đó khiến Bộ Tư pháp giật nẩy mình. Thì ra 4 năm nay Toà vẫn cứ xử ào ào mà nước vẫn không có luật! Luật cũ từ thời quân chủ thì hủy bỏ hết rồi, nhưng luật mới đâu?

Gọi là 2 bản án nội bộ vì đây là việc riêng của nước Nga, không ảnh hưởng, không liên quan gì đến châu Âu tiến bộ và vẫn không cần giữ theo luật! Đây là lúc vô cùng thích hợp để thanh toán cho xong vấn đề tôn giáo mấy năm nay vẫn phải tạm gác lại vì nỗ lực chấm dứt nội chiến. Đây cũng là lúc người Cộng sản phải minh định thế đứng trước người Công giáo, một thế đứng bất khả dung hợp ngay từ quan điểm căn bản "nhà thờ là nhà thờ và nhà nước là nhà nước". Không được.

Nhà thờ phải nằm trong nhà nước. Không thể có chuyện tách rời. Tài sản Giáo hội từ cơ sở nhà thờ, dụ ngôn, những món đồ thờ tự cũng nằm trong nhà nước và thuộc về nhà nước luôn,

Hai vụ án tôn giáo nội bộ được chuẩn bị đúng vào lúc dứt chiến tranh và nạn đói khủng khiếp sửa soạn diễn ra ở đồng bằng lưu vực sông Volga, một nạn đói chưa hề có trong lịch sử nước Nga từ thế kỷ XVII. Khi con người phải ăn thịt cả đồng loại thì còn gì đau khổ bằng! Có gia đình có những người đi lính hết nên ruộng đất bỏ hoang, nông dân buông cày đi vác súng đã đành nhưng những người còn ở lại sống trên mảnh đất cũng chẳng muốn sản xuất nữa: lúa gặt về họ có chắc chắn được một phần nào đâu.

Vậy để giải quyết nạn đói tại sao không đưa ra giải pháp độc ác là, trút trách nhiệm cho nhà thờ? Nếu người làm tôn giáo thực sự thương xót giáo đồ và chúng sinh tại sao không can đảm lãnh trách nhiệm cứu đói? Tinh thần Thiên Chúa giáo để ở đâu? Không lẽ nhà thờ thấy con người đói đến mức muốn ăn thịt lẫn nhau mà xuôi tay đứng ngó, trút bổn phận hết cho nhà nước? Một kế hoạch giải quyết được 2 vấn đề là vậy, quả là một cú bida chính trị thần sầu!

  1. Nếu Giáo hội từ chối trách nhiệm cứu đói vùng Volga, sẽ có cớ trút tội "thấy dân đói không cứu" và nếu có thể quy trách nhiệm tạo nên nạn đói.

  2. Nếu Giáo hội lãnh trách nhiệm thì tài sản Giáo hội chắc chắn chẳng còn gì! Đỡ phải tịch thu, xung công.

  3. Nhân vụ tổ chức cứu đói này, nhà nước ít nhất cũng quơ được một số ngoại tệ không nhỏ của nhà thờ. Vàng bạc cũng có thiếu gì, trong các đồ thờ tự.

Vả lại Giáo hội Nga đã chính thức đặt vấn đề cứu đói ngay từ lúc nạn đói sông Volga sắp hoành hành. Giáo chủ Tikhon đã có thông điệp cho các địa phận từ tháng 8 năm 1921 về việc tổ chức các Ủy ban Cứu đói toàn quốc và công cuộc lạc quyên cũng bắt đầu. Nhưng nhà nước hồi đó không muốn Giáo hội trợ giúp đứng ra tổ chức để tiền quyên được biến thành bánh mì trực tiếp đến tận miệng dân đói. Nếu có công tác cứu đói thì cũng độc quyền nhà nước! Do đó các Ủy ban Cứu đói của Giáo hội bị cấm hoạt động, số tiền đã quyên được bao nhiêu phải xung nạp công quỹ hết. Giáo chủ Tikhon đã kêu gọi Đức Giáo Hoàng ở La Mã cũng như Giáo chủ Anh quốc giáo tiếp tay cứu trợ nhưng gặp sự chống đối của nhà nước. Chỉ nhà nước mới có quyền liên lạc, tiếp xúc với ngoại quốc! Huống hồ nhà nước còn đầy đủ phương tiện chống đói, đâu đã đến nỗi phải kêu gọi tới người ngoài, nước ngoài?

Cũng được! Nhưng dân lưu vực sông Volga đã bứt cỏ, nhai đế già, gậm cả bậc cửa. Đột nhiên Ủy ban Nhà nước Cứu đói (Pomgol) đưa đề nghị Giáo hội san sẻ bớt tài sản cho dân đói. Không cho hết, chỉ cho những thứ không cần thiết cho việc hành lễ, thờ tự. Giáo chủ Tikhon chấp nhận. Một mặt Pomgol có chỉ thị chỉ được nhận phẩm vật, thúc giục Giáo hội tự ý quyên tặng. Một mặt Giáo chủ có thư luân lưu ngày 19-2-1922 cho các giáo xứ nhắc nhở quyên tặng những phẩm vật không phải đồ thờ tự. Nếu chỉ có vậy thì hoà hợp quá! Nếu vậy thì nhà nước "cấu kết" với Giáo hội sao?

Đột nhiên một tuần lễ sau thư luân lưu của Giáo chủ Tikhon – đúng vào ngày 26-2 – Ủy ban Hành pháp Trung ương có sắc lệnh tất cả tài sản của các nhà thờ đều được truất hữu xung công để giúp dân đói. Sau khi viết thư cho Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương không được phúc đáp, Giáo chủ Tikhon có thư khẩn ngày 28-2 cho các địa phận: Sắc lệnh ngày 26-2 của nhà nước là một xúc phạm đến cấm điều, Giáo hội không thể chấp nhận một cuộc xung công như vậy.

Ngày nay xét lại vấn đề ta thấy phải chi cấp lãnh đạo Giáo hội Nga hồi đó nhận thấy thế chết kẹt của nhà nước Sô Viết không đào đâu ra phương tiện cứu đói cũng như vì ai mới có thảm hoạ chết đói. Vả lại tài sản vật chất của Giáo hội có nghĩa gì đâu mà phải giữ, có phải vì chúng mà bảo vệ được giềng mối đạo giáo sau này? Tuy nhiên cũng phải thông cảm cho nỗi khổ tâm, hoàn cảnh khó khăn của một vị Giáo chủ mới toạ vị mấy năm sau Cách mạng tháng 10, vừa nắm quyền đã phải lo dẫn dắt Giáo hội đương đầu với bao nhiêu chướng ngại, phá hoại, khủng bố, ngoài trọng trách bảo vệ toàn Giáo hội nữa!

Phản ứng của nhà nước là một loạt bài công kích, triệt hạ Giáo chủ Tikhon và các chức sắc cao cấp Giáo hội Nga. Giáo hội bị buộc tội bóp nghẹt đời sống toàn vùng hạ lưu sông Volga, càng không nhượng bộ càng bị mạt sát dữ. Vì vậy từ tháng 3-1922 một số chức sắc thấy cần phải "điều đình" Giám mục Antonin Granovsky đại diện Giáo hội trong Ủy ban Cứu đói Trung ương xác nhận với Chủ tịch Kalinin: "Tín đồ Tôn giáo chỉ sợ số tài sản Giáo hội cung hiến để cứu đói bị sử dụng vào những mục tiêu khác mà họ không muốn" (đại khái lọt vào quỹ tổ chức Đệ tam Quốc tế Komintern hay quỹ tổ chức phong trào Đỏ ở Viễn Đông).

Tổng Giám mục Petrograd, Đức Cha Veniamin nói thẳng: "Tài sản của Giáo hội là của Thượng Đế. Chúng tôi muốn cung hiến tự nguyện". Nghĩa là không chịu chấp nhận "xung công", vả lại tiền bạc phẩm vật nhà thờ quyên góp để cứu đói thì phải có đại diện Giáo hội và giáo dân kiểm soát xem có tới miệng dân đói thực sự không. Như vậy lập trường của Đức Cha Veniamin đã sát gần lập trường nhà nước nhiều. Và cũng vượt ra ngoài ý chỉ của Giáo chủ khi Tổng Giám mục thành Petrograd chấp nhận: "Giáo hội Chính thống giáo sẵn sàng hy sinh bất cứ cái gì để cứu đói".

Trước sự cổ võ "đoàn kết" của Pomgol Petrograd, Đức Cha Veniamin tuyên bố một câu lịch sử:

"Gánh nặng đáng sợ nhất của đất nước này là chia rẽ, thù địch. Nhưng tôi tin rằng nhân tâm nước Nga sẽ có ngày thống nhất. Nhân danh các tín đồ Chính thống giáo, tôi sẽ có cử chỉ tượng trưng. Chính tay tôi sẽ gỡ khỏi tượng Đức Bà Nhà thờ Kazan, bóc hết vàng bạc châu báu để hiến dâng Ủy ban Cứu đói. Dĩ nhiên tôi sẽ đổ lệ, nhưng vui lòng hiến nạp."

Ba ngày liên tiếp, tờ Sự thật ở Petrograd ngày 8, 9 và 10-5 ca ngợi cử chỉ đoàn kết, hy sinh của Đức Cha Veniamin cùng lúc đó loan báo trước: "Số đồ thờ vàng và các pho tượng thánh quý ở các giáo đường Smolny đang được chuẩn bị để nấu đúc thành vàng khối, trước sự chứng kiến của các tín đồ".

Phải nói là tài sản của Giáo hội cung hiến có bấy nhiêu chưa thoả lòng mong ước của nhà nước. Vì vậy không có "điều đình" đoàn kết gì hết! Thứ đoàn kết đó, và cách cho như vậy chẳng phải là thứ mà dân chết đói vùng Volga cần đến!". Pomgol Petrograd bị chê là quá yếu, nhượng bộ quá nhiều. Biến cố toàn quốc lại có dịp nổi lên công kích những "linh mục tồi bại", những "ông hoàng của Giáo hội". Lúc bấy giờ nhà nước mới ngỏ thẳng:

"Chúng tôi không cần nhà thờ cung hiến như vậy, mà cũng không có chuyện điều đình. Tất cả mọi thứ trên đất nước này phải là tài sản của nhà nước hết và nhà nước sẽ có những biện pháp thích đáng."

Những "biện pháp thích đáng" khởi sự ở Petrograd trước rồi lan dần trên toàn quốc. Đó là căn bản mà cũng là nguyên nhân phát động các vụ án tôn giáo. Ý nguyện của nhà nước đã quá rõ qua 2 tài liệu học tập:

  1. Giáo hội và nạn đói

  2. Tài sản của Giáo hội sẽ bị xung công như thế nào?

Vụ án giáo khu Mạc Tư Khoa

Dĩ nhiên phiên toà xử phải là Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa, nhóm họp từ ngày 26-4 ở Viện Bảo tàng Bách khoa, Chánh thẩm Bek với 2 Công tố viên Lunin và Longinov. Cả thảy có 17 người, cả giám mục lẫn giáo dân bị cáo tội phổ biến ý chỉ của Giáo chủ Tikhon. Trước Toà Cách mạng thì tội phổ biến nặng hơn tội không cung hiến tài sản nhiều! Chứng cớ là Giám mục Zsozersky đã cung hiến tất cả tài sản trong giáo đường nhưng vẫn tôn trọng ý chỉ Đức Giáo chủ "xung công, truất hữu tài sản của Giáo hội là một xúc phạm cấm điều". Chỉ vì điều sau này mà ông giám mục bị coi là chánh phạm trong phiên xử – để rồi sau đó bị xử bắn!

(Sự kiện trên đây cho thấy cứu đói chỉ là một cơ hội viện dẫn để nhà nước nhằm việc bẻ gãy xương sống nhà thờ).

Ngày 5 tháng 5 đích thân Giáo chủ Tikhon bị mời ra Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa làm nhân chứng. Lúc người bước vô phòng xử, đa số những người có mặt lật đật đứng dậy chào kính. Dù sao cũng mới 1922, dù số cử toạ đã chọn lựa song dân Nga hãy còn lòng tôn kính chớ đâu phải như những năm 1937, 1968!

Trước hết Toà hỏi về tội viết và phổ biến lá thư khẩn ngày 28-2, Giáo chủ Tikhon xác nhận chỉ một mình người là tác giả, nhưng Chánh thẩm Bek nhất định hướng cuộc thẩm vấn sang một ngã khác:

"Giáo chủ nói vậy đúng không? Có phải tự tay ngài viết ra hết được không? Ngài viết ngần ấy hàng chữ một mình? Ngài chỉ ký tên mới phải chứ? Xin ông cho Toà hay ai đã viết, hoặc ai đã giúp ý kiến cho ngài viết? Tại sao ngài tố cáo báo chí có phong trào nhằm triệt hạ ngài? Để làm gì? Ngài muốn nói gì?"

"Câu hỏi đó thiết tưởng ông Chánh thẩm nên đặt ra với người khởi xướng phong trào đúng hơn! Họ định nhằm mục đích gì?"

"Nhưng điều đó có liên quan gì đến tôn giáo?"

"Có liên quan tới lịch sử."

"Ngài nói rằng Sắc lệnh của Ủy ban Hành pháp Trung ương ban hành lúc ngài đang họp với Ủy ban Cứu đói, do đó, ngài có dùng danh từ "làm lén sau lưng" phải không?"

"Phải."

"Như vậy ngài cho rằng chính quyền Sô Viết đã làm lén, tức là làm bậy?"

Câu hỏi này từng được các Điều tra viên nhắc đi nhắc lại cả triệu lần trong các phiên lấy cung. Sau này chúng tôi cũng từng nghe thấy cả triệu lần nhưng chưa ai trả lời thẳng, quyết liệt như Giáo chủ.

"Đúng vậy!"

"Ngài có nhìn nhận luật pháp của nhà nước có tính cách bó buộc hay không?"

"Tôi nhìn nhận, miễn là nó không chà đạp con người!"

Phải chi trước Toà người nào cũng dám trả lời như vậy thì chiều hướng lịch sử tất đã đổi khác. Cũng như dám khẳng định trước Toà sự khác biệt giữa cung hiến tự ý xung công bó buộc!

Sau đó Toà bắt đầu mổ xẻ danh từ, chẻ hai theo chiết tự để bắt bẻ một chữ Giáo chủ đã dùng trong bức thư luân lưu. Đó là danh từ suyato-tatstvo (xúc phạm cấm điều) trong đó suyato có nghĩa "thánh" và tat có nghĩa "trộm".

"Ngài đã dùng danh từ ấy, ngài định ám chỉ những đại diện của chính quyền Sô Viết là bọn ăn trộm ăn cắp đồ thờ tự? Nghĩa là Ủy ban Hành pháp Trung ương là những quân trộm cướp?"

Cử toạ xôn xao, hò hét. Nhưng Giáo chủ Tikhon vẫn bình thản:

"Tôi chỉ nhắc đến Giáo luật!"

Chánh thẩm Bek xoay sang ngả khác. Nguyên bức thư của Giáo chủ có nhắc đến một vụ xảy ra ở nhà thờ St. Basil, những đồ vàng đồ bạc lấy ra từ các pho tượng thánh không được bỏ vô hộp đàng hoàng mà có người còn dùng chân mà đạp lên. Bữa đó Giáo chủ không có mặt.

"Xin ngài cho biết, linh mục nào báo cáo sự việc ấy? Ngài không có mặt lúc bấy giờ, tất nhiên phải có người thuật lại chứ?"

Giáo chủ Tikhon không tiết lộ. Như vậy khác nào ngài đã dựng đứng câu chuyện. "Ai đã đưa ra sự xuyên tạc đó?" Nếu không có thì hiển nhiên người xuyên tạc là ngài vậy.

"Bây giờ nếu ngài không chịu nói tên người kể thì chắc hẳn ngài phải biết tên kẻ chà đạp lên những món đồ thờ tự chứ? Xin cho biết hắn là ai? Bằng không chính ngài sẽ bị Toà coi là vu cáo".

Giáo chủ Tikhon dĩ nhiên không chỉ đích danh được (Có ai làm một việc như thế đó mà lưu lại tánh danh bao giờ?). Nhưng vu cáo đâu phải tội? Toà Cách mạng phải bắt buộc được ngài vào tội âm mưu lật đổ chính phủ Sô Viết kìa! Giáo chủ Tikhon phải bị ghép vào tội viết và phổ biến tài liệu vu cáo chính quyền có nghĩa là tuyên truyền để chuẩn bị môi trường xách động nhằm tiến tới một cuộc khởi loạn trong tương lai.

Trước Toà Cách mạng, tội trạng Giáo chủ Tikhon vậy là quá rõ, Toà đình xử để lập thủ tục truy tố sau.

Ngày 7 tháng 5 Toà tái nhóm để tuyên án 17 bị cáo của vụ Giáo khu Mạc Tư Khoa: 11 bản án tử hình được công bố nhưng chỉ 5 người bị xử bắn sau đó.

Số phận Giáo chủ Tikhon được quyết định một tuần lễ sau. Ngài bị truất ngôi vị và câu lưu, tạm thời gởi đến Tu viện Donskol giam riêng để "cô lập" với các giáo dân cho họ quen đi đã rồi mới xuống tay sau [2] .

Sau đó hai tuần đến lượt Tổng Giám mục Veniamin bị bắt giữ ở Petrograd. Trước Cách mạng, ông chưa phải là một giáo quyền cao cấp, không phải được chỉ định, tấn phong như các vị Tổng Giám mục khác. Hồi đầu năm 1917 được công cử lên, cùng một lúc với Đức Tổng Giám mục Mạc Tư Khoa. Tính tình ông cởi mở, dễ dãi, đôn hậu. Luôn luôn gần gũi, tiếp xúc với công nhân nhà máy, xí nghiệp nên rất được lòng các giáo hữu cũng như các hàng linh mục thuộc cấp. Do đó mới được họ công cử lên. Lập trường Đức Tổng Giám mục rõ rệt; ông muốn tách rời nhà thờ khỏi chính trường xét vì "Giáo hội chịu đựng đau khổ đã nhiều chỉ vì chính trị!". Vậy mà vẫn cứ phải ra Toà Cách mạng.


Vụ án giáo khu Petrograd

Vụ án giáo khu Mạc Tư Khoa chấm dứt ngày 7 tháng 5 với 11 bản án tử hình trong số 17 bị cáo (sự thật nhà nước chỉ muốn nhằm triệt hạ Giáo chủ Tikhon) thì ngày 9 tháng 6 mở màn vụ giáo khu Petrograd [3] .

Cũng là Toà Cách mạng, song phiên toà Petrograd quan trọng hơn vì số bị cáo lên tới nhiều chục người, với một tội danh rõ rệt hơn: "chống đối lại lệnh xung công, truất hữu tài sản Giáo hội". Bị cáo gồm đủ thành phần: Tổng Giám mục, linh mục, cai quản thánh đường, giáo sư thần học. Chủ toạ phiên toà là Semyonov, một thanh niên 25 tuổi, xuất thân thợ lò bánh. Đại diện chính của Công tố viện là Krasikov, cán bộ cao cấp trong Bộ Tư pháp, một đồng chí cùng thời và kỳ cựu của Chủ tịch Lenin, từng an trí chung ở Krasnoyarsk xuất dương chung và biểu diễn vĩ cầm rất được Lenin mến mộ.

Trên đại lộ Nevsky Prospekt dân chúng sắp hàng dài dọc đường chờ đợi hằng ngày. Mỗi lần xe chở Đức Tổng Giám mục đi ra toà chạy ngang là nhiều người quỳ xuống cầu khẩn: "Cầu xin Thượng Đế cứu vớt, che chở". (Nhiều người chỉ vì cầu nguyện mà bị Mật vụ lôi đi ngay ngoài đường và trước cửa Pháp đình). Tuy nhiên, ngay đám cử toạ ngồi trong phòng phần đông là Hồng quân cũng tự động đứng dậy, mỗi khi Đức Tổng Giám mục Veniamin mặc áo dòng tiến vào phòng xử. Trước toà ông vẫn bị kêu đích danh "kẻ thù của nhân dân", một danh từ mới của thời đại.

Phiên toà Petrograd đáng ghi nhớ ở điểm chưa bao giờ nghề luật sư biện hộ mất giá, xuống dốc thảm hại như vậy! Ông Chưởng lý Krylenko cố nhiên không xếp vào hồ sơ, nhưng một nhân chứng hiện diện cả quyết toà đã hướng mũi dùi vào mấy ông luật sư khiến họ ngỡ ngàng cảm thấy bị công khai nhục mạ. (Thí dụ điển hình là Toà đã lớn tiếng đe doạ bắt giữ tại chỗ luật sư Bobrischhev Puskin là người biện hộ chính của các bị cáo và làm dữ đến nỗi cử toạ gào thét đòi bắt nên ông luật sư Puskin tưởng họ sắp làm đến nơi, vội cởi chiếc đồng hồ vàng, lột bóp nhờ đồng nghiệp Gurovich giữ giùm. Lỡ có bề nào,)

Nhưng không, Toà không truyền giam ông luật sư Puskinh, mà chỉ ra lệnh bắt tại chỗ một nhân chứng là giáo sư Yegorov về tội, dám đứng ra làm chứng cho Tổng Giám mục Veniamin. Dù sao giáo sư Yegorov cũng đã chuẩn bị rồi. Bằng không ông đã chẳng ra toà làm chứng mà đã mang sẵn một chiếc cạc táp dày cộm, bên trong có ít đồ ăn, vài quần áo lót và một tấm mền nhỏ? (Quả thật phiên toà Petrograd hồi đó đã có hình ảnh in hệt những phiên toà gần đây!)

Tổng Giám mục Veniamin bị cáo tội "giả vờ có thiện ý "điều đình" với nhà nước, áp dụng trì hoãn chiến để lo đối phó với lệnh xung công tài vật". Tội danh thứ hai là lén lút phổ biến trong dân chúng bản kêu gọi Ủy ban Cứu đói [4] . Thêm tội danh thứ ba là có hành động toa rập với đế quốc, tư bản.

Để có một tội danh cụ thể, không thể chối cãi trước Toà Cách mạng, Toà đã có một "nhân chứng" giá trị để khép án Tổng Giám mục Veniamin: đó là linh mục Krasnitsky, một vai trò quan trọng của Tân Giáo hội kiêm mật báo viên GPU. Nhân chứng Krasnitsky cả quyết hàng giáo phẩm Petrograd có âm mưu xách động một cuộc nổi loạn, dựa thời cơ nạn đói đang lan tràn.

Phiên Toà chỉ chấp nhận những nhân chứng như Krasnitsky, ngược lại làm chứng có lợi cho các bị cáo là bị gạt tức khắc. Công tố viên Smirnov xin Toà 16 cái đầu nhưng Công tố viên chính Krasikov đòi hỏi mạnh hơn nhiều: "Toàn bộ Giáo hội Chính thống giáo là một tổ chức phản động ngấm ngầm!". Nghĩa là tất cả hàng giáo phẩm đều có tội, phải tống giam hết. (Xét ra ý kiến Krasikov rất thực tế và sau này quả nhiên nhà nước đã làm gần đúng như vậy. Phải đối thoại với nhà thờ trên căn bản Krasikov mới hiệu nghiệm!).

Vì vậy, ngay từ hồi đó, trước Toà Cách mạng Petrograd, luật sư Gurovich biện hộ cho Tổng Giám mục Veniamin phải thốt ra cay đắng:

"Bằng chứng phạm tội không. Sự kiện cũng không. Lại không có đến một khoản phạm pháp luật định! Lịch sử sau này sẽ ghi chép thế nào? (Đồng ý luật sư Gurovich đã sớm biết mang lịch sử ra hù mấy ông Toà Cách mạng. Nhưng lịch sử quên hết, lịch sử có nói gì đâu?). Công tác truất hữu, xung công những tài sản của Giáo hội đã diễn ra êm đẹp, xuôi trót ở Petrograd là thế vậy mà hàng giáo phẩm Petrograd thì bị điệu ra toà như thế này. Hiển nhiên họ bị xô đẩy vào cái chết!

Quý vị vừa nhấn mạnh đến nguyên tắc căn bản là phục vụ nhà nước trước đã. Xin quý vị đừng quên nhà thờ có người đổ máu oan. Tôi xét thấy không còn gì để nói nữa. Nhưng muốn ngừng lời khó quá! Tôi biết rằng còn tranh luận đây được lúc nào họ còn sống lúc đó và tranh luận dứt là mạng họ cũng chấm dứt luôn!"

Toà Cách mạng Petrograd tuyên 10 bản án tử hình, nhưng những cuộc hành hình có lệnh ngưng tạm trên một tháng hình như có ý đợi kết quả của phiên toà xử các đảng viên Xã hội Cách mạng ra sao đã rồi hành hình một lượt cho tiện. Trong khoảng thời gian đó, Ủy ban Hành pháp Trung ương cứu xét và ân xá 6 người. Chỉ có 4 người bị hành hình là Tổng Giám mục Veniamin, Linh mục Tổng quản Sergius, Giáo sư Luật khoa Novitsky và Luật sư Kovsharov. Bốn người bị mang đi xử bắn trong đêm 12 rạng ngày 13 tháng 8 năm 1922.

Cũng xin ghi nhận điều này: trong lúc Toà Cách mạng nhóm ở 2 trung tâm Mạc Tư Khoa và Petrograd thì các địa phương cũng mang những vụ tương tự ra xử. Tổng cộng có thêm 22 vụ được xử ở các tỉnh.

Đã đến lúc phải truy tố đến bọn Xã hội Cách mạng, tạo một bản án chắc chắn sẽ gây nhiều tiếng vang ngoại biên thì ít nhất cũng phải có Luật chứ? Cũng phải có một nền tảng chắc chắn cho Công lý chứ?

Ngày 12 tháng 5 có phiên họp của Ủy ban Hành pháp Trung ương nhưng trọn bộ Luật chưa hình thành, mới có một bản dự thảo gởi tới điện Gorky (ngoại ô Mạc Tư Khoa) để đích thân đồng chí Chủ tịch Lenin nghiên cứu.

Bản giáp đệ trình chỉ có 6 điều dự liệu án tối đa: xử bắn. Đồng chí Chủ tịch tự tay ghi thêm ở ngoài lề 6 điều nữa (trong đó có điều 69 trừng phạt tội tuyên truyền, xách động, đặc biệt là kêu gọi quần chúng tiêu cực chống đối chính quyền bằng cách trốn lính, trốn thuế [5] . Thêm một tội xử bắn nữa là tội ở ngoại quốc về nước lậu (bọn Xã hội là ưa có tật đi đi về về lắm!). Lại có một tội tương đương với xử bắn là tống xuất ra ngoại quốc. Chẳng là đầu óc đồng chí Chủ tịch đã phác hoạ sẵn một ngày gần đây dân Âu châu hẳn phải đổ xô sang Nga và đã được ở Nga chẳng ai dám nghĩ đến việc bị tống xuất đi!

Lenin đã đúc kết một văn thư gởi cho Bộ trưởng Tư pháp như sau:

"Đồng chí Kursky,

Theo ý tôi, phải nới rộng án tử hình dưới hình thức xử bắn (hoặc đày ra ngoại quốc) đối với mọi hoạt động của phe nhóm Menxơvich, Xã hội Cách mạng, Chúng ta phải tìm cách thức gài những hoạt động của chúng dính vào hoạt động của tập đoàn tư bản ngoại quốc".

Nới rộng bản án tử hình dưới hình thức xử bắn. Còn gì rõ nghĩa hơn nữa? Khủng bố là phương pháp khuyến cáo hiệu nghiệm nhất. Làm sao lầm lẫn? Vậy mà đồng chí Kursky cũng không nắm vững được chỉ thị vẫn còn thắc mắc về cách thức gài, nên mới xin diện kiến đồng chí chủ tịch để thỉnh thị ý kiến. Dĩ nhiên cuộc tiếp xúc tiến hành ra sao ta chẳng thể hay biết nhưng ngày 17-5 lại có văn thư của Lênin từ điện Gorky gởi tới.

"Đồng chí Kursky,

Sau cuộc tiếp xúc hôm rồi, đây là dự thảo điều khoản bổ túc cho Bộ Hình luật. Quan điểm căn bản rõ rệt, bổ túc những thiếu sót ở bản dự thảo, ấn định thành cơ chế hẳn hoi, vừa đúng nguyên tắc vừa đúng đường lối chính trị (không thiển cận về mặt pháp lý mà thôi) để giải thích nguyên lý cũng như về sự chính đáng, sự cần thiết và giới hạn của sự khủng bố.

Toà không thể gạt bỏ khủng bố. Hứa hẹn gạt bỏ chỉ tự chuốc lấy thất vọng. Để đặt nền tảng, chính thức hoá nó một cách rõ ràng, hợp nguyên tắc, không đạo đức giả, không đánh bóng, thiết tưởng cần phải đặt vấn đề khủng bố một cách rộng rãi để với tinh thần tiến bộ cách mạng sẽ tùy tiện áp dụng vào thực tế.

Chào Cách mạng".

Bức văn thư của Lênin thật sáng tỏ, gọn gàng. Đừng mổ xẻ phê bình vội, mà im lặng, suy nghĩ.

Chỉ thị vắn tắt song quan trọng, vì đồng chí Chủ tịch chẳng còn sống bao lâu nữa. Kể như một phần của chúc thư chính trị gởi lại cho đời sau. Lúc bấy giờ Lênin chưa ngã bệnh. Mãi mười hôm sau mới bị cú đầu tiên và chỉ tạm thời phục hồi mấy tháng mùa thu năm 1922. Không chừng 2 lá thư chỉ thị gởi đồng chí Kursky đã được viết trong căn phòng đá hoa ở lầu hai, nơi chiếc giường chết đã nằm chờ người.

Kèm theo thư là bản giáp 2 đoạn bổ túc điều luật sau này sẽ biến thành điều 58, khoản 4 và trọn điều 58 Hình Luật đáng ghi nhớ. Đáng phục ở chỗ chúng đã được cấu tạo thành văn một cách rộng rãi để tùy tiện áp dụng, theo tinh thần Cách mạng!

"Tuyên truyền hay xách động, tham gia một tổ chức hoặc trợ giúp (có thể hiểu đang trợ giúp hay có thể trợ giúp) cho những tổ chức hay cá nhân có những hành động được xem là,".

Hãy cứ đưa ông thánh Augustine ra đây! Tôi cam đoan chỉ trong một nháy mắt cũng khép cứng được ngài vào điều luật rộng rãi một cách ghê sợ đó.

Lenin đã có chỉ thị thì cố nhiên bản dự thảo Luật được sửa chữa bổ túc gấp – thêm đủ bằng ấy khoản nới rộng án tử hình – để đánh máy lại chuyển qua Ủy ban Hành pháp Trung ương chấp thuận nguyên vẹn ngày 20-5 để kịp ban hành kể từ 1 tháng 6 năm 1922.

Ít ra cũng phải có một bộ Hình luật, một căn bản pháp lý nòng cốt để còn tiến hành vụ Đảng Xã hội Cách mạng, một vụ án lớn kéo dài hai tháng trường,


Vụ án Đảng Xã hội Cách mạng

Một vụ án chính trị có tầm ảnh hưởng rộng lớn dĩ nhiên phải đưa ra Verkthrib, tức Toà án Tối cao. Cả thế giới xã hội chắc chắn nhìn vô theo dõi nên nổi tiếng hùng biện, lập trường vững (tình cờ đến oái oăm, trong ngôn ngữ Nga danh từ Karklin tên ông Chánh thẩm còn có nghĩa là "sủa, gáy, lớn họng", mà hùng biện, lập trường vững như đồng chí Chánh thẩm Pyatakov thì 15 năm sau cũng đâu bị thanh trừng đâu!).

Vụ án đặc biệt là không có luật sư biện hộ. Các bị cáo biện hộ lấy, toàn những tay gộc của Đảng Xã hội Cách mạng, những "cây tranh luận" nhưng vẫn không cãi lại nổi một mình đồng chí Chánh thẩm!

Ngày 8 tháng 6 năm 1922, Trung ương Đảng bộ Xã hội Cách mạng ra Toà Tối cao không phải vì họ phạm pháp. Toà đâu có xét xử họ có tội hay không có tội? Căn bản vấn đề ở điểm họ là thành phần phải triệt hạ, qua một phiên toà để lấy căn bản pháp lý. Không như phe nhóm Menxơvich, Đảng Xã hội Cách mạng đã đến lúc phải triệt hạ cho xong vì họ còn chưa chịu giải tán, còn là một mối nguy mà chế độ vô sản không thể chấp nhận.

Xin đừng hiểu là Đảng muốn xuống tay trả thù bọn Xã hội Cách mạng, dù "được làm vua, thua làm giặc" là chuyện thường tình của lịch sử. Trừ một vài nước chế độ đại nghị trong khoảng thời gian cỡ vài chục năm thì lịch sử các dân tộc trên thế giới còn là gì nếu chẳng phải Cách mạng và cướp chính quyền lên xuống liên miên? Ôi, còn gì vẻ vang cho phe thắng bằng nắm vững cả tương lai lẫn quá khứ trong tay, có quyền khoác tấm áo Công lý chói sáng để hạch hỏi, luận tội những thằng thất trận? Cái gì cũng luận tội được hết, có thể công nhiên trừng phạt trước toà được hết.

Đồng ý Bộ Hình Luật mới hoàn thành và ban hành được vừa đúng 1 tuần lễ. Nhưng đó quả là kinh nghiệm đúc kết của 5 năm chính quyền. Cũng như 20 năm, 10 năm về trước và 5 năm trước đây thôi, Đảng Xã hội Cách mạng còn là anh em láng giềng, đồng minh thân thiết để cùng nhau đứng lên lật đổ ngai vàng thống trị! Xã hội Cách mạng là chủ lực, là cánh tiền phong chủ trương Cách mạng bạo động khủng bố [6] nên đảng viên Xã hội Cách mạng sa cơ nhiều, lãnh đủ lao tù đày ải, chớ bạn đồng minh Bônxơvich gần như có hề hấn gì đâu?

Trước toà Tối cao, các đảng viên Xã hội Cách mạng bị truy tố về nhiều tội danh.

Tội danh thứ nhất là Đảng Xã hội Cách mạng đã phát khởi nội chiến! Họ bị buộc đã võ trang chống lại Cách mạng tháng 10 cướp chính quyền. Lúc chính phủ Cách mạng lâm thời (mà Đảng ủng hộ và tham gia mạnh) bị Hải quân quật ngã hợp pháp bằng đại liên thì Đảng Xã hội Cách mạng đã bảo vệ chính phủ bất hợp pháp đó dám bắn trả lại và còn kêu gọi bọn đảng viên Dân chủ Lập hiến cùng đứng về phe, cố bảo vệ đến cùng. Thua về quân sự họ không chịu đầu hàng về chính trị, không chịu khuất phục Hội đồng Nhân dân đã nắm chính quyền. Đảng Xã hội Cách mạng nhất định chỉ công nhận chính quyền cũ cũng như không chịu nhìn nhận đường lối hoạt động 20 năm của Đảng là cả một sai lầm, đã đến lúc phải giải tán hẳn.

Tội danh thứ hai là đào sâu thêm hố sâu nội chiến, tổ chức biểu tình phiến loạn chống chính quyền công nông trong hai ngày 5 và 6 tháng 1 năm 1918, tuyên bố ủng hộ Quốc hội Lập hiến (do tổng tuyển cử kín, tự do và trực tiếp) mặc dầu Hải quân và Vệ binh đỏ đã thẳng tay truất phế. Thử hỏi Quốc hội Lập hiến có làm được việc gì ngoài việc làm nổ bùng 3 năm nội chiến? Tại sao không ngoan ngoãn tuân theo những Sắc lệnh của Hội đồng Nhân dân?

Tội danh thứ ba là không chịu công nhận hoà ước Brest Litovsha mà lại còn chỉ đích danh chính quyền nhượng đất cho địch, rõ ràng có những dấu hiệu phản quốc, gây tội ác đẩy đất nước vào vòng chiến tranh (phản quốc, một danh từ mà cũng là một cây hai đầu sanh, tử. Cầm đầu này thì sống, đầu kia phải chết!)

Tội danh thứ tư còn nặng hơn: Mùa hạ, mùa thu năm 1918, vào giai đoạn cuối cùng Đức ráng cầm cự chống Đồng minh, chính quyền Sô Viết chiếu hoà ước Brest đã gởi sang viện trợ nhiều chuyến xe lửa vận lương cùng với số vàng phải đóng góp hàng tháng, Đảng Xã hội Cách mạng đã chuẩn bị (đồng ý bọn Xã hội bao giờ chẳng chuẩn bị, mồm, có làm nên việc bao giờ, nhưng lỡ họ làm thật thì sao?) để cho phá nổ nhiều khúc đường rầy, chặn những đoàn xe lại, không cho chở vàng sang Đức. Hiển nhiên Đảng Xã hội Cách mạng đã chuẩn bị phá hoại đường rầy là tài sản nhà nước).

(Ở đây xin mở dấu ngoặc cho rõ: năm 1922 Đảng Cộng sản còn chưa cần che giấu những vụ chuyển vàng sang Đức để giúp xây dựng chế độ Quốc xã Hitler sau này. Không hiểu Công tố viện hồi đó quan niệm thế nào là tài sản nhà nước? Nếu phá đường rầy là phá hoại tài sản nhà nước thì chở vàng sang ngoại quốc không phải là tội?)

Tội danh thứ năm cũng do tội trên: "Đảng Xã hội Cách mạng đã dự mưu mua vật liệu, dụng cụ phá hoại đường rầy bằng tiền của phe Đồng minh đưa (nghĩa là dùng tiền Đồng minh để hoạt động ngăn cản nhà nước chuyển vàng cho Đức). Đây là một trọng tội phản quốc.

Tội danh thứ sáu là đảng viên Xã hội Cách mạng làm gián điệp cho phe Đồng minh năm 1918. Trước đó làm Cách mạng nhưng về sau làm gián điệp. Năm 1922 tội gián điệp nghe còn nổ lắm nhưng dần dà vì nhiều gián điệp quá nên chẳng ai muốn nghe.

Từ tội danh thứ bảy đến tội danh thứ mười toàn là tội hợp tác. Hợp tác với Savinkov, với Filonenko, với Đảng Dân chủ Lập hiến, với nhóm Phục Sinh (không hiểu có nhóm này thật không?), với bọn sinh viên tiểu tư sản phản động và với, cả đám Sĩ quan phiến loạn nữa!

Những tội danh chằng chịt của Đảng Xã hội Cách mạng được Công tố viện bài ra dễ sợ thật nhưng giọng điệu buộc tội của đồng chí Krylenko không gay gắt, căm thù mà nghe như chỉ trích thân hữu, chia sớt tình cảm là khác. Chiến thuật "nói ngọt" bắt nguồn từ phiên xử này và đạt đến độ tận thiện tận mỹ năm 1937.

Qua giọng nhẹ nhàng buộc tội của Công tố viên, người ta có cảm tưởng kẻ xử án và người chịu án cùng chung một phe phái anh em. Nó đã đánh trúng nhược điểm của các "đồng chí" Xã hội Cách mạng. Làm sao không mũi lòng cho được, khi Ủy viên Chính phủ có lời trách móc:

"Dầu sao, các anh và chúng tôi, chúng ta cũng là người cách mạng với nhau! Tại sao các anh có thể cúi xuống, đi liên kết cùng bọn Dân chủ Lập hiến lạc hậu? Tại sao các anh có thể đi cùng bọn Sĩ quan phiến loạn? Các anh lại còn huấn luyện cho tư bản phản động, bọn sinh viên giá áo túi cơm về kỹ thuật, kế hoạch gây loạn nữa!"

Trước Toà Tối cao, các đảng viên cao cấp Xã hội Cách mạng đã bị buộc tội như vậy, nhưng họ đối đáp thế nào? Tuyệt nhiên không có tài liệu, hồ sơ trực tiếp ghi lại những lời tự biện hộ. Không biết có những người nào vạch ra rằng tính chất đặc thù của Cách mạng tháng 10 là tuyên chiến lập tức cùng bất cứ phe nhóm nào tham gia Cách mạng, gạt họ ra ngoài ngay từ đầu? (Họ đâu có mời tham gia, anh đâu dám ăn không nói có). Có thể một vài người thấm thía lời Công tố viên trách móc, tủi hổ cúi mặt cho sự xuống chân của mình. Coi, đang nằm xà lim tối om được ra chỗ sáng, được ông Công tố ngọt ngào như vậy sao khỏi động tâm?

Và ngay từ hồi 1922, Krylenko đã tìm ra đúng đường lối để sau này đàn em Vyshinsky cứ thế mà đánh vào tử điểm bọn phản động Kamenev, Bukharine; đã liên kết với phe nhóm tư bản phản động thì thế nào cũng nhận tiền của tư bản. Mới đầu đương nhiên anh chỉ nhận tiền với tư cách cá nhân để hoạt động hoặc vì lý tưởng. Cũng đương nhiên không phải đường lối Đảng. Nhưng làm cách nào vạch rõ thế nào là cá nhân, thế nào là hoạt động đoàn thể? Lý tưởng của cá nhân anh cũng có thể là lý tưởng của đoàn thể lắm chớ? Chao ôi, một đảng mang danh hiệu Xã hội Cách mạng mà nhận tiền tư bản thì còn gì là Cách mạng? Còn gì là thanh danh?

Khi tội danh đã vạch ra chất chồng thì dĩ nhiên Toà phải nhóm xử để rồi nghị án tùy trường hợp từng người, Nhưng tới đây lại nảy ra một chướng ngại làm đảo lộn hết, xét vì:

  1. Tất cả những hoạt động của xã hội cách mạng kể như phạm pháp đều xảy ra từ hồi 1918.

  2. Ngày 27 tháng 2 năm 1919 đã có lệnh ân xá riêng Đảng Xã hội Cách mạng, tha thứ tất cả những hoạt động chống đối phe Bôn-xê-vích trong quá khứ, với điều kiện là họ phải cam kết không hoạt động, tranh đấu trong tương lai.

  3. Từ ngày đó họ không hoạt động, không tranh đấu thực sự.

  4. Bây giờ mới là 1922. Vậy phải làm thế nào?

*


Đúng, phải làm thế nào để tròng tội vào cổ bọn Xã hội Cách mạng, đó là nhiệm vụ của đồng chí Krylenko.

Nguyên lệnh ân xá riêng các anh em Xã hội bắt nguồn từ sự can thiệp của Quốc tế Xã hội, yêu cầu chính quyền Xô Viết nương tay đối với anh em cùng một mặt trận. Vả lại từ đầu năm 1919, trước sự đe doạ của 2 mũi dùi Kolchak và Denikin, Đảng Xã hội Cách mạng tự ý quyết định ngưng chống chế độ Bôn-xê-vích, đảng bộ Xã hội Cách mạng ở Samara còn mở một lỗ hổng ở mặt trận Kolchak, do đó mới có lệnh ân xá. Ngay trước Toà, cán bộ Xã hội Cách mạng cấp Trung ương Gendelman còn tuyên bố thật ngây thơ: "Nhà nước thử nới lỏng, cho hưởng đủ các tự do căn bản coi. Chúng tôi đâu có phạm pháp nữa!". (Chao ôi, có bao giờ nhà nước nới lỏng, cũng như các tự do căn bản có cho ai bao giờ?).

Lập trường cấp Trung ương của Đảng Xã hội Cách mạng là thế đó! Được như vậy là hết chống đối, coi chế độ Xô Viết là hợp pháp, nghĩa là không cần xét lại vụ truất phế cả Chính phủ Lâm thời lẫn Quốc hội Lập hiến! Chỉ yêu cầu nhà nước cho tổ chức tuyển cử tự do, chấp nhận cho tất cả các đảng phái tự do tranh cử.

Đâu thể có chuyện nhà nước Xô Viết chấp nhận cho dễ dàng như vậy? Lại một "đòn xâm nhập của tư bản"! Thời buổi khủng hoảng, kẻ thù bao vây bốn phía thì chấp nhận thế nào được? (Hai chục năm, năm chục năm, một trăm năm nữa dĩ nhiên vẫn chưa hết, khủng hoảng, kẻ thù bao vây bốn phía!).

Nói làm gì đến tự do tranh cử. Để đối đáp lại thiện tình của anh em Xã hội Cách mạng đưa đề nghị hoà bình, nhà nước Xô Viết có ngay quyết định: phải tống cổ toàn thể Trung ương Đảng bộ Xã hội Cách mạng vào tù! Lượm được mạng nào tốt mạng ấy, ít ra cũng đỡ lo chúng ngo ngoe tuyên truyền chống đối.

Khi đã tống giam bằng hết rồi, liệu có cần phải đưa chúng ra toà không? Câu lưu tới 3 năm rồi mà. Nhưng nếu đưa ra toà thì truy tố chúng về những tội gì? Dù sao cũng phải tìm ra tội trạng của từng người và thời buổi đó, công việc thẩm vấn trước khi truy tố còn quá nhiều thiếu sót, như lời thú nhận của đồng chí Krylenko.

À, có một tội rõ rệt, không cãi vào đâu được. Tháng Hai năm 1919 Đảng Xã hội Cách mạng đưa ra một nghị quyết (chưa thi hành) song căn cứ theo Bộ Hình Luật mới thì làm rồi hay chưa cũng vậy! Cán bộ Xã hội Cách mạng được lệnh ngấm ngầm xách động hàng ngũ Hồng quân, kêu gọi binh sĩ ngừng tay, không tham gia vào những vụ bắn, giết trả thù nông dân. Xách động như vậy đủ là phản động, là âm mưu phản cách mạng rồi! Lại còn mớ tài liệu của Phái đoàn Đại diện Trung ương Đảng bộ ra ngoại quốc hoạt động nữa. Chỉ có nói miệng thôi, nhưng toàn là chứng cớ buộc tội được hết.

Tuy nhiên phải tìm cho ra một tội cụ thể, tội khủng bố bạo động chẳng hạn. Nói đến cánh tả Xã hội Cách mạng là người ta liên tưởng đến bạo động, khủng bố rồi. Càng dễ làm việc! Chẳng hạn như trước khi có lệnh ân xá, Đảng Xã hội Cách mạng chẳng có sẵn kế hoạch khủng bố các cấp lãnh đạo Xô Viết đó sao? Phải hiểu lệnh ân xá chỉ đặt điều kiện ngưng hoạt động, tranh đấu , nghĩa là nếu trước có tranh đấu cũng được ân xá, chớ có tha thứ cả tội bạo động, khủng bố đâu? Đó là một đầu mối chắc chắn để đồng chí Krylenko có thể phăng dần ra nhiều tội khác.

Và nếu nói đến vấn đề khủng bố thì mấy ông cấp lớn Xã hội Cách mạng rành lắm. Nhất là khủng bố mồm, đe doạ khủng bố!

Chẳng hạn như ở kỳ Đại hội Đảng thứ 4, Chernov đã hùng hồn đe doạ: "Nếu kẻ nào chà đạp lên quyền lợi của nhân dân, Đảng sẽ dồn sức mạnh đập nát liền, như đã chứng tỏ dưới thời Nga hoàng!" Và Gots còn mạnh mẽ tố thêm: "Nếu bọn độc tài ở Smolny dám đụng tới Quốc hội Lập hiến thì Đảng Xã hội Cách mạng nhất định không quên những chiến thuật đắc lực từng thử thách dạo nào". (Khủng bố miệng thì ghê gớm như vậy, nhưng thực sự Đảng Xã hội Cách mạng có làm một cái gì đâu?).

Đảng Xã hội Cách mạng không quên. Có điều không hành động. Nhưng với Bộ Hình Luật mới thì đe doạ xuống cũng đủ rồi!

Đồng ý rằng Trung ương Đảng bộ Xã hội Cách mạng năm 1918 ra nghị quyết không áp dụng khủng bố với các anh em Bôn-xê-vích, Đảng chỉ tuyên bố nếu phe Bôn-xê-vích không sát hại cán bộ Xã hội Cách mạng thì Đảng cũng không giở thủ đoạn khủng bố, cũng như năm 1920 đe doạ nếu phe Bôn-xê-vích làm hại đến sinh mạng các con tin Xã hội Cách mạng (tức tù nhân) thì Đảng sẽ võ trang nổi đậy. Nhưng làm sao ngăn được cá nhân Đảng viên nhúng tay vào khủng bố, phá hoại? Chẳng hạn một đảng viên Xã hội Cách mạng âm mưu gài mìn cho nổ đầu máy đoàn xe lửa chở các Ủy viên Hội đồng Nhân dân tới Mạc Tư Khoa. Tội mưu sát sẽ được quy trách cho Trung ương Đảng bộ Xã hội Cách mạng! Đồng chí Ivanora mang một bánh chất nổ nằm phục một đêm gần nhà ga. Vậy là có cuộc sắp đặt mưu hại lãnh tụ Trotsky và chủ mưu còn ai ngoài Trung ương Đảng Xã hội Cách mạng? Ngay như vụ Donskoi, Ủy viên Trung ương Xã hội Cách mạng ra nghiêm lệnh cho nữ đồng chí Fanya Kaplan, doạ trục xuất khỏi Đảng nếu cứ đi rình ám sát Lenin mà cũng cấu thành tội trạng để buộc tội Đảng Xã hội Cách mạng kia mà.

Giản dị là cá nhân vô kỷ luật gây rối thì đoàn thể chịu trách nhiệm và "chuyên viên gây rối", mấy tay bắn mướn thì Đảng Xã hội Cách mạng có khá nhiều, kiểm soát không nổi vì họ "thất nghiệp" đông quá! (Năm 1922 hai chuyên viên Konopleva và Semyonov cũng bị bắt và phản tỉnh kịp thời, cung cấp khá đủ tài liệu cho GPU. Dù không xài được vào việc khép án cấp lãnh đạo Xã hội Cách mạng, 2 ông cán bộ khủng bố mềm lưng này cũng được nhà nước trả tự do thật đột ngột).

*


Qua những tài liệu, nhân chứng mà Công tố viện nếu ra trước Toà tối cao, ánh sáng vàng vọt, le lói của Công lý thời đó cũng đã soi tỏ cả một đoạn đường lịch sử vòng vo bấp bênh, lạc hậu của một nhóm người ô hợp, không mục tiêu, hết hy vọng, chỉ mạnh miệng nói! Gọi là Đảng nhưng có thực sự hoạt động đâu, có được lãnh đạo bao giờ, nhưng bất cứ một hành động lẻ tẻ, quyết định hay không quyết định chiến hay hoà mà đã ra Toà Tối cao đều là tội hết! Không lật đổ nhà nước, không bạo động khủng bố, không chiếm hữu tài sản bất hợp pháp thì Đảng Xã hội Cách mạng vẫn cứ bị truy tố chỉ vì một tội mà ông Chưởng lý Krylenko đã xác định:

"Tất cả các bị cáo hiện diện sau cùng vẫn có thể bị ghép vào một tội, không trừ một ai: đó là một tội biết mà không chịu cáo giác với nhà nước!"

Chao ôi, Đảng Xã hội Cách mạng mà bị lên án không cáo giác lẫn nhau cho hết thì quả là không còn gì để nói nữa! Bộ Hình Luật mới rộng rãi đến như vậy quả là đã dọn đường sẵn để các thế hệ sau thẳng tiến về Tây Bá Lợi Á. Nó mới đến nỗi ông Chưởng lý Krylenko không biết đường mò, không nhớ nổi số các điều khoản quy định tội hoạt động phản Cách mạng. Hình như lưỡi dao máy chém treo đã lâu giờ chỉ nhằm các điều khoản này mà giáng xuống vậy! Nó thô sơ đến nỗi không cần phân biệt hành độngdự mưu. Tội trạng như nhau và hình phạt cố nhiên cũng như nhau!

Qua phiên Toà xử Đảng Xã hội Cách mạng người ta đã thấy thấp thoáng – như một hoạ sĩ xuống bút phóng hoạ vài nét thô sơ làm chuẩn – bóng dáng của những phiên toà sau này: 1937, 1945, 1949. Chỉ có một nét duy nhất trội hơn mà thế hệ sau không có: đó là tư cách các bị cáo trước toà. Họ chưa là cừu mà vẫn còn người vì qua lời Krylenko, họ nghiễm nhiên tin tất cả những chuyện họ đã làm đều có chính nghĩa, do đó họ đã khẳng khái tự tìm nguồn an ủi ở sự giữ vững tư cách, sau này thế nào cũng có người biết tới và ca ngợi. Họ còn sẵn sàng làm lại hết mà. Dĩ nhiên muốn tìm hiểu tư cách trước toà của đảng viên Xã hội Cách mạng cũng chẳng có cách nào khác hơn giở lại chồng hồ sơ Công tố viện, ở chính những lời buộc tội của đồng chí Krylenko.

Chẳng hạn như Berg cương quyết tố cáo: chính các chiến sĩ Bôn-xê-vích phải chịu trách nhiệm về vụ hạ sát những người biểu tình chống lại lệnh truất phế Quốc Hội Lập hiến ngày 5.1.1918. Còn chiến sĩ Xã hội Liberov chỉ ân hận một điều: "Tôi cảm thấy phạm tội nặng đối với hàng ngũ công nhân vì năm 1918 đã không gắng hết sức để quật ngã bằng được chính phủ Bôn-xê-vích!" Nữ chiến sĩ Yevgenyia Ratner cũng chỉ ân hận in hệt, không tận lực chống bọn gọi là chính quyền Công nông, nhưng tôi hy vọng rằng còn có ngày làm lại!".

Chao ôi, ngày đó qua luôn rồi! Cũng như những lời lẽ hào hùng vì hăng say, vì quen thói, nhưng phải nhìn nhận dầu sao các đảng viên Xã hội Cách mạng năm 1922 không mềm lưng vẫn giữ trọn tư cách. Nếu không tư cách, chắc chắn Gendelmen Grabwsky đã chẳng dám tranh luận với đồng chí Krylenko (dù chính bị cáo cũng là một luật sư) để vạch rõ nhiều nhân chứng đã được chuẩn bị bằng những phương pháp đặc biệt trước khi ra toà (GPU thiếu gì những phương pháp đặc biệt để buộc nhân chứng khai trước toà?). Còn những vụ đột ngột xuất trình thêm bằng cớ, lời khai vào giờ chót và lần đầu tiên trước toà, dù theo thủ tục chính Chưởng lý Krylenko đã chịu trách nhiệm tổng quát, theo dõi để vá víu kịp thời các hồ sơ ngay trong thời kỳ thẩm vấn.

Chẳng qua những sơ sót đó chỉ là những mấu ráp nối chưa bào chuốt mà thôi. Có một cái gì hoàn toàn được? Chưởng lý Krylenko xác nhận ngay:

"Chúng tôi thực sự không quan tâm đến vụ lịch sử rồi đây sẽ phê phán ra sao!"

*


Sự thực không thể nói nổi một sự trơn tru, toàn vẹn từ đầu đến cuối trong công tác lập hồ sơ truy tố ra toà. Ít nhất cũng có đến 3 giai đoạn riêng rẽ chớ không thể giản dị chỉ qua thủ tục hồi cung mà xong! Phải có sơ vấn để trước khi đi sâu vào điều tra để sau cùng tóm gọn trong bản cung khai có tính cách tự thú. Dĩ nhiên GPU phải đặt nặng công tác điều tra, đúng chiều hướng mà Cơ quan có chỉ thị,

Thiết thực mà nói thì ông Chưởng lý Krylenko đã phải mất đứt nửa năm trời chuẩn bị sắp đặt hồ sơ ở giai đoạn sơ vấn, cộng thêm đúng hai tháng để điều tra, thẩm vấn (phụ trách là nhóm chuyên viên Cơ quan, với thẩm quyền rộng rãi) để đúc kết thành những bản cung khai mà tối đa Krylenko cũng chỉ cần đúng 15 giờ để duyệt xét lại lần chót để truy tố ra Toà là phải có căn bản pháp lý đàng hoàng.

Dĩ nhiên có một cách truy tố giản dị hơn nhiều là bắn bỏ bằng hết! Trường hợp Đảng Xã hội Cách mạng xét chẳng thể giản dị hoá vậy được. Còn dư luận quốc tế chớ. Đó là ly do Krylenko xác định rõ là: "Cáo trạng do Công tố viện trình toà không có tính cách chỉ thị buộc Toà phải xử theo chiều hướng. Nhiệm vụ Toà là căn cứ trên cáo trạng để cân nhắc, xét xử và tuyên án".

Kể ra một Toà án Tối cao mà còn cần đến một giải thích như vậy quả là thừa thãi! Tuy nhiên Toà phải chứng tỏ là dù sao cũng còn quyền phán quyết, đâu thể cho phép bắn bỏ dân Nga đến thằng phản động cuối cùng? Toà chỉ tuyên 14 bản án tử hình. Đa số lãnh án phạt giam, còn hình thức đưa đi đày để "lao động cải tạo" thì khoảng một trăm bị cáo còn lại.

Nếu Toà Tối cao không nhận chỉ thị của Công tố viện thì trái lại tất cả Toà án các cấp trên toàn quốc đều phải chiếu bản án của Trung ương để làm gương. Đó là bản án mẫu để các Toà địa phương lấy làm căn bản chung tuyên án. Thủ tục áp dụng là như vậy nên số người chịu án kế tiếp cứ tính từng tỉnh hạt và làm tính nhân lên. Phần đông lên xe lửa đi đày trại Cải tạo!

Nhưng đặc quyền ân xá của Ủy ban Hành pháp Trung ương mới là quyết định tối hậu, ăn trùm tất cả các bản án Toà! Ủy ban Hành pháp Trung ương không ân xá một ai và Toà Tối cao chẳng phải án treo nhưng trên thực tế tạm ngưng thi hành. Đợi phản ứng của những thành phần Xã hội Cách mạng còn lọt lưới, nhất là đang ở ngoại quốc coi sao đã! Con tin của các anh đã nằm sâu trên thớt, liệu chừng mà hó hé, vận động phản đối.

Bước qua mùa gặt thứ hai của thời đại hoà bình, nhà nước đâu cần phải xuống tay hành chi cho lắm. Cần thiết lắm mới để Cơ quan làm ở sân trong, hay kẹt như vụ Yuroslav, Tổng Giám mục Veniamin ở Petrograd, Phải tạo điều kiện tốt, một bầu trời xanh lơ trong trẻo để cho các phái đoàn ngoại giao, báo chí khởi sự xuất ngoại chớ? Con tin đã nằm cứng trong tay Ủy ban Hành pháp Trung ương của Công Nông thì còn vuột đi đâu?

Tờ Sự Thật đã dành hẳn 60 số liên tiếp theo dõi, trần thuật tỉ mỉ vụ án Xã hội Cách mạng. Cán bộ cao cấp chính quyền là phải đọc hết – đọc Sự Thật là bổn phận. Tất cả đều gật gù: "Đúng lắm, Đích đáng lắm. Phải vậy mới được!". Có một giọng nào chống đối, nói khác đi đâu?

Vậy thì hà cớ họ ngạc nhiên sau này, năm 1937? Có gì đáng phàn nàn, phản đối? Nền tảng của vô luật đã chẳng được dựng nên từ 1922, khởi từ thẩm quyền xử án ngoài lề của Cheka, đúc kết bằng bộ Hình Luật trẻ trung, cơ sở pháp lý vững chắc của những phiên toà thời đó.

Nếu năm 1922 là năm cần thiết để giải quyết, thanh toán thì tại sao 1937 lại không? Đối với Stalin cần phải có. Không chừng một cần thiết lịch sử cũng nên! Dù chẳng phải nhà tiên tri, đồng chí Chưởng lý Krylenko đã biện chứng trúng phóc: "Toà không xét xử Quá khứ, mà xét xử Tương lai!". Lưỡi hái đã đưa cao, chỉ nhát đầu còn khó phần nào, Nhân vật lớn cuối cùng của Đảng Xã hội Cách mạng bị lọt lưới – hay tự ý chui đầu vào rọ – là Boris Viktorovich Savinkov bị cơ quan An ninh Xô Viết bắt được ngày 20 tháng 8 năm 1922 giữa lúc vượt biên giới về nước. Cố nhiên Savinkov bị đưa về Lubyanka nằm tức khắc.

Tại sao Savinkov lại đâm đầu về đến nỗi sa lưới dễ dàng như vậy. Mãi sau này tạp chí Neva số 11 năm 1967 mới tiết lộ sự thực qua mẩu hồi ký của một chứng nhân giá trị là Ardamatsky, một kẻ có thẩm quyền gần gũi các hồ sơ mật của Bộ Nội An. Sau khi bắt một số đảng viên cốt cán của Xã hội Cách mạng, Cơ quan đã mua đứt họ, lợi dụng họ gài bẫy giùm nhử Savinkov về. Mấy tên phản được GPU cho ra bí mật, xuất dương tìm đến đàn anh báo cáo: Tổ chức của Đảng ta có một cơ sở lớn, còn hoạt động được nhưng đành nằm yên chỉ vì thiếu một cấp lãnh đạo cừ. Chỉ thiếu Savinkov! Bị đánh trúng tự ái lãnh tụ, muốn phục vụ Đảng lần chót nên Savinkov đánh liều từ Nice (Pháp) về nước, cố gây dựng cơ sở Đảng. Được bọn đàn em hướng dẫn về, tổ chức thật kín đáo, nhưng lọt ngay lưới GPU giương ra chờ sẵn bên kia biên giới! Sự thực có thể gần như vậy).

Một cán bộ "phản nghịch" quan trọng như vậy mà Lubyanka khai thác quá lẹ: chỉ cần viết bản tự thú, khai rõ hoạt động là hồ sơ kết thúc ngày 23 tháng 8. Vì kết thúc quá cấp tốc nên người ta cho rằng Savinkov đã tự ý cung khai chớ tra tấn tối da cũng chẳng làm lẹ được cỡ đó!

Bản cáo trạng chính thức thì danh từ chuyên môn đã có mẫu sẵn, chỉ việc thu xếp sao cho giả cũng thành thiệt. Nghĩa là tưởng tượng ra được tội gì thì bị cáo Savinko lãnh tội đó! Trước hết là "kẻ thù gốc bần cố nông", tiếp tay tư bản thực hiện những mục tiêu đế quốc (nghĩa là chủ trương đánh Đức), có liên lạc với Bộ Tư lệnh Đồng minh (dù với tư cách Bộ trưởng Chiến tranh của chính phủ Cách mạng Lâm thời!), tham dự những Ủy ban gây hấn trong quân lực và chót hết là tội "có cảm tình với giới bảo hoàng"!

Ngoài mớ tội "căn bản" đó, Savinkov còn nhiều tội mới – những tội sau này trở thành "tiêu chuẩn" – nào nhận tiền bạc đế quốc, nào làm gián điệp cho Balan (chớ không phải cho Nhựt Bổn!) và cụ thể nhất là "dự mưu đầu độc Hồng quân bằng độc chất potassium cyanide!).

Toà khai mạc ngày 26.8 dưới quyền Chánh thẩm Ulrikh. Đặc biệt là không luật sư biện hộ mà đại diện Công tố viện cũng không.

Bị cáo Savinkov tự biện hộ quá ngoan ngoãn. Toà có đưa bằng chứng cũng không buồn cãi. Thái độ gần như thản nhiên chấp nhận bằng hết, Toà muốn xử sao cũng được. Lần chót được về nước, được nói trước công chúng và được dịp hối ngộ là tốt rồi!

Ngần ấy sự kiện đã lạ chớ? Nhưng lạ nhất là chính bản án! Xét vì để duy trì Công lý và trật tự cách mạng, án tử hình không cần thiết trong trường hợp này. Vả lại cũng cần khẳng định rõ Công lý của giai cấp vô sản chẳng phải là một dụng cụ trả thù cho nên Savinkov chỉ bị trừng phạt bằng bản án nhẹ nhàng là 10 năm tù.

Savinkov mà chỉ 10 năm tù? Quá nhẹ! Dư luận xôn xao, Chế độ ta khởi sự nương tay thiệt sao? Có sự thay đổi gì đây? Trên tờ Sự Thật, chính đồng chí Chánh thẩm Ulrikh còn phải lên tiếng giải thích lý do tại sao không cần phải tuyên án tử hình.

Phải biết là chế độ ta sau 7 năm cầm quyền đã vững mạnh thế nào! Tại sao lại phải e dè, sợ sệt một thằng cỡ Savinkov chớ? (Nhưng 20 năm sau nó lại yếu dần! Đừng trách cứ tại sao kỷ niệm 20 năm Cách mạng thành công mà phải xử tử đến mấy ngàn người).

Vụ hồi hương của Savinkov đã là chuyện lạ. Không bị án tử hình còn lạ hơn! Nhưng chuyện lạ nữa thì phải đợi đến tháng Năm năm 1925 mới đột biến. Chắc vì khủng hoảng tinh thần quá nên thình lình tù nhân Savinkov đã lao đầu ra ngoài khung cửa sổ (mở ngỏ, không bít bùng) để gieo mình xuống sân trong khám đường Lubyanka! Mấy cán bộ có nhiệm vụ theo sát, canh chừng nhảy lại đỡ không kịp.

Nhưng để một vụ nhảy lầu xảy ra ngay trong cơ sở Cơ quan đâu có được, Savinkov phải để lại một cái gì chứng tỏ người đã chán sống đến mức tối đa, quyết tâm chỉ đợi cơ hội là hủy mình! Có một lá thư tuyệt mạng.

Lá thư đã giải thích một cách sáng tỏ và hợp lý nguyên nhân chán sống của người. Từ văn phong đến ngôn ngữ, danh từ sử dụng đều thuần túy Savinkov, đúng chất Savinkov đến nỗi chính con trai nạn nhân là Lev Bhrisovich ở Bale cũng tin rằng lá thư đích thực của người quá cố, không ai có thể giả tạo nổi. Gặp ai ở Bale, Borisovich cũng khẳng định là thân phụ ông đã tự ý tìm đến cái chết chỉ vì thất vọng não nề cho cả một lý tưởng chính trị sụp đổ. Một phá sản chính trị! [7]

Chao ôi, thế là xong một cuộc đời cách mạng!

Tuy nhiên Công lý đang lớn dần, còn nhiều vụ án lớn vô cùng quan trọng đang nằm chờ đợi.



[1]Sô Viết xin hiểu là Ủy ban Hành chính, có từ cấp xã đến trung ương.
[2]Thì ra các giáo dân đã đặt vấn đề canh chừng để bảo vệ an ninh cho Đức Giáo chủ của họ không phải là vô lý như ông Chưởng lý Krylenko vạch rõ! Nhưng nếu nhà nước quyết ra tay thì giáo dân có giật chuông báo động cũng bằng thừa.
[3]Chú thích của người dịch: Petrograd (tức Leningrad) thủ phủ của nhiều triều đại Nga hoàng là một trung tâm sinh hoạt văn hoá, trí thức, tôn giáo quan trọng ngang hàng với Mạc Tư Khoa. Phải hiểu như thủ đô của miền Tây Bắc trong khi Mạc Tư Khoa là thủ đô của miền đồng bằng.
[4]Chú thích của người dịch: Dưới chế độ Sô Viết cố nhiên không một nhà in nào dám in những tài liệu "chống đối" này. Tư nhân hay phe nhóm (kể cả Giáo hội) muốn phổ biến chỉ còn cách đánh máy, quay ronéo. Do đó gọi vắn tắt là tội, tự ý xuất bản, phổ biến (tội SAMIZDAT!).
[5]Đại khái những tội trạng như trong vụ Vyborg chống án mà luật pháp dưới triều Nga hoàng chỉ trừng phạt 3 tháng tù.
[6]Xin nhắc lại Đảng Xã hội Cách mạng là tổng hợp một số đảng phái chống bảo hoàng, liên kết thành lập từ năm 1890 trong nước Nga. Tuy nhiên, sau Đại hội Đảng lần thứ I tháng 12 năm 1905 ở Phần Lan, Đảng tách làm hai. Hữu phái ôn hoà, tả phái chủ trương Cách mạng bạo động khủng bố. Tả phía liên kết với phe Bônxơvich lật đổ Nga hoàng và nắm nhiều chức vụ quan trọng trong Chính phủ Cách mạng lâm thời nên còn đi với phe Bônxơvich được ít năm.
[7]Lớp tù nhân Lubyanka tụi tôi sau này bèn lý luận khẽ với nhau là những tấm lưới thép chằng chịt chăng ở mỗi góc thang lầu Lubyanka hiển nhiên là hậu quả của vụ Savinkov nhảy lầu. Tụi tôi ngớ ngẩn tin vậy đó, dù dư biết là truyền thống khám đường bao giờ cũng có tính cách quốc tế. Các nhà tù bên Mỹ đã chăng lưới sẵn từ hồi đầu thế kỷ, không lẽ khám đường Nga chịu lạc hậu hơn?
Năm 1937, nằm hấp hối trong trại Cải tạo đảo Kolyma, cựu cán bộ Cheka Artur Pryubel đã rỉ tai thú thiệt với một bạn tù rằng chính hắn là 1 trong 4 người đã thảy Savinkov từ lầu 5 xuống sân trong Lubyanka. Hồi ký của Ardamatsky sau này cũng kể trường hợp này với lời kể của Prvubel ở điểm "cánh cửa sổ lầu 5 đó trống trải như một cửa lớn mở ra ban công" vậy. Thì ra địa điểm đã chọn lựa rồi. Tuy nhiên Ardamatsky vẫn cho rằng lính canh sơ thất trong khi chính thủ phạm thì xác nhận.
Nếu lời thú nhận của gã cựu nhân viên Cơ quan mà tin được thì bản án Savinkov tưởng là quá nhẹ bỗng nặng đến tối đa!
Tiết lộ của Pryubel không có cách gì kiểm chứng. Nhưng được biết vụ Savinkov nên năm 1967 có dịp hỏi đồng chí già Yakubovich thì ông ta nó như reo lên: "Thế thì đúng rồi! Sự việc ăn nhập nhau. Thảo nào hồi đó Blyumkin có kể cho tôi nghe, lại bắt thề thốt đủ thứ, mà tôi không tin là không tin". Hồi đó ngoài 1920, Blyumkin tiết lộ được lệnh GPU viết thư tuyệt mạng của Savinkov. Cùng nằm khám Lubyanka, hắn được phép lui tới xà lim Savinkov để tỉ tê tâm sự, nhất là những buổi chiều tối. Có thể nhà lãnh tụ Xã hội Cách mạng cảm thấy cái chết gần kề mà không tiên đoán nổi nên sẵn có "bạn tù" nằm bên bèn trút bầu tâm sự, nghĩa là chia sẻ nỗi thất vọng, chán chường. Do đó, Blyumkin vừa thấu đáo tâm trạng Savinko vừa đọc được tư tưởng, cóp được nguyên văn "lời ăn tiếng nói" đặc biệt của đương sự! Còn một thắc mắc nữa: Tại sao phải đóng kịch nhảy lầu? Đầu độc dễ hơn nhiều chớ. Hay Cơ quan còn muốn có một cái xác Savinkov để xuất trình làm tin, do đó, không thể xài thuốc độc?
Cũng nên nói qua về con người Blynumkin, chuyên viên thủ tiêu của cánh cực tả Đảng Xã hội Cách mạng, "giác ngộ" theo Bôn-xê-vích, từng bị nhà thơ Mandelstam mạt sát. Nhà văn Ilya Ehrenburg đã tính lấy Blyumkin để xây dựng một vai trò tiểu thuyết nhưng giờ chót cảm thấy mắc cỡ ngòi bút đành phải liệng! Sau cú khủng bố Đảng Xã hội Cách mạng, năm 1918 riêng hung thần Blyumkin không hề hấn, dù từng ám sát Đại sứ Đức Mirbach. Lại còn được tay tổ Mật vụ Azerdzhinsky che chở để có chỗ sài sau! Quả nhiên sau khi tuyên thệ nhập Đảng, hắn được giao trọng trách bí mật sang Bale năm 1930 để thủ tiêu Barzhenov, một bí thư thân cận của Stalin trở cờ. Nạn nhân đã bị bắn liệng từ xe lửa xuống chết tươi! Sau đó không hiểu vì máu phiêu lưu liều lĩnh hay chỉ vì ngưỡng mộ Trotsky quá mà Blyukin lần mò sang tận đảo Ông Hoàng (Thổ Nhĩ Kỳ) nơi Trotsky đang lưu vong để ngửa tay xin công tác, bất cứ công tác gì ở nước nhà. Trotsky bèn ủy nhiệm hắn mang một gói tài liệu về trao tay cho đồng chí Radek, thật kín đáo. Nào ngờ hung thần sập bẫy nạp mạng cho GPU kết liễu, chỉ vì chính đồng chí Radek đã "đi hàng hai" với nhà nước từ hồi nào!

10. Công lý trưởng thành

Điều 17 Hình Luật dự liệu xử bắn những thành phần lén lút trở về lãnh thổ Liên bang Xô Viết. Thông lệ đã có luật định thì chắc chắn sẽ có vô số kẻ vướng những trường hợp này khác: ai điên khùng đi chui đầu vào bẫy. Điên đầu nhât là Savinkov, bị quả tang và ra toà không chối mà còn không bị khép vô điều 71 mà. Vậy là điều 71 do chính Lenin chỉ thị cho Kursky đành bỏ xó! Nhưng ngược lại, bản án tống ra ngoại quốc thay vì xử bắn thì áp dụng tức khắc, liên miên.

Giữa lúc hăng say với ý định tống xuất nhất định gài vô Bộ Hình Luật mới, Chủ tịch Lenin ngày 19.5 còn chỉ thị mật cho sếp GPU (trích Tác phẩm Lenin, in lần thứ 5, tập 54, trang 265-266).

"Đồng chí Dzerzhinsky

Biện pháp tống xuất ra ngoại quốc văn sĩ, giáo sư theo giúp phản Cách mạng, cần phải chuẩn bị tối đa. Bằng không thế nào cũng có sơ hở. Phải gài bắt chúng dưới danh hiệu "gián điệp quân sự" công tác đòi hỏi tiến hành thường xuyên, có hệ thống và đày hết ra ngoại quốc. Chỉ thị này truyền tay các cấp Trung ương Đảng, không lập bản sao".

Dĩ nhiên một bản chỉ thị quan trọng, có tử đạo và tầm ảnh hưởng lớn như vậy phải tối mật. Thì ra trong công cuộc sắp xếp lại giai cấp của xã hội mới, chế độ mới, giản dị là không thể chấp nhận sự hiện diện nguy hại của đám trí thức tiểu tư sản bèo nhèo, ô hợp. Cứ gắn cho chúng nhãn hiệu gián điệp quân sự để bứng gọn những quân vô lại ấy, tống phứt ra khỏi nước này là tốt nhất.

Hồi đó đồng chí chủ tịch đã ngã bệnh nhưng Trung ương Đảng hiển nhiên đã chấp nhận để đồng chí Dzerzhinsky đi vơ vét và cuối năm 1922 tống cổ 300 tên trí thức tiểu tư sản Nga xuống tàu biển (chớ không phải thuyền bè) bắt buộc họ phải nhảy vào đống rác Âu châu).

(Một số người bỏ đi, bị chế độ Sô viết liệng vô sọt rác đã thực sự làm nên tên tuổi: Triết gia có Lossky, Bulgakov, Berdyayev, Stepun, Vyshelavtsev, Karsavin, Frank, Ilin, sử gia có Melgunov, Myakotin, Kizcvetter, Lapshin, nhà văn, nhà báo có Aikhenvald, Izgoyev, Osorgin, Peshekhonov. Hãy cứ kể bằng ấy! Đầu năm sau lại thêm những mớ lẻ tẻ, như Bulgakov (chính trị gia chớ không phải sử gia) bí thư của văn hào Lev Tolstoi. Toán học gia Selivanov cũng bị, chỉ vì thân thiết với nhóm văn sĩ, giáo sư Triết).

Phải chi những bản án đi đày ngoại quốc được tiến hành thường xuyên có hệ thống như đã dự liệu thì hay biết mấy! Nhà nước chỉ vấp lỡ vài đợt đầu rồi ngừng kịp để "sửa sai" ngay mà không tội nhân nào không thành khẩn tri ân nhà nước ầm cả lên. Thế là thế nào? Thôi thì lại xử bắn cho đỡ phí của, vả lại những mầm mống tồi bại gặp đất rác rưởi ắt sẽ nở hoa, dám sanh phiền phức sau này chớ. Xử bắn cho chắc ăn. Cho nên những đợt thanh trừng sau, bọn trí thức tiểu tư sản không ra pháp trường thì cũng lũ lượt dắt nhau vô quần đảo. Hết "án đi đày" ngoại quốc!

Năm 1926 trọn Bộ Hình Luật được tu chính (để sống dai một mạch tới thời Khruschhev) tóm thâu tất cả những điều khoản rải rác có liên quan tới chính trị về một mối là điều 58. Cuộc thanh trừng tiến hành không ngừng và mở rộng dần từ trí thức tiểu tư sản (giáo sư, văn sĩ) đến lớp kỹ thuật gia tức trí thức kỹ thuật. Bọn sau này mới là nguy cơ thiết thực vì chúng nắm giữ then chốt kinh tế mà lý thuyết Đảng suông rõ ràng khó lòng kềm giữ.

Đó là lúc nhà nước nhận định rằng quyết trừng phạt cán bộ Đảng chỉ vì để bênh vực cho gã Giám đốc Nhà máy Nước Oldenborger là một sai lầm tai hại. Bên trong chúng không có sẵn cả một tổ chức là gì?

Chính đồng chí Chưởng lý Krylenko cũng đã chủ quan quá vội khi khẳng định "không có vấn đề phá hoại của bọn kỹ thuật những năm 1920, 1921". Sao không phá hoại đâu đã đủ nghĩa? Phải nói là cả một sự băng hoại, nghĩa là làm cho lụn bại, hư hỏng bằng hết! (Danh từ băng hoại là sáng tác của một đồng chí điều tra viên cấp dưới của cơ quan khi làm vụ án Shakthy).

Khi đã có lệnh phải phát giác bằng được hiểm hoạ băng hoại – dù lịch sử con người chưa hề biết đến nó – thì cán bộ nhà nước lập tức khám phá ra ngành kỹ nghệ nào cũng có băng hoại, ngành công nghệ tư nhân nào cũng đầy dẫy. Phát giác thì thật nhiều nhưng toàn là rủi may không chắc thì bằng như chưa thống nhất kế hoạch, chưa hoàn thành tốt. Cá tính Stalin đòi hỏi phải vậy, mà cả một cơ quan điều tra hữu hiệu của bộ máy Tư pháp còn để làm gì? Giờ đây Công lý của chúng ta đã trưởng thành phải cho thế giới bên ngoài thấy rõ một kế hoạch đại quy mô đạt đến mức toàn thiện nhờ một công trình tổ chức tuần tự nhịp nhàng. Phải chứng minh bằng vụ án kỹ thuật mệnh danh Shakthy.


Vụ án Shakthy

Vụ án Shakthy được đưa ra xử phiên đặc biệt của Tối cao Pháp viện Liên bang Xô Viết. Chánh thẩm là đồng chí Vyshinsky, đương kim Viện trưởng Viện Đại học Mạc Tư Khoa. Ủy viên Công tố chính vẫn đồng chí Krylenko, Hội Thẩm vấn có 2 lão đồng chí Vasilyev Yuzhin và Antonov Saratovsky [1] . Đúng là một bồi thẩm đoàn tiếp sức, già có trẻ có! Một phiên toà với 53 bị cáo và 56 nhân chứng có thể gọi là vĩ đại lắm chớ.

Nó lại còn vĩ đại ở chỗ lỏng lẻo quá sức! Nếu mỗi bị can sơ sơ có 3 bằng chứng buộc tội thì ít nhất cũng có đến 159 cái gốc mà trước toà thì ông Chánh thẩm cũng như ông Ủy viên Công tố mỗi người chỉ có đúng 10 ngón tay!

Bị cáo nào chẳng bị khép tội "căm thù xã hội nên cố tình phạm pháp", nhưng trước toà chỉ 16 kẻ gật đầu nhận, 13 kẻ chối loanh quanh và 24 kẻ nhất định không hề nhận làm gì nên tội. Cả đám kẻ gật người lắc ô hộp không thống nhất chút nào làm cử toạ ngớ ngẩn. Vả lại in hệt như những nếp toà trước, bao nhiêu bị can đều lặng lẽ cúi đầu chấp nhận, luật sư biện hộ khoanh tay chịu phép, vì có muốn cục cựa hay nhúc nhích quả tạ công lý đi một chút cũng có được đâu mà chẳng cam đành? Phiên toà đâm rời rã, đầy những sơ hở. Một ông Chưởng lý cỡ Krylenko đời nào chịu chấp nhận?

Trước ngưỡng cửa của một xã hội đồng nhất, không giai cấp mà nhà nước Xô Viết đã tạo ra được một phiên toà không mâu thuẫn – chế độ ta làm gì có cái gọi là mâu thuẫn nội tâm? Nghĩa là một phiên toà êm ru, phẳng lặng. Không có hai bên chống đối. Toà và Công tố viên hợp một đã đành. Ngay các bị cáo và luật sư biện hộ cũng muốn cố gắng chung để cùng với Toà hoàn thành tốt một mục tiêu chung!

Như vậy thì cần gì phải đưa ra xét xử rình rang vụ án tầm thường như thế này, dù là đưa vào cả một kỹ nghệ than đá, cả một khu kỹ nghệ Donets Basin?

Không đâu. Phải đợi đúng lúc, đúng chỗ – nghĩa là vào ngày chót vụ Shakthy thì đồng chí Chưởng lý Krylenko mới đào bật sự kiện mới, để cho hố luôn cả 2 đồng nghiệp ở Công tố viện là Osadehy và Shein! Phải hiểu là Krylenko đã có chỗ dựa, đã trông cậy vào cả một cơ sở OGPU (tức GPU đổi tên trong một thời gian ngắn với đồng chí Yagoda vừa được cất nhắc lên thì công tác phải biết là kiến hiệu. Vụ án này không thể bó gọn lại tầm thường như vậy mà Cơ quan cần phải tạo ra để phát giác một hệ thống kỹ thuật toàn bộ, có mặt ở toàn quốc nhằm làm băng hoại kinh tế nhà nước. Một tổ chức rộng lớn cỡ đó thì phải có những thằng thật to đầu, cả nước biết tiếng điều khiển mới hợp lý chớ.

Nếu kể như "chuyên viên" băng hoại cỡ lớn, có tên tuổi danh vọng thực sự mà lại hách nữa thì đất nước này có tay nào dám sánh với Pyotr Akimovich Palchinsky? Đúng týp lãnh tụ kỹ thuật cần thiết!

Palchinsky ai chẳng biết là kỹ sư Mỏ cừ từ hồi đầu thế kỷ? Thế chiến I từng giữ vai trò Phó Chủ tịch Ủy ban Kỹ nghệ Chiến tranh, phải nói là người đã điều hợp toàn bộ kỹ nghệ Nga đương chiến, kề vai gánh đỡ cho những thất bại của chính phủ bảo hoàng không biết chuẩn bị một kỹ nghệ thời chiến. Tháng 2 năm 1917 Palchinsky lên chức Thứ trưởng Thương mại – Kỹ nghệ.

Dưới trào Nga hoàng, Palchinsky từng bị khó dễ, trừng trị vì hoạt động Cách mạng. Sau Cách mạng tháng 10 lại bị Cách mạng tống giam đến 3 lần vào những năm 1917, 1918 và 1922! Từ 1920 chỉ giữ chức Giáo sư Trường Đại học Hầm Mỏ và là cố vấn cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

Thâm tâm của Krylenko là giờ chót đưa ra tên Palchinsky để vén bức màn mới, tự mình nhảy vào một địa hạt mới toanh là Kỹ nghệ, là cơ khí sau 10 năm vang danh lý thuyết gia buộc tội số 1. Vì là địa hạt mới – địa hạt của máy móc, kỹ thuật – nên đồng chí Công tố sắc bén đâm tính sai nước cờ! Có biết đo lường sức chống cự dẻo dai của từng món kim loại đâu? Làm sao đoán nổi sự cứng rắn của lòng người, mức chịu đựng của con người?

OGPU thiếu gì đòn tra tấn, thiếu gì thủ đoạn nhưng có dễ gì lay chuyển nổi sự sắt đá của con người Palchinsky? Không cách nào bẻ được, khuất phục được con người thà chết chớ không chịu ký bất cứ cái gì mình không muốn ký. Palchinsky chịu chết.

Cùng bị tra tấn với Palchinsky còn Von Meck và Velichko. Dường như hai người này cũng không chịu khai và không biết sau đó họ bị xử bắn hay chết ngay trong phòng điều tra. Trường hợp của họ chứng minh một điều: có thể chống lại được, có thể không đầu hàng OGPU. Đó là những tia sáng rọi vào sau lưng những bị cáo lớn trong những vụ án sau này.

Để che giấu sự "khai thác" thất bại, ngày 14.5.1929 Yagoda cho ra một bản thông cáo ngắn về việc xử tử 3 can phạm vì tội làm băng hoại đại quy mô và nhân thể lên án một số người nữa không nêu tên (trích báo Izvestiya ngày 24.5.1929).

Coi, có thể nào mất đến gần một năm trời mà không thâu hoạch được một cái gì? Nào thời giờ, nào cán bộ, bao nhiêu công phu đã chuốc lấy thất bại? Không được. Chính đồng chí Krylenko có sáng kiến về vụ này thì phải lo kiếm một lãnh tụ kỹ thuật nào có tên, có ảnh hưởng nhưng chắc chắn là yếu xìu, có thể "bẻ" được. Lại phải khởi đi từ đầu. Vì không phải ngành chuyên môn xưa nay, khó thấu đáo bọn kỹ sư chết tiệt này nên đồng chí Chưởng lý lại mất đúng một năm nữa. Vẫn chưa kiếm ra "lãnh tụ"!

Mùa Hè 1929 đích thân Krylenko chỉ huy vụ "điều tra" kỹ sư Krennikov. Nhưng dễ sợ quá, Krennikov cũng đành chịu chết vì tra tấn còn hơn ký nhục nhã! Đến lượt kỹ sư già Fedotov bị "thử sức". Nhưng lão già nua quá, lại là Kỹ sư Dệt, không sáng giá, không dễ có mác "lãnh tụ"! Đành phải bỏ. Lại tốn thêm một năm.

Trong khi đó cả nước ngóng cổ trông chờ vụ án những thằng kỹ thuật phản động, dám làm băng hoại kinh tế nhà nước. Kẹt nhất là chính Lãnh tụ cũng nôn nao chờ. Nhưng vận hên bay đâu mất làm đồng chí Chưởng lý Krylenko loay hoay mãi mà không sắp đặt xong vụ án.

Không lẽ chỉ vì Krylenko dựng vở không nổi – nghĩa là vừa chứng tỏ sự bất lực – mà Stalin lại nỡ xử nặng tay đến vậy. Lập tức bay chức Chưởng lý để "thăng tiến" lên cấp cao hơn là Bộ trưởng Tư pháp nhưng trên thực tế đã mất tín nhiệm của lãnh tụ để cuối cùng, năm 1938 lại "đi đúng vết xe" của các nạn nhân, nghĩa là bị xử bắn!

Mãi đến mùa hè năm 1930 mới có một kẻ nhắc đến tên một thằng "coi được": hay là thử "tính" Ramgin, Giám đốc Viện Cơ khí Nhiệt lượng? Được lắm, câu lưu liền.

Thế là có một vụ án kéo dài 3 tháng. Một thảm kịch vĩ đại công diễn suông sẻ như đã vạch sẵn. Đó là điển hình một nền Công lý toàn thiện, một bản án mẫu mực chẳng chế độ tư pháp nào bắt kịp.


Vụ án Đảng Kỹ thuật (Promparty)

Cũng phiên Đặc biệt, Tối cao Pháp viện Liên bang Xô Viết. Vẫn Chánh thẩm Vyshinsky, phụ thẩm Antonov Saratovsky. Chưởng lý vẫn là đồng chí Krylenko, hồi đó chưa xuống dốc.

Đặc biệt hãn hữu: Toà sắp đặt cho tốc ký viên lập biên bản từ đầu tới cuối để sang năm 1931 Cơ sở Ấn loát Lập pháp xuất bản trọn tập. Không còn những "lý do kỹ thuật" cản trở. Lần này thông tín viên ngoại quốc còn được theo dõi tất cả các phiên xử từ 25 tháng 11 tới 7 tháng 12 năm 1930.

Nhưng cử toạ ngạc nhiên nhất điểm các bị cáo đại diện đủ mọi ngành kỹ nghệ trong nước, trừ các "tay trong" mới nhận ra nổi vắng mặt 2 ngành không thể có nổi là Hầm mỏ và Hoả xa. Rút kinh nghiệm vụ Shakthy rời rạc lỏng lẻo nên lần này trên băng bị cáo chỉ vỏn vẹn 8 mạng!

Có 8 mạng mà gọi là đại diện đủ mọi ngành kỹ nghệ? Đúng vậy. Bấy nhiêu đó quá đủ vì kỹ nghệ Xô Viết quả thực có gì đâu? 8 người thì ngành Dệt đã chiếm 3 vì là ngành quan trọng của kỹ nghệ quốc phòng. Vậy số nhân chứng chắc phải đông lắm? Không! Có 7 người thì ở tù hết 7 thì nhân chứng cũng là một phường làm băng hoại kinh tế nhà nước như bị cáo!

Nhân chứng ít, bị cáo ít, hẳn số tang vật phải nhiều. Ai chẳng đoán vậy? Phải cả núi, cả bó tài liệu để mang ra toà buộc tội cho hết chối! Kế hoạch, chỉ thị, báo cáo, biên bản hội họp chẳng hạn. Hoặc một văn thư thông cáo, một chứng minh thư, một thư riêng gởi cho nhau. Vậy mà tuyệt đối không có lấy một mẩu giấy tờ làm tang vật! Hoàn toàn không.

Có thể nào GPU lại sơ sót nặng tới vậy? Bắt người mà không có tang vật? Không, có chứ! Nhiều tang vật lắm chớ, nhưng tiêu hủy đi hết cả rồi. Cơ quan đâu đủ chỗ để chất đống hồ sơ, tài liệu?

Toà chỉ nghe đọc một số bài báo, trích đăng ở mấy tờ báo trong nước, của dân Nga di cư. Không thể truy tố mà chỉ căn cứ vào bấy nhiêu "tài liệu" nhưng dù sao Toà cũng còn đồng chí Nikolai Vasilyevich Krylenko, người từng nhiều phen tuyên bố: "Bất cứ hoàn cảnh nào, tang chứng quý nhất bao giờ cũng là bản tự thú của chính bị cáo!"

Chao ôi, tự thú! Không cưỡng bách mà chỉ "hướng dẫn" can phạm để hắn hối ngộ, rút ruột ra khai. Cứ khai nhiều, khai nữa ra đi, thành khẩn mà bộc lộ hết. Như kỹ sư dệt Fedotov 66 tuổi, dân kỳ cựu trong ngành, trước toà đã thành khẩn trên sự "hướng dẫn" của cán bộ thẩm vấn! Năm phiên toà liền, ông kỹ sư già khỏi đòi hỏi một câu, phăng phăng bộc lộ hết giải thích đến lý luận cho Toà nghe. Cứ đứng lên thao thao đến nỗi Toà phải hối thúc ngồi xuống nghỉ cho đỡ mệt kia mà. Các bị cáo thay phiên nhau thành khẩn bộc lộ, chỉ mong được đứng lên nói để hăng say trút ra những lời tự thú. Bao nhiêu sự kiện phạm pháp Công tố viên dẫn ra đều được họ tự miệng nhìn nhận bằng hết. Toà không cần nêu câu hỏi.

Trước toà Giám đốc Cơ khí Nhiệt lực Ramgin tự thú tràng giang đại hải rồi mới tóm gọn lại, đúc kết rành rẽ như cho học trò lấy nốt. Hình như họ chỉ sợ bộc lộ thiếu một sự kiện, quên một cái tên hay còn để Toà thắc mắc một vấn đề, bỏ qua không ghi nhận kịp tên tuổi một thằng làm băng hoại kinh tế.

Và hối lỗi đến mức tự hạ như các bị cáo hôm đó là cùng! Tôi đúng là kẻ thù của Công nông. Tôi ăn hối lộ. Tôi đầu óc tiểu tư sản. Bị cáo Charnovsky nhất định: "Tội của tôi lớn lắm" khi Công tố vặn hỏi: "Bị cáo có lỗi gì?". Năm phiên toà liền đồng chí Krylenko vô cùng nhàn nhã, chỉ ngồi uống nước nhấm nháp mấy cái kẹo.

Đồng ý các bị cáo đã thành khẩn tự thú nhưng cung cách họ khai như thế nào? Không có máy ghi âm để ghi lại từng lời của họ nhưng theo lời ông luật sư biện hộ thì: "Những lời thú tội của họ trước toà tuôn ra thật nghề nghiệp. Bình tĩnh, đều đặn, không cảm xúc!" Chao ôi, hăng say, thành khẩn tự kê tội mà có thể nghề nghiệp, tuyệt vô cảm xúc được sao? Bao nhiêu tội đều được thú nhận bình tĩnh, đều đặn? Họ nói lí nhí đến độ nhiều lần đồng chí Krylenko phải lên tiếng nhắc nhở: "Bị cáo hãy thú tội lớn lên, nói cho rành mạch cho Toà nghe!"

Lại thêm các luật sư biện hộ cũng ôn hoà, nhỏ nhẹ, không nghịch ý Công tố viện một lần. Ông biện hộ chính thức cho các bị cáo còn khoe bản cáo trạng tóm lược "có giá trị lịch sử" để tự cho điểm thấp bản biện minh trạng của mình, xét vì bận tâm không muốn bào chữa như thế, vả lại "luật sư biện hộ cũng vẫn là công dân Xô Viết và như bất cứ một công nhân nào, cũng căm hận cho những tội ác của các bị cáo!". Trọn 5 phiên toà cũng có vài câu hỏi do các luật sư e dè nêu lên nhưng đồng chí Krylenko vừa cất tiếng thì những thắc mắc được rút về liền. Gọi là bênh vực thì chỉ có 2 công chức ngành Dệt được bênh vực phần nào, dù các ông luật sư không đặt vấn đề tiên quyết, thủ tục truy tố và suy diễn tội trạng của Toà có đúng hay không. Họ chỉ xin hỏi Toà "Liệu thân chủ của chúng tôi có thoát nổi án tử hình?". (Nghĩa là Toà muốn lấy đầu, hay muốn cho một thằng sống để lao động cải tạo?)

Còn những tội ác ghê gớm của bị cáo, những thằng kỹ thuật tiểu tư sản ra sao? Đây, bản lược kê. Chúng âm mưu kìm lại mức độ sản xuất, công nhân đã bình nghị năng suất đồng niên phải tăng 40-50% nhưng kết quả chỉ lên được 20-22%. Chúng bê trễ khai thác mỏ than mỏ dầu. Cố tình kéo dài quá lố kế hoạch phát triển toàn vùng lưu vực Kuznetsk. Chúng đã đưa cả lý thuyết, biện chứng – chẳng hạn như nên dùng điện lực đập Dnieper để cung cấp điện cho vùng châu thổ Donets, hay là thiết lập một đường dây vĩ đại Mạc Tư Khoa chạy thẳng đến Donbas – để trì hoãn, lấp liếm khỏi phải giải quyết nhiều công trình cấp bách, các ông kỹ sư còn bàn cãi thì công tác công trường hẳn phải tốp! Chúng đã gác lại không chịu tham cứu nhiều dự án cơ khí mới. Chúng núp sau kỹ thuật, khi thuyết lý về sức chịu đựng của kim loại, đã chống lại đường lối nhà nước! Chúng thường ráp máy cũ, làm kẹt tiền nhà nước trong những công tác xây công trường tốn kém, kéo dài mãi. Không cần sửa cũng bày đặt phải sửa, không sử dụng đúng từng mặt kim khí, làm mất quân bình hoạt động xí nghiệp tức đặt sai mức cung cấp vật liệu và năng suất thực của nhà máy. Chẳng hạn mùa bông gòn số thâu hoạch chưa đủ đã phóng tay lập thêm 2 nhà máy lớn. Kế hoạch sản xuất vải sợi thì vẽ từ tối thiểu tới tối đa, chỉ vì không nắm vững mà thúc đẩy sản xuất đến băng hoại kỹ nghệ luôn. Chúng còn dám trù liệu kế hoạch phá hoại năng suất điện (dù chưa ra tay nên toàn bộ công kỹ nghệ chưa bị ảnh hưởng) và nếu thực hiện được sẽ tạo tình trạng khủng hoảng trên toàn quốc, kinh tế tê liệt lụn bại năm 1930. Tuy nhiên kinh tế đã không tê liệt mà mức sản xuất còn tăng gấp đôi vì quần chúng đã kịp thời có kế hoạch thi đua sản xuất.

Rất có thể bạn đọc bĩu môi: "Vậy thì có gì đáng gọi tội ác!". Không phải ư? Trước toà cứ vạch từng điểm rồi nhai đi nhai lại, 5 lần 8 luợt sẽ thành tội chớ? Không phải nhỏ đâu! Bạn có thể hỏi lại: "Kinh tế đã không tê liệt mà năng suất còn tăng hai lần chỉ vì quần chúng có kế hoạch thi đua sản xuất?" Hoặc là: "Liệu quần chúng công nhân cứ cho ra kế hoạch bình nghị mà năng suất tăng được thực, nếu không có sự cố vấn của Ủy ban Thiết kế?"

Suốt 5 phiên toà, đồng chí Chưởng lý Krylenko thỉnh thoảng đi sâu vào chi tiết kỹ thuật, chất chính các kỹ sư tơi bời từng điểm nhỏ, vặn đi vặn lại để thúc các bị cáo xổ ra những báo cáo chi tiết kỹ thuật đăng đầy nhóc trương trong các nhật báo, chữ nhỏ li ti. Có bỏ hết công việc chỉ chúi mũi ngày đêm vào cánh rừng kỹ thuật đó cũng chẳng hiểu gì hết. Chỉ thấy nhai đi nhai lại mỗi cuối đoạn một điệp khúc: "Chúng tôi phạm tội phá hoại, Chúng tôi làm băng hoại".

Nhưng ngày giờ này ví thử có người chịu khó đọc kỹ, phân tích từng hàng chữ thì sao?

Hiển nhiên họ sẽ thấy qua những lời tự thú, tự hạ, nhạt nhẽo cấu tạo một cách vụng về, rằng lần này bộ máy ép Lubyanka đã đi ra ngoài địa hạt chuyên môn, đụng tới một địa hạt hoàn toàn khác. Lớp dây gò bó có chặt thật, nhưng làm sao thắt nổi tư tưởng của con người văn minh thế kỷ XX? Này đây còn ở đâu, có bao giờ bọn kỹ thuật bị vùi dập, cưỡng ép, đầu óc khủng hoảng như trong Lubyanka? Bị đàn áp đến phát kinh hoảng được nhưng những con người kỹ thuật đó có dùng sai dùng bậy một danh từ một con số nào đâu? Bị cưỡng ép cho biết thì họ cho biết bằng hết sự thật,

*


Đây là tình trạng của họ:

Theo Kalinnikov thì, "làm ăn như vậy quá khó. Chẳng ai tin nổi ai. Đó là một sự cố tạo ra!" Kỹ sư Larichev than thở: "Muốn hay không muốn thì chúng tôi cũng phải sản xuất bằng đủ 42 triệu tấn dầu hoả vì cấp trên đã chỉ thị vậy. Điều kiện làm việc thế này thì không thể, không bao giờ đạt nổi mức 42 triệu tấn!"

Giới kỹ sư thời đó kẹt cứng giữa hai thế vô phương giải quyết. Một đằng là chỉ thị thượng cấp, một đằng là điều kiện làm việc. Viện Cơ khí Nhiên lực chỉ có mỗi niềm hãnh diện là nghĩ ra phương pháp sử dụng tối đa nhiên liệu mà kế hoạch nhà nước lại dự liệu giảm tiêu thụ nhiên liệu. Vậy làm sao phát triển?

Thế là ông Giám đốc Viện can tội băng hoại.

Ngành Hoả xa lo tối tân hoá bộ phận chuyên chở cũng bị tội băng hoại vì làm kẹt công quỹ! Tiền bỏ ra bắt buộc phải thâu vô cấp kỳ kìa! Đường có một rầy, muốn chuyên chở nhiều thì còn cách nào khác chế tạo đầu máy khoẻ hơn, toa chở hàng rộng lớn hơn? Nhưng phải đắp lại đường rầy, cầu cống để củng cố hạ tầng cơ sở. Phải tốn tiền, nghĩa là lại làm băng hoại kinh tế. Ngành sản xuất dụng cụ, máy móc phải tối tân hoá. Nhưng bắt chước Anh hay bắt chước Mỹ? Fedotov quyết định mua các giàn máy Ănglê. Đủ xài, đỡ tốn tiền nhiều. Nhân công Nga quá rẻ quá nhiều chớ đâu có hiếm, đắt như Mỹ mà sản xuất cái gì cũng phải dây chuyền? Cỡ 10 năm nữa, đến trình độ dây chuyền đặt máy mới cũng kịp chán! Vậy là lãng phí, băng hoại quỹ nhà nước! Lại lạc hậu, không lo tối tân hoá sản xuất. Ngành xây cất bỏ bê tông thường, xài bê tông cốt sắt. Tốn nhiều tiền lúc đầu nhưng 100 năm sau còn đứng vững, gỡ vốn lại dễ dàng. Nhưng bây giờ là băng hoại vì sắt thép đang quá hiếm!

Một mình Fedotov "xin Toà xét cho" tội băng hoại. Đâu phải hà tiện đến từng kopech là tiết kiệm? Cổ ngữ Anh chẳng có câu: "Chỉ nhà giàu rửng tiền mới dám mua đồ rẻ tiền" đó sao? Theo ông ta thì "băng hoại" cả ngàn triệu đồng rúp chính là Kế Hoạch Ngũ Niên. Bông gòn không phân loại ngay ở nơi sản xuất để Nhà máy sợi cần loại nào gởi loại ấy mà gởi đủ thứ để nhà máy tự lựa lấy nguyên liệu thích hợp mới là lãng phí! Công tố viện lờ đi, khăng khăng "quay" Fedotov đến lần thứ 10 về một lãng phí vĩ đại, sờ sờ: tại sao dám phí tiền xí nghiệp xây như lâu đài? Trần cao, hành lang mênh mông, chỗ nào cũng quạt máy. Rõ ràng quăng tiền nhà nước qua cửa sổ, một thói quen theo đuôi tư bản.

Xí nghiệp quả có đồ sộ thiệt, đồng chí Krylenko khiển trách đúng. Nhưng xin Toà xét cho bọn xây cất đâu dám cưỡng lệnh Bộ Lao động. Thiên đường cho thợ thuyền thì xí nghiệp phải vậy, trần phải cao 10 mét cho thoáng mát, theo đề nghị của y sĩ nhà nước. Làm 8 mét là lãng phí, băng hoại công quỹ. Sao không 7 mét? Mà coi chừng, hạ thấp trần xuống 6 mét là phản động, cố tình bôi nhọ nhà nước: thiên đường lao động mà xí nghiệp dám xây ổ chuột vậy? Vụ trần nhà cao lãng phí bị đồng chí Chưởng lý "quay" hoài, dù các bị cáo xin đưa con số chứng minh: cao, thấp, đắt, rẻ cũng chỉ 3% tổng số phí tổn xây cất. Nhưng vẫn còn quá lãng phí ở hệ thống quạt máy. Tại mùa hè có những ngày thời tiết quá nóng bức. Coi, đâu phải ngày nào cũng nóng bức?

Theo bị cáo Charnovsky thì "sự bất quân bình giữa khả năng và chỉ thị" ắt sẽ dẫn đến sụp đổ (trước khi có Trung tâm Kỹ thuật) dù nằm Lubyanka mấy tháng và đang đứng trước Toà Tối cao, Charnovsky vẫn còn nhận định được rằng:

"Cần gì phải hoạt động băng hoại? Cứ làm đúng (như cấp trên có lệnh) thì sự băng hoại tự nó cũng sẽ đến."

Cảm giác chung của cử toạ về phiên Toà xử "Đảng Kỹ thuật" là chứng kiến một màn kịch mà ông đạo diễn Công tố đã luôn mồm hò hét các bị cáo diễn viên. Rõ ràng diễn viên chê vở kịch quá dở nhưng bị đạo diễn nồ để có những ngôn ngữ, cử chỉ đúng lớp lang. Nên mới có cảnh ấp úng, ấm ớ, khi bị cáo chính Fedotov bị đồng chí Krylenko hỏi dồn:

"Anh có đồng ý vậy không?"

"Đồng ý, tôi đồng ý, dù nói chung, tôi không thấy."

"Sao? Anh có xác nhận không?"

"Nói đúng ra, ở một vài địa hạt, cứ kể ra, nói chung là tôi xác nhận."

Phiên toà đã báo hiệu trước cho giới kỹ thuật hiện còn chưa bị bắt giữ một thế kẹt đau đớn. Thấy các đồng nghiệp đã "đi" trước như vậy rồi đến họ cũng phải hăng say công tác trong hoàn cảnh làm hay không làm thì kết quả cũng đến vậy: ra toà là băng hoại. Dù băng hoại như thế nào họ đâu biết? Như lớp băng hoại trước đã chạm trán với các điều tra viên Lubyanka đó. Nằm trong xà lim lần lượt nếm đủ mục tra tấn, trong đó dễ sợ nhất là cấm ngủ, họ đã bị quay lên quay xuống cũng vì băng hoại. Các điều tra viên nhất định bắt họ phải cung khai cho rõ ràng những hoạt động băng hoại, đưa ra những dẫn chứng cụ thể và tin được. Ngay trước Toà đồng chí Krylenko còn hối thúc nhiều lần: "Anh đã làm băng hoại như thế nào? Hãy cho một thí dụ thật rành rẽ". (Đám kỹ thuật mất hồn ấy cho sao nổi những thí dụ băng hoại điển hình! Nhưng sau thế nào chẳng có người điều tra, nghiên cứu bằng được "Lịch Sử Nền Kỹ Thuật" thời đó? Sẽ có nhiều thí dụ lắm, những thí dụ toàn dẫn đến zê-rô! Chắc chắn sẽ có một bản ước lượng về chứng co giật động kinh của những Kế hoạch Ngũ Niên hoàn thành trong 4 năm! Tài sản, năng lực nhân dân sẽ bị tiêu hủy như thế nào. Kế hoạch tốt liệng bỏ, thực hiện toàn thứ bỏ đi bằng những phương tiện tồi nhất! Đại khái một nền kỹ thuật tốt đẹp, do những kỹ sư cừ khôi đảm nhiệm dưới sự kiểm soát, đôn đốc của mấy chú Hồng Vệ binh của họ Mao sau này).

Nếu Toà đòi hỏi những thí dụ rành rẽ, chi tiết thì rồi cũng phải có. Nhưng phản tác dụng ở chỗ càng rành rẽ chi tiết bao nhiêu thì những tội ác của các bị cáo lại càng nhẹ hều, càng xa dần bản án tử hình.

Ôi nếu vậy đã may mắn quá! Vở kịch đã đến màn chính đâu mà vội đoán kết thúc sớm thế "Đảng kỹ thuật" còn nhiều tội, những tội thật quan trọng mà Toà vạch ra đến bọn thất học cũng hiểu ngay. Ít nhất cũng có 4 tội lớn rành rẽ như sau: (1) dọn đường sẵn một cuộc xâm lăng (2) nhận tiền đế quốc (3) làm gián điệp (4) chia sẵn ghế trong một chính phủ sắp thành lập nay mai.

Bốn tội danh rõ rệt của "Đảng Kỹ thuật" vừa nêu ra là trong phòng xử mọi người ngậm câm. Những người mới đây còn le lói tí hy vọng chợt lặng thinh. Phòng xử im phăng phắc, nặng nề, Chỉ nghe từ ngoài đường những bước chân vang lên rầm rập, đám người biểu tình hò hét: "Xử tử, xử tử bằng hết!"

Vậy thì "chi tiết", "thí dụ" làm gì nữa? Còn cần gì nữa? Nhưng muốn biết thêm chi tiết thì cũng có. Một chi tiết mới thật rụng rời. Thì ra "Đảng Kỹ thuật" đã hoạt động theo chỉ thị của Bộ Tổng Tư lệnh quân lực Pháp! Này đây, Pháp đang rảnh rỗi quá mà! Họ có gặp khó khăn, khủng hoảng hay tranh chấp đảng phái gì đâu. Chỉ cần thổi một hồi còi là cả Sư đoàn sẵn sàng tiến lên.

Nghĩa là có một âm mưu của Pháp nhằm xâm lăng, can thiệp vào nội bộ nước Nga! Họ đã sắp đặt chương trình định làm năm 1928 nhưng phải hoãn lại tới 1930: nội bộ ý kiến bất đồng, phương tiện tổ chức chưa đủ. Lại bất đồng ý kiến lần nữa, hoãn đến 1931. Đi sâu thêm vô chi tiết được biết thêm sự can thiệp sẽ tiến hành như sau: Pháp không chính thức ra quân, chiến đấu trực tiếp nhưng có công tổ chức toàn bộ kế hoạch nên sẽ được chia đất từ hữu ngạn miền Ukraine trở đi. Quân Anh cũng không tham chiến nhưng sẽ huy động hải lực làm thanh thế – một hạm đội Anh sẽ vào Hắc hải và biển Baltique. Quyền lợi chia chác sẽ là dầu hoả vùng Caucase.

Nhưng binh lực "can thiệp" lấy đâu ra? Có chứ! Nòng cốt sẽ là đám 100 ngàn dân Nga ly hương. Lâu nay sống rải rác bốn phương; chỉ chờ một hiệu còi là tập trung thành quân ngũ tức thì.

Bên cạnh "chủ lực quân hải ngoại" sẽ có quân Balan – phần chia của họ là chỗ đất còn lại của Ukraine. Còn một số quân của Lỗ-ma-ni: đám quân này tinh nhuệ, đánh hăng nức tiếng hồi Thế chiến I và họ chẳng ưa gì Nga. Ngoài ra hai xứ nhỏ Latvia, Estonia cũng sẵn sàng có quân chiến đấu. Đồng ý chính phủ bên họ vừa thành lập, đang bù đầu giải quyết nội bộ của họ nhưng nghe tiến quân đánh Nga chắc chắn họ sẽ bỏ hết để xung phong ngay.

Đến kế hoạch hành quân, mũi dùi cốt cán thọc sâu vào nước Nga mới là thần sầu [2] . Cơ quan đã biết trước đường hướng tiến quân của bọn chủ lực can thiệp. Từ lãnh thổ Bessarabia là vùng điều động quân, mũi dùi sẽ theo triền mặt sông Dnieper, bọc xuôiđánh rốc thẳng vào thủ đô Mạc Tư Khoa. Đúng lúc công phạt, tất cả hệ thống Hoả xa trên đất Nga sẽ là đích nhắm. Không phá hoại cho nổ tung hết mà chỉ đắp ụ, đặt chướng ngại vật chặn đường. Nhờ tay trong nằm sẵn trong toàn bộ cơ sở Điện lực toàn quốc gỡ ngòi cúp hơi điện nên cả nước Nga thình lình sẽ đen ngòm như địa ngục. Xí nghiệp là ngừng hết, kể cả những nhà máy dệt!

(Ôi chao, các bị cáo bị Toà dằn mặt nghe đây, đây là phiên Toà công khai, phải đề cao cảnh giác nếu không sẽ thêm tội "tiết lộ bí mật nhà nước"). Chỉ trong những phiên kín mới được đả động tới công tác phá hoại, địa điểm chọn sẵn tên xí nghiệp, sẽ phá.

Phải biết, với cuộc tiến quân như vậy thì còn gì là ngành kỹ nghệ Dệt? Ở điểm xuất phát Byelorussia, bọn phá hoại thiết lập xong hai, ba nhà máy dệt là có căn cứ hành quân cho bọn "can thiệp", từ đây đánh vô Mạc Tư Khoa [3] .

Thế đã lấy gì làm "kỹ thuật"? Điểm cừ nhất trong toàn bộ Kế hoạch Hành quân của bọn can thiệp là dự liệu mở đường nước, vét cạn các đồng lầy Kuban, vùng đất sình lầy hoang vu Polesye cũng như đồng lầy kế bên hồ Ihmen.

Dĩ nhiên đồng chí Chánh thẩm Vyshiniky đã cảnh cáo rồi nhưng một bị cáo dại dột đã buột miệng khai tuột mấy địa danh này!

Kể ra theo sông Dnieper tiến xuôi về thủ đô mà băng ngang được mấy chỗ đồng lầy mênh mông này thì rút ngắn được rất nhiều đoạn đường gian khổ thật. Nếu rút được bằng hết nước đi thì nền sẽ khô, ngựa không dính móng lính không bị dơ dáy đến bàn chân! Như vậy hiển nhiên bọn can thiệp đã qua mặt cả rợ Hung Nô lẫn Nã Phá Luân: họ bao lần bị chặn lại chính vì những thành lũy nước, bùn lầy quá hiểm trở này. Nếu san bằng được thì Mạc Tư Khoa kể như bỏ ngỏ.

Coi, kế hoạch vét sình đâu phải chuyện chơi? Ở ngay những địa điểm trên – những vùng bưng hiểm trở nhất Kuban – bọn can thiệp đã cất nhiều nhà kho ngụy trang hệt như nhà máy cưa, đủ chỗ chứa máy bay chui vô tránh mưa nắng an toàn. Nhiều đồn trại cũng đã được dựng lên san sát trong vùng (Thế mà sau này quân Đức không làm nổi một mái nhà tránh tuyết!).

Đúng chủ trương bảo mật, cử toạ phiên toà chỉ được biết bọn Kỹ thuật đã nhận chỉ thị của hai nhân vật bí mật, tên K. và tên R. Nói gì tên tuổi, ngay quốc tịch của họ cũng không được nêu lên. Một số đơn vị Hồng quân đã bị chúng móc nối được để sẵn sàng làm phản. Dĩ nhiên đây mới là kế hoạch dự mưu nhưng các đơn vị phản quốc này sẽ được lồng vào một cấp chỉ huy gồm đám sĩ quan phản động và một đám sinh viên.

(Có bọn sĩ quan phản động hả? Chuẩn bị quơ một mớ liên hệ là vừa. Có sinh viên nữa. Tốt quá, phải nhằm bọn này mạnh thêm. Nhưng kế hoạch hành quân của bọn can thiệp được "tiết lộ" như vậy quá đủ rồi. Đi quá xa dân tâm xao xuyến thực thì sao? Chỉ đến một giới hạn nào để quần chúng thấy những người chịu trách nhiệm bảo vệ xứ sở không hề ngủ. Chúng dự mưu nhiều lắm nhưng có làm nổi một cái gì. Có một ngành kỹ nghệ nào của ta hư hao đâu?).

Mọi sự sắp đặt đã tiến hành như vậy thì vì cớ gì cuộc "xâm lăng" không xảy ra? À, nhiều nguyên do lắm!

Có thể vì Poincaré hụt chức Tổng thống. Cũng có thể vì nhóm kỹ nghệ gia ly hương để lại bao nhiêu cơ sở trong nước cho bọn Bôn-xê-vích sung công thì cứ để nhà nước trùng tu lại tốt đẹp đã rồi chiếm lại sau! Vả lại cũng chưa thoả thuận xong các điều kiện với Lỗ và Balan.

Không có "xâm lăng", "can thiệp" nhưng Đảng Kỹ thuật hiển nhiên có! Ngoài đường những bước chân quần chúng đang rầm rập, những tiếng hô hào, gào thét: "Tử hình, Tử hình!" Không uất hận sao được, nếu âm mưu của chúng thành tựu thì giờ đây quần chúng đâu biểu tình được. Không chết trận khổ sở thì gia đình ly tán, đói rách. Cũng chỉ vì bọn chúng!

Bọn chúng kết hợp thành phe nhóm, rồi thành trung tâm. Trung tâm kỹ thuật, cơ khí mà. Từ trung tâm chúng lập Đảng. Phải có một Đảng Kỹ thuật thì hoạt động mới thuận lợi, mới hách. Phải có Đảng mới có vụ chia chác ghế trong chính phủ sau này, cũng như mới có danh nghĩa "kết hợp quần chúng kỹ thuật – cơ khí để đấu tranh cướp chính quyền".

Chúng đấu tranh chống ai? Chống các đảng khác, cố nhiên. Chống Đảng Công nông trước, chống Đảng Men-xơ-vích sau. Đảng Kỹ thuật đâu dưới 200 ngàn đảng viên. Mà cũng có thể 3 đảng của chúng liên kết lại thành Lực lượng, thành Mặt trận để liên minh chống chính quyền. Tuy nhiên GPU đã thanh toán xong cả 3 đảng liên kết!

Có Đảng là phải có một Trung ương Đảng bộ. Đó là Trung ương Đảng Kỹ thuật. Không có khai hội Đảng, chẳng cần bầu bán gì mà ai muốn gia nhập thì cứ vô thẳng – tổng cộng đúng 5 người cấp Trung ương! Cả 5 cùng "nhường" nhau chức Chủ tịch. Nói rõ ra là Đảng không nhóm họp, dù họp cấp Trung ương (điều này chẳng ai nhớ, trừ Ramzin sẵn sàng kêu tên đích danh) hay họp từng ngành kỹ nghệ.

Vấn đề đảng viên hơi hiếm. Theo Charnorsky thì Đảng chưa hề chính thức tổ chức. Con số đảng viên thiệt bao nhiêu? Larichev thú nhận là "khó lòng" đếm đủ số, ngay thành phần đảng viên cũng không rõ".

Như vậy thì Đảng chúng ta băng hoại thế nào? Chỉ thị hành động từ Trung ương xuống bằng cách nào? Giản dị là gặp nhau ở một địa điểm nào đó rồi chỉ thị miệng, để đảng viên tùy tiện thực hiện công tác băng hoại.

Riêng trường hợp Ramzin thì hẳn có thể kín đáo cho biết số đảng viên khoảng 2 ngàn. Hắn chỉ 2 ngàn. Hắn chỉ 2 người thì nhà nước bắt 5. Căn cứ theo tài liệu trình Toà thì Liên bang Xô Viết có khoảng 30 ngàn đến 40 ngàn kỹ sư. Nghĩa là cứ 7 kỹ sư thì bắt giam 1, còn lại 6 người chỉ khủng bố tinh thần cũng đủ. Cũng theo sự tiết lộ của Ramzin thì Đảng tiếp xúc với Đảng Công nông qua những phiên họp của Ủy ban Thiết kế Nhà nước, của Hội đồng Kinh tế Tối cao để nhằm "sắp đặt kế hoạch chống đối các cấp bộ chính quyền địa phương".

Coi, in hình Đảng Kỹ thuật và những công tác hoạt động của bọn chúng ta đã từng bắt gặp ở đâu? Quen thuộc quá! Phải rồi, trong vở ca nhạc kịch Aida. Lúc chiến sĩ Radames xuất quân, giàn nhạc thổi tưng bừng, 8 đồng chí nón sắt tuốt kiếm trần vung lên. Xa xa có bóng dáng 2 ngàn chiến sĩ vẽ trên phòng. Vụ Đảng Kỹ thuật là vậy.

Nhưng vậy là tốt rồi. Miễn là vở kịch diễn xuôi rót. (Không hiểu sao hồi đó vụ án lại đe doạ, nghiêm trọng tới vậy?). Đạo diễn bắt tập rõ nhiều lần, thuần phục quá rồi. Từng diễn viên đã được uốn nắn vào đúng khớp, không dám có cử chỉ lệch lạc rồi. Tuy nhiên xuôi rót cũng không xong. Trắng trợn quá! Các diễn viên – bị cáo bỗng nhiên phải quên đi một điểm nào đó , phải phản cung một điểm nào đó để Toà có lý do gặng hỏi lại, làm sáng tỏ vấn đề. Vậy đó mới đủ tiêu chuẩn nghệ thuật, như Viện Kịch nghệ Mạc Tư Khoa.

Nhưng đạo diễn Krylenko làm mạnh tay quá, nhất định mổ xẻ phanh Đảng Kỹ thuật để truy đến tận gốc gác giai cấp. Đặt vấn đề giai cấp đấu tranh thì nắm chắc phần thắng! Có điều đồng chí Chưởng lý đã không sắp đặt kỹ như Stanilavsky, cắt đặt rành rẽ từng vai trò mà còn để diễn viên "đóng tuồng" cho đúng sự thực. Nghĩa là để cho mỗi bị cáo có dịp nói lên thành phần giai cấp, tương quan với Cách mạng và trường hợp và dẫn dắt chúng tôi những hành động băng hoại: Thế là toàn bộ vở kịch sụp đổ trong cả 5 màn!

Điều phát giác thứ nhất làm mọi người kinh ngạc: có 8 bị cáo trí thức tiểu tư sản thì cả 8 đều xuất thân hàn vi, nghèo khổ cả! Người gốc con nhà nông, người con thầy thơ ký đông con, người con nhà thủ công, con thầy giáo làng, con buôn hàng rong. Tất cả đều là học trò nghèo, từ năm 10, 12 tuổi đã phải vừa kiếm kế sinh nhai. Không đi kèm trẻ học thì cũng phụ lái xe hoả. Vậy mà tất cả đều học lên được, cái đó mới là động trời! Học hết Trung học tất cả đều leo xong Đại học, làm giáo sư hay khoa học gia nức tiếng cả. (Vậy là chúng làm ngược lại, chớ không phải dưới thời Nga hoàng chỉ con nhà địa chủ, tư bản mới có điều kiện ăn học sao? Dưới chế độ Xô Viết bản thân các kỹ sư khổ cực đã đành, con cái cho đi học thực sự còn khó hơn con nhà lao động.)

Kế đó mới thấy rõ có sự phân biệt rõ ràng giữa các bị cáo. Đó là lớp tuổi. Dường như lớp tuổi trên 60 có cảm tình, đáng trọng nể hơn. Lớp tuổi quanh 40 thực sự nguy hiểm. Như trường hợp Ramzin, Larichev cùng 43 tuổi và bị cáo Ochkin, 39 tuổi. Cả 3 ông kỹ sư trẻ này cùng cho thấy sự trâng tráo, không biết nhục.

Chính kỹ sư Ochkin này từng xuất hiện, đứng ra tố cáo vụ án Glavtop – tức Ủy ban Nhiên liệu chính – năm 1921. Thuộc thành phần nhảy vọt thật lẹ, ngay từ năm 29 tuổi đã được "sự tín nhiệm vô giới hạn của Hội đồng Lao động và Quốc phòng cũng như của Hội đồng Nhân dân".

Kỹ sư Ramzin cũng thành công sớm, giữ chức lớn và cừ khôi ở điểm bao nhiêu anh em đồng nghiệp khinh khi, không muốn tới gần nhưng vẫn lờ đi, coi như không có chuyện gì. Ngay trước Toà hình như ông kỹ sư trẻ này đánh hơi sớm thấy đồng chí Krylenko muốn gì nên lựa lời khai xuôi theo tuyệt diệu và còn tự ý thú nhận nhiều điểm để căn cứ vào đó dựng nên hồ sơ buộc tội chung. Nghe những lời tự thú tỉnh táo của Ramzin không khỏi có cảm tưởng chính đương sự có thể xung phong nhận một chân đặc cứ toàn quyền của Đảng sang Bale thương thuyết can thiệp!

Trong khi đó, ông kỹ sư già Charnovsky 62 tuổi thì tư cách khác hẳn. Thiếu gì lúc nhà giáo uy tín này từng bị đám sinh viên vô danh bôi nhọ tên tuổi trên các bích báo của trường? Charnovsky vẫn dửng dưng. Sau 23 năm lo đào tạo học trò, có lần giáo sư đã bị Đại hội đồng Sinh viên yêu cầu tới "thuyết trình về thành tích" song Charnovsky đã thẳng thắn từ chối.

Kỹ sư già Kalinnikov thì từ năm 1921 đã có lập trường sẵn rồi đối với nhà nước qua một vụ đình công của các giáo sư. Chẳng là Viện Đại học Kỹ thuật Mạc Tư Khoa xưa nay vẫn có quyền tự trị rộng rãi (chỉ định giáo sư, bầu Viện trưởng). Năm 1921 đang làm Viện trưởng Giáo sư Kalinnikov được Hội đồng Giáo sư tái cử vào chức vụ điều khiển này nhưng bị Hội đồng Nhân dân chống lại, đưa một "gà nhà" ra tranh. Hội đồng Giáo sư bèn phản đối bằng biện pháp mạnh là đình công, với sự ủng hộ triệt để của các sinh viên. Dĩ nhiên nhà nước phải nhượng bộ để Kalinnikov làm Viện trưởng suốt niên khoá đó nhưng qua năm 1922 Viện Đại học Kỹ thuật bị cúp ngay quyền tự trị, dầu phải bắt bớ một số cứng đầu.

Kỹ sư Fedotov, 66 tuổi là tay kỳ cựu số một trong ngành Dệt, từng là kỹ sư quản trị xí nghiệp 11 năm nhiều hơn Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Nga, tiền thân của Đảng Cộng sản Xô Viết! Kỹ sư Fedotov đã đóng góp vào công cuộc thiết lập và điều hành tất cả những nhà máy sợi, máy dệt lớn ở Nga (càng kinh nghiệm nhiều, càng được cảm tình công nhân càng phải thanh trừng lẹ!).

Năm 1905 chính ông kỹ sư trưởng Fedotov đã từ chức, bỏ cả địa vị cao sang ở Nhà máy Dệt Morozov chỉ vì tội tham gia đám táng những công nhân dệt bị lính Cốt sắc đàn áp bắn hạ. Cho đến khi ra toà tối cao thì cơ thể đã quá mệt mỏi, mắt không nhìn rõ và đi coi hát cũng mệt nữa!

Có thể nào lớp người như Fedotov, Charnovsky, có những hành động làm băng hoại kinh tế và âm mưu trợ giúp bọn "can thiệp" ngoại quốc?

Kỹ sư Charnovsky thì ai cũng biết từ bao nhiêu năm nay không có lấy một buổi tối rảnh rang. Hết sửa soạn chương trình học cho sinh viên ở trường thì lại bù đầu nghiên cứu những chủ thuyết mới, đại để về kỹ thuật tổ chức sản xuất, kỹ thuật sản xuất hợp lý hoá. Như bất cứ một giáo sư nào tận tụy với nghề nghiệp thời đó, Charnovsky lo hướng dẫn sinh viên đủ mọi cấp có bao giờ được về nhà trước 11 giờ khuya? Một con người như thế đó có thể nào tham dự vào việc phá hoại kinh tế và nhất là làm gián điệp, lãnh tiền ngoại quốc.

Đến như Ramzin cũng còn một nhận xét trước Toà về vai trò của một kỹ sư (xét ra Ramzin chỉ có một câu này là thành thực).

"Xin lưu ý quý vị ngay là chủ trương làm băng hoại cũng đã đối nghịch với bản chất thực sự của một kỹ sư."

Đúng thế! Có thể là họ kém thành thạo (hay mù tịt) về chính trị như đồng chí Krylenko muốn sắp hạng họ – chính trị đâu phải dễ nhận định như phẩm chất một loài kim hay kiểu mẫu một động cơ tuya-bin mà là một địa hạt mà trí thông minh hay trình độ giáo dục chẳng có giúp ích gì hết! Nhưng là người của khoa học và kỹ thuật, chắc chắn họ phải nhận ra thành quả cấp thời của Cách mạng tháng 10 sẽ là cả một sự sụp đổ, tàn phá. Ba năm đầu tình trạng quả nhiên suy sụp. Ngoài ra còn là sự mất mát của một số tự do căn bản, mất là mất luôn, không trở lại! Họ muốn sống dưới chế độ Dân chủ Cộng hoà lắm chớ. Nhưng bản chất kỹ sư không thể chấp nhận được sự độc tài chuyên chế của công nhân. Trong ngành kỹ sư không thể chối bỏ được sự tùy thuộc của thợ thuyền đối với cấp lãnh đạo kỹ thuật. Với họ thì vấn đề giản dị là không thể để lớp người nghèo nàn kỹ thuật, không được đào tạo chuyên môn đứng ra đôn đốc, chỉ huy chính những người đủ tư cách và thẩm quyền điều khiển.

Khi vai trò lãnh đạo kỹ nghệ nằm trong tay những người không được đào tạo để chỉ huy, mù tịt về sản xuất thì kết quả hiển nhiên phải là một sự sụp đổ. Giới kỹ sư là những người đã bị Cách mạng đào thải, không cho tham dự nên cho đến 1920 đại đa số đã bó tay, không làm gì được hết. Cho đến lúc nhà nước nhận ra và đưa ra Chính sách kinh tế mới để sửa lại thì họ mới lại có cơ hội trở lại bắt tay vào việc. Họ chấp nhận chính sách mới cho là đã đến lúc nhà nước đã biết điều nhưng điều kiện làm việc thực sự đổi khác rồi.

Họ không phải là những người điều khiển, chịu trách nhiệm kỹ thuật như xưa mà là thành phần xã hội khả nghi, nuôi nổi con cái ăn học cũng đã khó. Lương lãnh quá thấp, không tương xứng với giá trị đóng góp. Cấp trên đòi hỏi phải làm được việc, sản xuất nhiều và kỷ luật tốt nhưng chính họ không được áp dụng được kỷ luật với cấp dưới. Thời buổi này công nhân không tuân lệnh kỹ sư đã đành. Nhục mạ hành hung còn không bị trừng phạt, giai cấp lãnh đạo mà.

Trong cảnh trạng đó giới kỹ sư không lo đoàn kết với nhau sao được? Họ cùng lâm vào một hiểm hoạ nên phải đoàn kết để tương trợ. Họ không cần nhóm họp, để cử Ủy ban mà đã có sẵn sự cảm thông tinh thần giữa người trí thức với nhau. Một vài câu nói nhẹ nhàng là đủ, đó là tình người mà Stalin, các điều tra viên hay quần chúng không hiểu nổi. Ở một xứ sở vĩ đại dân đa số thất học với những ông lớn đầu óc cổ hủ, giới kỹ sư đã duy trì mối tình người này qua nhiều thử thách. Nhà nước Xô Viết phát giác ra điều ấy và phải bẻ gãy.

Cho đến 1927 giai đoạn Kinh Tế Mới chấm dứt bằng một đổ vỡ lớn. Nhà nước đưa ra bao nhiêu kế hoạch to lớn nhưng toàn thứ đầu voi đuôi chuột, không đủ điều kiện thực hiện. Chịu trách nhiệm là giới kỹ sư, bộ phận điều khiển trong Ủy ban Thiết kế nhà nước hay Hội đồng Kinh tế Tối cao. Họ không muốn bị điên đầu, không muốn phủi tay đứng sang một bên thì chỉ có cách tận lực sửa chữa lại những kế hoạch phản kỹ thuật, những chương trình "cả dọc dài con số vẽ trên giấy" để cố giảm thiểu tai hại. Không cứu vãn được toàn bộ thì cũng gỡ gạc lại một phần tài nguyên phung phí. Giới kỹ sư đề ra chính sách phẩm trên lượng, nghĩa là làm ít nhưng làm tốt gắng sửa lại chủ trương số lượng trên hết mà nhà nước đã "thuốc" cho quần chúng đòi hỏi ào ào.

Bản chất thực sự của vấn đề chỉ là vậy. Trước viễn ảnh đổ sụp kinh tế – kết quả tất nhiên của những dự án phóng tay của nhà nước – giới kỹ sư Nga đã cố mang hết khả năng chuyên viên để giới hạn bớt thiệt hại. Nhưng kết quả trực tiếp là họ lãnh đủ hậu quả: nhà nước không chấp nhận thực trạng mà lôi cổ ra Toà về tội băng hoại kinh tế, thêm tội phản quốc, tán trợ xâm lăng. Để tìm ra bằng được đích danh thủ phạm, với tang chứng không thể chối cãi Cơ quan đã được giao trách nhiệm "tìm người thích hợp", dưới sự đôn đốc, kiểm soát của đồng chí Chưởng lý Krylenko. Phải sắp đặt trình diện trước Toà một Đảng Kỹ thuật!

Quả nhiên Krylenko đã "lập" xong Trung ương Đảng bộ Đảng Kỹ thuật. Có Trung ương Đảng ắt phải có đảng viên. Hãy để con số 2 ngàn đảng viên làm một thứ "phông" mờ mờ. Trước toà một nhóm 8 thủ lãnh dễ điều khiển hơn nhiều! Để khỏi hố như vụ án Shakthy, đồng chí Krylenko đã đề ra hai năm dò tìm cấp lãnh đạo Đảng, 8 người trong đám kỹ sư. Chỉ cần 8 người thì quá dễ, nhất là tên tuổi Palchisky được sử dụng làm "lãnh tụ tinh thần" của Đảng, dù Cơ quan chẳng đưa ra được một bằng chứng có sự liên hệ.

(Cơ quan không cưỡng bách nổi con người sắt Palchinsky, thà bị xử bắn chứ không chịu ký bậy. Muốn buộc tôi thủ lãnh Đảng Kỹ thuật cho kỹ sư Khrennikov cũng không xong vì biên bản GPU xác nhận Khrennikov từ trần trong thời gian điều tra. Nghĩa là ông ta chịu tra tấn đến chết, để tối đa Cơ quan cũng chỉ có thể, truy tặng chức Thủ lãnh Đảng Kỹ thuật! Cũng may mà còn tìm ra một ông kỹ sư Ramzin!)

Như trên đã nói, dù số diễn viên giới hạn nhưng đạo diễn Krylenko vẫn phải theo dõi sát nút để tránh mọi sơ hở tai hại. Dưới đây là một bằng chứng.

Dù 8 bị cáo thú nhận hết tội băng hoại kinh tế nhưng đó không phải tội chết. Công tố viện phải có sẵn một Đảng và một vụ can thiệp nhằm lật đổ chính phủ. Các bị cáo cố nhiên không thể đóng vai trò chủ lực, thành nòng cốt phải là bọn kỹ nghệ gia, tư bản lưu vong. Họ có mặt ở đây đâu mà cãi chối? Nhưng ở ngoài vòng kiềm toả của nhà nước, họ có quyền lên tiếng trên báo chí. Lập tức họ khẳng định không hề được biết cái gọi là Đảng Kỹ thuật cũng như chưa hề được tiếp xúc với Ramzin, Larichev, do đó nếu các bị cáo có phản tỉnh, tự thú thì phải hiểu đó là hậu quả của tra tấn.

Đạo diễn Krylenko lợi dụng những lúc Toà ngưng nhóm để "chuẩn bị tinh thần" đám bị cáo. Nếu bọn phản động hải ngoại vu cáo cho Cơ quan tra tấn các nạn nhân thì còn gì cụ thể bằng chính các nạn nhân lên tiếng công khai trước Toà? Họ bực bội đến nỗi xung phong đòi Toà phải cho họ lên án bọn mất gốc ở hải ngoại vu cáo Cơ quan. Sự hung hăng trái ngược sự chịu đựng nhục nhã, cúp tai ở 7 phiên toà trước. Họ đòi Toà phải cho đăng bản kiến nghị "nói lên sự thực" giùm GPU. Còn gì quý cho bằng niềm uất hận biểu lộ sôi sục!

Kỹ sư Ramzin vươn ngực cho mọi người thấy: "Sự kiện của chúng tôi trước Toà đủ là bằng chứng hùng hồn là chúng tôi không hề bị tra tấn hoặc ngược đãi". Ông kỹ sư quá ngây thơ! Tra tấn hay ngược đãi khiến can phạm ra Toà không nổi thì còn gọi là tra tấn sao được? Đâu phải là nghệ thuật?

Kỹ sư Fedotov còn đi xa hơn nữa. Không những bênh vực cho lề lối là việc của Cơ quan, bị can này còn xác nhận: "Đối với bản thân tôi ở tù thật hữu ích. Mà không riêng một mình tôi. Tôi cho là ở tù còn sướng hơn, thoải mái hơn tự do". Kỹ sư Ochkin phụ hoạ: "Tôi cũng vậy. Tôi cũng cảm thấy sung sướng hơn".

Các bị cáo đã giác ngộ, tự nguyện và hăng say như vậy, tại sao Krylenko và Vyshinsky không chấp nhận để họ công bố một kiến nghị cho được?

Màn kịch được chuẩn bị chu đáo, hạ màn một cách tuyệt vời như vậy nhưng vốn là một cây lý luận, Krylenko vẫn phải đặt một câu hỏi; giả thử những điều họ vừa nói hoàn toàn dóc láo thì tại sao họ bị bắttại sao tất cả đều thú nhận tội lẹ làng như vậy?

Chao ôi, cần gì phải lý luận? Thực tế rành rành cả mấy ngàn năm nay mà chỉ những ông Công tố buộc tội không hay là: bị bắt hẳn phải có tội. Và có tội là phải khai.

Trước toà Chưởng lý Krylenko vẫn lý luận: "Bây giờ ta bỏ vấn đề tra tấn sang một bên mà thử đặt một câu hỏi tâm lý: Tại sao họ thú nhận tội lỗi? Xin hỏi quý ngài: "Không thú tội, thì còn làm cái gì khác?" Điều đó đúng quá rồi! Và tâm lý nữa. Đã lọt vô Cơ quan một thời thì ráng nhớ lại coi: Có làm được một cái gì khác không?

(Theo lời bạn tù Ivanov – Razumnik trong tập hồi ký Tù đày (Nhà xuất bản Chekhov, Nữu Ước, 1953) thì năm 1938 có hân hạnh được nằm chung xà lim Byturki với ông cựu Chưởng lý Krylenko và ông cựu Chưởng lý được các anh em đồng xà lim nhường cho một chỗ nằm là gầm giường tập thể.)

Tôi cũng đã từng nằm xà lim Byturki nên không lạ gì nó thấp như thế nào? Muốn chui vô phải nằm úp sấp người, nằm thật sát đất nếu không muốn bị đụng đầu hay đụng đít. Ông Chưởng lý bụng bự đít to đã quen chui thế nào được? Người lồm cồm bò, nguyên một cái bàn toạ đưa lên, chìa ra ngoài nhấp nhổm, không làm sao chui lọt cái đít. Đó là hình ảnh của Krylenko mắc kẹt hay của nền Công lý Xô Viết Vượt Qua? Viết đến đây tôi cảm thấy an ủi vì hình ảnh chui luồn, mắc kẹt đó!).

Chính ông Chưởng lý Krylenko chui lòn gầm giường đó đã mạnh miệng lý luận lắm. Giả thử có thực vụ tra tấn đi nữa không thể hiểu nổi tại sao tất cả các bị cáo có thể thú nhận mọi tội lỗi một cách "chúng khẩu đồng từ" như vậy, không hề lệch lạc, mâu thuẫn? Làm sao tạo nổi cả một sự ăn khớp vĩ đại như vậy khi các bị cáo tuyệt đối không có cách nào liên lạc, sắp xếp, trong suốt thời gian giam cứu chờ ngày ra Toà? Họ gặp nhau ở đâu?

(Muốn biết ở đâu thì bạn đọc chịu khó đợi. Vài trang sau một nhân chứng còn sống sót sẽ cho biết liền!)

Quả thực lý luận vững! Hai năm chuẩn bị hồ sơ, đích thân lựa chọn từng bị cáo mà tổng cộng chỉ có 8 người chớ đâu phải vài ba trăm hoặc 2 ngàn mà không tạo được một sự ăn khớp tuyệt vời? Phải nói một tập luyện thuần thục tối đa! Đứa nào xét không thể cho ra trình diễn được thì GPU đã liệt vào thứ "hàng hoá hư hỏng trong thời gian giam cứu" và cho về nghĩa địa trước rồi mà. Còn số 8 còn sót lại sau nhiều thử thách "mất sức và xuống tinh thần" đã được điều trị chu đáo, nuôi vỗ cho mập trước khi trình diễn.

Ngoài một ông Ramzin tự nguyện hiếm có đã đành, trong đám bị cáo có ai không muốn sống? (Mình có thể thí thân, nhưng còn con cháu nữa chớ). Họ được cán bộ Cơ quan mở mắt: Nếu muốn bắn bỏ mấy người thì dễ quá, ngay ở sân trong, chẳng phải đưa đi đâu. Nằm Lubyanka là phải biết điều đó, đâu cần mở mắt. Vậy thì phiên toà sẽ diễn ra như thế này, mấy người biết điều thì tự tay viết sẵn thú nhận đi. Danh từ chuyên môn thì người chuyên môn mới đủ tư cách viết chớ. Kể ra bắt buộc mấy người công khai thú tội nhục nhã như thế cũng khó đóng thật. Nhưng phải vậy. Bằng không thì, mấy người sợ đóng xong vẫn cứ bị ra pháp trường? Đâu có! Mấy người thuộc thành phần kỹ thuật ưu tú, nhà nước trọng tài năng đâu cần ghép tội chết? Không thấy những phiên toà trước sao? Có người nào chịu thú tội cho đúng mức mà bị hành hình đâu? Nhà nước vẫn giảm khinh cho mấy người biết hối ngộ trước toà mà? [4] Dĩ nhiên muốn giảm khinh là phải đóng cho đúng chỉ thị, cho đến phút cuối cùng. Để đóng góp vào việc làm đẹp cho chế độ Xã hội chớ.

"Đóng cho đúng từng chỉ thị, cho đến phút chót..." để khỏi mất mạng và còn làm đẹp cho chế độ thì có bị cáo nào không mong mỏi? Tất cả đều thú nhận mọi tội lỗi, mong cầu giảm khinh. Và đóng trội hơn chỉ thị. Như kỹ sư Fedotov thẳng thắn nhìn nhận: "Bọn chúng tôi đáng tội hết, không đáng được tha thứ. Ông Chưởng lý nói đúng!"

Ở đúng ngưỡng cửa của cái chết, các bị cáo đã cố gắng minh chứng cho dân Nga và cả thế giới thấy rõ uy lực bất khuất và sự nhìn xa thấy rộng của nhà nước. Tinh thần Cách mạng lao động và cấp lãnh đạo đã được kỹ sư Ramzin ca ngợi là "tìm ra những đường lối vững vàng để thực hiện chính sách kinh tế và hoạch định mức độ phát triển chính xác đến độ giới kỹ thuật không sao so sánh nổi. Bây giờ tôi mới hiểu cách mạng kinh tế đòi hỏi một bước nhảy vọt cần thiết, bắt buộc phải có!".

Kỹ sư Larichev xác nhận: "Thế giới tư bản càng ngày càng yếu kém. Xã hội chủ nghĩa tất thắng" trong khi Kalinnikov khẳng định mạnh: "Độc tài vô sản là một nhu cầu cấp thiết, không có không được. Quyền lợi lao động và quyền lợi nhà nước thực sự hoà đồng làm một". Cũng chính Kalinnikov đi xa hơn: "Chính sách nông thôn của Đảng đi đúng đường lối, phải tận diệt bọn kulak!".

Trong khi chờ đợi tuyên án, các ông kỹ sư hối ngộ còn làm cả công việc tiên tri, đại khái: "Trong chiều hướng phát triển xã hội hiện tại đời sống cá nhân phải thu hẹp bớt, phải nhường chỗ cho tập thể".

Vì vậy nếu phiên toà được coi như một chiếc xe thì quả thực 8 con ngựa đã hợp lực kéo về đến đích chu tất, đạt đủ hết mục tiêu:
  1. Tất cả mọi tình trạng sa sút trên toàn quốc đều quy tội cho thành phần kỹ thuật: đói, lạnh, thiếu áo, hỗn loạn.

  2. Nhân dân bị đe doạ nạn ngoại xâm gần kề đâm hốt hoảng đành chấp nhận hy sinh, hy sinh thêm nữa.

  3. Tố cáo với cánh tả các nước Tây phương chính phủ họ đang có âm mưu chống Xô Viết.

  4. Giới kỹ thuật bị khủng bố hết dám đoàn kết mà tri thức nói chung bị dằn mặt, không dám nghĩ tới kết hợp thành một khối.
Mục tiêu thứ tư mới chính là quan trọng, căn cứ theo lời chót của "nhân vật số 1" Ramzin:

"Tôi mong được thấy sau vụ án Đảng Kỹ thuật này, nếp sống tăm tối, nhục nhã của trí thức trong quá khứ sẽ bị chôn sống luôn, một lần và vĩnh viễn".

Kỹ sư Larichev tiếp lời:

"Giai cấp kỹ sư phải bị tiêu diệt. Với bọn này không có, và không thể có lòng trung thành!"

Kỹ sư Ochkin đi xa hơn nữa:

"Trí thức chỉ là thứ nấm ăn bám. Đúng như lời ông Chưởng lý, bọn trí thức vốn không xương sống, suốt đời cong lưng. Giai cấp lao động có cảm quan cao hơn gấp bội."

Nếu trí thức đã hối ngộ và chịu cộng tác với chế độ đến mức đó thì xử tử làm chi? Tình trạng trí thức nước Nga là như vậy, từ thập niên 1920 qua thập niên 1930: đối với nhà nước không còn là thành phần ưu tú mà chỉ là thứ cặn bã, liên kết với bọn tướng tá phản động, tay sai ăn tiền đế quốc. Vì vậy kể từ ngày đó chẳng ai ngạc nhiên khi danh từ "trí thức" ở Nga trở thành tương đương với một sự mạ lỵ, bỉ ổi.

*


Những phiên toà công khai ở Nga đã được chế tạo như trên, kiểu mẫu đã có sẵn và cứ thế tiến hành, đúng sự tiên liệu sáng suốt và tùy hứng của Stalin (bọn đầu óc ngu ngốc cỡ Hitler, Goebbels thì làm sao sánh kịp và cháy tiêu luôn với chế độ Quốc Xã là phải). Đã có mẫu sẵn, những phiên toà sau chỉ việc rập theo, năm này sang năm khác, mùa này sang mùa khác. Những lãnh tụ nóng tính quá: Phiên xử Đảng Kỹ thuật mới có 3 tháng đã muốn có một vụ khác. Thời gian tổng dượt có 3 tháng quả có ít ỏi, nhưng rồi cũng chu toàn hết. Màn lại sắp vén lên để ra một tuồng khác: đó là vụ án tổng bộ Men-xơ-vích.


Vụ án Men-xơ-vích

Dĩ nhiên quan trọng như vụ án Men-xơ-vích phải ra phiên Đặc biệt Tối cao pháp viện. Ngồi xử án cũng như đứng buộc tội toàn là những nhân vật cũ, trừ một ông Chánh thẩm là Shvernik, gồm có: Antonov, Saratovsky, có Krylenko, được Roginsky phụ tá. Vụ án có tính cách chính trị quen thuộc quá rồi chớ đâu phải kỹ thuật? Nắm vững vai trò rồi, Công tố viện cho lên sân khấu 14 bị cáo.

Vụ án Men-xơ-vích không những hoàn hảo còn linh động tuyệt vời.

Năm đó tôi mới 12 tuổi. Ba năm liền tôi vẫn chú ý theo dõi chính trị trên những trang báo Izvestiya lớn tướng, đọc từng hàng một biên bản tốc ký cả hai vụ án lớn. Trong vụ Đảng Kỹ thuật, tuy đầu óc còn con nít tôi cũng thấy cả một sự ngụy tạo, che đậy, thông suốt. Nhưng ít nhất cũng còn thấy dàn cảnh: nào ngoại xâm, nào tê liệt toàn bộ kỹ nghệ, nào chia chác ghế Bộ trưởng. Vụ án Men-xơ-vích sơ sài hơn, vứt bỏ hết phong cảnh. Bị cáo không lớn tiếng, nói như không hồn nên không khí trầm trầm đến buồn ngủ, chán đến muốn ngáp. Nếu phiên toà là một buổi tập tuồng vô vị thì bị cáo chỉ làm công việc trả bài (có lẽ núp kín trong vỏ ốc Stalin cũng thấy sự buồn nản quá mức này nên mới cho lệnh đình vụ án Đảng Nông dân đã sửa soạn xong đâu đấy, mà năm bảy năm sau cũng không đem một vụ án nào ra xử nữa).

Vụ án đã nản mà bây giờ thuật lại căn cứ theo biên bản tốc ký thì còn gì buồn nản hơn? Cũng may mà còn có một nhân chứng quan trọng bậc nhất trong vụ là Mikhail Petrovich Yakubovich còn sống sót và còn muốn đóng góp một tài liệu đích đáng qua bản thỉnh nguyện xin khôi phục công quyền [5] quay bằng ronéo tố cáo tất cả sự thực bỉ ổi bên trong vụ án. Thỉnh nguyện thư của Yakubovich quả là bằng chứng cụ thể về những vụ án công diễn ở Mạc Tư Khoa suốt một thập niên 1930.

Trước hết có cái gọi là Tổng bộ Men-xơ-vích. Không. Nhận được chỉ thị thì GPU có trách nhiệm tạo ra một Tổng bộ để chứng tỏ phe Men-xơ-vích đã khôn khéo luồn lọt vô chính quyền Cách mạng và ôm được nhiều chức vụ quan trọng để nhằm những âm mưu phản Cách mạng. Dù thực tế không hề có chuyện đó! Có đảng viên Men-xơ-vích thiệt nào từng giữ chức vụ lớn đâu? Vả lại có đảng viên nào đích thực Men-xơ-vích bị đưa ra Toà! Có mỗi một ông Ikov thực sự có chân trong một phân bộ Men-xơ-vích rất hiền lành, không làm gì phi pháp là phân bộ Mạc Tư Khoa thì GPU lại bỏ sót: Ikov chỉ bị đưa ra xử ở đợt 2, đợt thứ yếu và bị có 8 năm tù!

Để trình diện một Tổng bộ Men-xơ-vích, GPU có cách lựa chọn riêng: 2 người trong Hội đồng Kinh tế Tối cao, 2 người ở Bộ Thương mại, 2 người ở Ngân hàng Nhà nước, 1 ở Ban Chấp hành Trung ương Hợp tác xã tiêu thụ, 1 ở Hội đồng Thiết kế Nhà nước. Đại khái chỉ nhái lại vụ án Trung tâm Chiến thuật vậy! Căn cứ vào sự phân loại đó, GPU lượm về những nhân vật thích hợp và nếu hắn không phải Men-xơ-vích thì cũng cứ gán nhãn hiệu Men-xơ-vích! Chỉ thị là như vậy. Thứ mà GPU ít chú trọng đến nhất là lập trường chính trị nên ngay trong số 14 bị cáo Men-xơ-vích có ông không biết ai vào với ai! Còn số nhân chứng cần thiết để xác nhận kẻ bị bắt là đảng viên Men-xơ-vích thì còn bị lượm quá dễ dàng nữa và sau này cũng lãnh án tù nữa! [6]

Theo hồi ký của Yukabovich thì dựng lên vụ án này, GPU đã đặt tất cả hy vọng vào 2 khuôn mặt lớn: bị cáo số một Vladimir Gustanovich Groman (nếu trợ giúp đắc lực cho Toà sẽ được ân xá) và chuyên viên xách động Petunin.

Xét ra cũng nên biết về con người và thành tích của Yukabovich. Một tay làm cách mạng quá sớm, hồi còn học Trung học. Tháng 3 năm 1917 đã được bầu Chủ tịch Xô Viết Smolensk. Tài biện thuyết rất cừ. Chẳng hạn tháng 4 năm 1917 ở Hội nghị Mặt trận Miền Tây, Yukabovich dám lên án "kẻ thù của nhân dân" những nhà báo chủ trương tiếp diễn chiến cuộc. Cử toạ hò hét, đòi quăng xuống khỏi diễn đàn và bắt phải xin lỗi, rút lại lời mạ lỵ. Ngay sau đó Yukabovich đăng đàn thuyết phục hay đến nỗi làm cử toạ say mê, khi lên án "mấy thằng nhà báo kẻ thù của nhân dân" được hoan nghênh rầm rộ! Được cử vào phái đoàn tham dự Xô Viết Petrograd, chưa đi đến nơi, chỉ nhờ danh tiếng như cồn đã được cử vào Ủy ban Quân sự và có ảnh hưởng mạnh đến vụ cắt cử, đề bạt các Chính ủy [7] . Sau đó Yukabovich là Chính ủy Mặt trận Tây Nam, đích thân bắt được tướng phản loạn Denikin ở Vinnitsa (sau cuộc khởi loạn Kornilov) và ngay trước Toà còn tuyên bố đã hối hận không xử bắn tại chỗ.

Cặp mắt sáng, tính bộc trực đến độ phải hay trái cũng nói rất hăng, Yukabovich được coi như một lãnh tụ trẻ xuất sắc của nhóm Men-xơ-vích. Mùa Xuân 1917 dám mạnh dạn đề nghị lên Trung ương thành lập một chính phủ Dân chủ Xã hội và năm 1919 còn chủ trương Men-xơ-vích nên tham dự vào Comintern. Cả hai đều bị bác bỏ. Ngay sau Cách mạng tháng 10, Yukabovich đề nghị lên Trung ương hãy tận tình ủng hộ phe Bôn-xê-vích để góp phần cứu quốc. Sau đó lập tức bị Martov tuyên bố khai trừ và năm 1920 tự ý rút lui khỏi phe Men-xơ-vích vì không lôi kéo được Đảng đi theo Bôn-xê-vích.

Sở dĩ tôi phải đi sâu vào chi tiết như vậy vì suốt thời kỳ Cách mạng Yukabovich chẳng phải đảng viên Men-xơ-vích và đúng là một Bôn-xê-vích thuần thành và bất vụ lợi. Cho đến 1920 ông ta còn có chân trong Ủy ban Tiếp tế thực phẩm Smolensk, một Ủy viên không phải Bôn-xê-vích mà còn được Bộ Tiếp tế ban khen là Ủy viên xuất sắc nhất (dù Yukabovich cả quyết không hề xúc phạm đến quyền lợi nông dân nhưng trước Toà khai có công tổ chức những biệt đội trừ gian). Khoảng thập niên 1920 ông ta là Chủ biên Thương Mại Tập san và còn giữ nhiều chức vụ quan trọng khác.

Với một quá khứ đảng viên Men-xơ-vích và từng giữ nhiều chức vụ như vậy hiển nhiên Yukabovich phải được GPU chiếu cố ngay lập tức và có tên trong danh sách ra toà.

Trước đó, Yukabovich được Chưởng lý Krylenko đích thân kêu lên thẩm vấn để sửa soạn vá víu hồ sơ trước khi ra toà như thông lệ. Dĩ nhiên hai người phải quen biết nhau nhiều vì hồi Yukabovich còn tại chức, chính Krylenko từng nhiều lần tới Smolensk để đẩy mạnh công tác thu mua thực phẩm. Vì vậy ông Chưởng lý mới nói:

"Mikhail Petrovich, tôi thành thực nói với anh điều này. Tôi coi anh là một đảng viên Cộng sản! (Làm gì bị cáo chẳng lên tinh thần!)

Tôi biết về vụ này bạn hoàn toàn vô tội. Nhưng bổn phận của tôi cũng như của bạn là thi hành chỉ thị của Đảng trong vụ án này. (Krylenko đã nhận chỉ thị của Stalin, điều đó còn làm cho Yukabovich hăng hái làm nhiệm vụ "đảng viên" nữa!). Vậy yêu cầu bạn bằng mọi cách giúp tôi toàn thành vụ thẩm cung, chừng gặp những khó khăn bất ngờ trước phiên toà chắc chắn tôi sẽ yêu cầu ông Chánh thẩm nhường lời cho bạn".

Thế là Yukabovich nghe xuôi tai và hứa hẹn. Ông ta coi đây là một nhiệm vụ. Có bao giờ được chính phủ Xô Viết giao phó một nhiệm vụ quan trọng tới cỡ này?

Như vậy Yukabovich là người nhà rồi. Hà tất phải đụng chạm đến trong thời gian điều tra? Nhưng cán bộ GPU đâu hiểu được như vậy? Cùng bị gởi đến đồng loạt với một số đảng viên Men-xơ-vích, lọt vào phòng Điều tra của Cơ quan là Yukabovich cũng được chiếu cố tận tình và đầy đủ như ai. Cũng nếm đủ mọi đòn, hết phòng lạnh đến phòng nóng và ép bộ phận sinh dục. Lãnh đòn đau đến nỗi cùng với bọn đồng tù Abram Ginzburg, ông ta đã phải cắt mạch máu tự sát. Sau khi được điều trị, cả hai không bị đánh đập, tra tấn nữa mà chỉ bị cấm ngủ 2 tuần lễ. (Về vụ này Yukabovich tuyên bố: Lúc bấy giờ chẳng có lương tâm hay danh dự gì nữa mà chỉ thèm được ngủ!).

Sau đó cả hai người được đối chất với các đồng chí từng cung khai hết và được họ khuyến cáo "có gì cứ khai hết ra". Sự thực có cái gì để khai đâu? Ngay đến điều tra viên Aleksei A. Nasedkin còn phải bảo: "Tôi biết, tôi biết chẳng có những chuyện như thế này. Nhưng chỉ thị phải có thì biết làm thế nào?

Vô lý nữa là một hôm Yukabovich bị kêu lên điều tra và đụng đầu một kẻ lạ mặt cũng đang thời kỳ chịu tra tấn. Gã điều tra viên cười gằn bảo:

"Đây là Moises Isayevich Teitelbaum. Hắn năn nỉ xin anh cho vô danh sách đảng viên của anh. Hai người có thể chuyện trò, tôi có việc ra ngoài một chút.

Teitelbaum năn nỉ ngay:

"Đồng chí Yukabovich thương hại tôi, cho tôi một chân trong Tổng bộ. Tôi bị họ nghi lãnh tiền ngoại quốc, doạ xử bắn. Đằng nào cũng chết thà nhận là phản Cách mạng."

Chắc gã Teitelbaum này được cán bộ GPU xui nhận tội phản cách mạng khỏi bị bắn. Quả nhiên hắn được bản án nhẹ nhất: có 5 năm! Thì ra kiếm không đủ đầu đảng viên Men-xơ-vích, GPU phải cho phép xung phong. Chẳng có cách nào hơn, Yukabovich cũng đành chấp nhận vậy. Thế là Teitelbaum bỗng "có chân trong Đảng Men-xơ-vích và được giao phó công tác vô cùng quan trọng là liên lạc với cánh Men-xơ-vích hải ngoại và với các tổ chức Đệ nhị Quốc tế! Một công tác quan trọng, nặng như vậy nhưng GPU giữ đúng lời hứa, 5 năm tù.

Trước phiên xử ít hôm, một phiên khai hội công tác thứ nhất của Tổng bộ Men-xơ-vích được triệu tập ở văn phòng của Điều tra trưởng Dmitri M. Dmitriyev để điều hoà, phân phối công tác cho các đảng viên. Ít ra ở trước toà họ cũng phải cung khai, vậy phải học trước cho thuần thục từng vai trò để khai cho ăn khớp như thực chớ. (Tổng bộ Men-xơ-vích khai hội ở đâu thì Trung ương Đảng bộ Đảng Kỹ thuật hẳn cũng gặp gỡ nhau ở đấy. Còn lạ gì mà ông Chưởng lý Krylenko phải nêu câu hỏi ngây thơ: "Trong thời kỳ giam cứu các bị cáo làm gì có cơ hội gặp nhau?" Tuy nhiên một phiên họp "phân phối công tác" đâu có đủ. Phải thêm một phiên tổng dượt nữa. Các diễn viên mới học thuộc bài để diễn trôi cả một núi sự kiện chế tạo!

Có dịp nói lên trước Toà, liệu Yukabovich có dám làm xì-căng-đan vì bị ăn đòn quá đau, lật mặt trái của vở kịch chế tạo như trên cho cả thế giới rúng động? Không!

Làm vậy khác nào đâm đằng sau lưng chính quyền Xô Viết, chối bỏ tất cả mục đích của một đời người, vứt hết mớ lý tưởng hằng theo đuổi kể từ ngày từ bỏ cánh Men-xơ-vích đi sai đường lối sao? Làm vậy ắt hẳn muốn chết, GPU cũng không cho chết. Đâu phải chỉ xử bắn là xong. Sẽ có một chầu tra tấn nữa, lần này là "đòn thù" nên không đau đớn mà chắc chắn sẽ phát điên. Thân thể đã quá suy nhược vì tra tấn thì tinh thần đâu mà chịu đựng thêm nữa?

(Có mấy ai có cơ hội như Yukabovich đã bị đưa ra Toà xử mà sau này còn được dịp lên tiếng giải thích tại sao phải xử sự như vậy? Chắc hẳn sau này Bukharin và Rykov cũng lý luận như Yukabovich để giải thích tại sao chịu khuất phục ngoan ngoãn. Cũng vì tính tình bộc trực, vì tinh thần phục vụ Đảng, vì cơ thể con người yếu đuối, vì thiếu sức mạnh tinh thần cần thiết để chống trả lại, vì cá nhân không có lập trường vững).

Phản ứng đầu tiên về vụ án Tổng bộ Men-xơ-vích dĩ nhiên phát xuất từ nhóm Men-xơ-vích Hải ngoại, gồm những đảng viên đích thực có chân trong Tổng bộ hồi trước. Nhóm này lên tiếng chính thức trên tờ Vorwarts vạch rõ vụ án bất quá chỉ là một trò hề bịp bợm, các bị cáo nếu không phải tay sai cũng là những người bị khủng bố buộc phải nhận tội. Đa số bị cáo đã rút khỏi Đảng ngoài 10 năm, không hề tham gia hoạt động. Phiên xử đã đề cập đến những số tiền hoạt động khổng lồ mà quỹ Đảng Men-xơ-vích không bao giờ có nổi!

Dĩ nhiên đọc bản cải chính trên, Chưởng lý Krylenko lại phải xin phép Toà cho những bị cáo công bố một bản kiến nghị và tất cả các bị cáo lại có dịp hăng say lên án nhóm Hải ngoại vu cáo cho GPU, in hệt trong vụ án Đảng Kỹ thuật.

Không hiểu Yukabovich còn nhớ thái độ của ông ta trước phiên toà hôm ấy? Được Krylenko yêu cầu "nếu gặp khó khăn sẽ đứng lên trước Toà gỡ rối", Yukabovich đã giữ đúng lời hứa, có dịp "nói lời nói chót" là xông lên, nhảy lên (chớ không phải đứng lên) để trổ tài hùng biện và để nói lên bằng hết những căm thù. Một kẻ từng chịu đựng tra tấn đến thừa sống thiếu chết, phải cắt đứt mạch máu tự tử mong tự giải thoát hiển nhiên có quyền bộc lộ căm thù, uất ức. Nhưng căm thù ai? Yukabovich không căm thù mà trút hận thù vào,nhóm Men-xơ-vích mới lạ lùng!

Nhóm Hải ngoại bị Yukabovich chửi là một bọn cầu an, lo ngồi sung sướng hưởng thụ ở ngoại quốc, bỏ rơi đám anh em đồng chí đang chịu đựng đoạ đày, không thèm bố thí chút lòng thương hại mà còn nỡ tuyên bố khai trừ phó mặc cho số phận. Yukabovich đã uất ức thực sự và giận dữ đến nỗi "ra ngoài sự mong ước của ban tổ chức vụ án". Cho đến 1967, ông ta còn giữ nguyên vẹn lòng căm thù nhóm Men-xơ-vích Hải ngoại, một bọn phản bội Cách mạng – lời lẽ không khác gì từng công kích họ năm 1917.

(Nhóm Men-xơ-vích Hải ngoại không hề dùng lời lẽ nặng nề, xúc phạm. Họ chỉ muốn tố cáo một trò hề của chính quyền Xô Viết, mang ra xử tội Men-xơ-vích, những người đã thoát ly khỏi mọi hoạt động Đảng từ lâu. Thực tế là họ có muốn bố thí chút lòng thương hại hay chiếu cố đến số phận các "đồng chí" cũng chẳng có cách nào!).

Không hiểu tại sao Yukabovich căm thù nhóm Men-xơ-vích Hải ngoại nặng như vậy? Đồng ý thói thường con người ta ưa trút mọi sự giận dữ lên đầu những kẻ yếu thế, những kẻ không đủ điều kiện trả lời, nhưng ít nhất những nguyên nhân căm thù phải chính xác chớ không thể "căm thù vu vơ" như vậy.

*


Trong bản cáo trạng chót, Chưởng lý Krylenko đã buộc tội Yukabovich "nuôi dưỡng và chủ trương một cách quá khích những tư tưởng phản Cách mạng" và yêu cầu Toà lên án tử hình.

Lúc đó Yukabovich đã xúc động, giọt lệ trào ra khoé mắt. Bây giờ ông ta vẫn còn nguyên cảm giác đó, sau khi đã sống lây lất hết khám đường này sang trại Cải tạo khác. Bây giờ vẫn còn cảm ơn Krylenko đã không hạ nhục, không giễu cợt "bị cáo" Yukabovich mà đã đánh giá đúng con người ông ta "nuôi dưỡng tư tưởng quá khích" (kể cả những tư tưởng, đi ngược lại tư tưởng của ông ta) và còn yêu cầu cho được chết trong vinh dự, chấm dứt mọi sự đau khổ.

Yukabovich còn đồng ý với Krylenko ở điểm: "Những tội ác mà tôi đã thú nhận (chớ không phải "những tội ác mà tôi đã làm ra", đó là một điều Yukabovich vẫn lấy làm hãnh diện là gài được vô lời nói chót) quả xứng đáng với hình phạt tối đa – tôi không câu xin tha thứ. Tôi cũng không xin bảo toàn sinh mạng!".

Giữa lúc Yukabovich khẳng khái phát ngôn như vậy thì cùng ngồi hàng ghế bị cáo, "đồng chí" Groman hoảng sợ quá phải bảo: "Anh điên rồi chắc? Anh phải nghĩ đến các bạn đồng chí, Anh đâu có quyền nói vậy?".

Sự tình xảy ra như trên thì bảo Yukabovich không phải "con cờ quý giá" của Krylenko sao được? Chỉ cần nhìn vào cách thức dựng lên một vụ án như vụ Tổng bộ Men-xơ-vích là đủ hiểu bản chất những vụ án từ 1936 đến 1938 – Phải chăng rút kinh nghiệm của vụ này mà Stalin hiểu ra và tin chắc từ nay tha hồ quơ tất cả những thằng chống đối miệng, bắt buộc chúng phải học thuộc lòng vở để ra toà trình diễn những vở kịch tương tự với vụ kịch Tổng bộ.

*


Nếu tôi thuật lại những vụ án nói trên mà tay không run run, tim không đập mạnh và tâm hồn bình thản được hẳn vì trong khoảng 15 năm đó, con người được bảo vệ trong lòng luật lệ Cách mạng hợp pháp. Nhưng từ đây về sau sự tình lại khác, căn cứ theo lời Khrushchev, "từ khoảng 1934 trở đi bắt đầu có những vụ vi phạm tiêu chuẩn hợp pháp của Lenin". Nghĩa là có sự bất hợp pháp. Vực thẳm giữa hợp pháp và bất hợp pháp quả là khó vượt.

Những vụ án dưới đây phải chi âm thầm bỏ qua được. Nhưng bị cáo lại là những tên tuổi quá lớn, vượt quá tầm mức quốc gia. Dư luận quần chúng bắt buộc phải theo dõi, thế giới cũng phải lưu ý. Đó là những vụ án được tường thuật, được bày giải và sẽ còn được bày giải nữa. Chúng ta ở đây chỉ khẽ đụng đến chúng, đụng đến tính cách bí ẩn của chúng.

Điều phải nói ra trước hết, dù chẳng phải vấn đề lớn là biên bản tốc ký không ghi nhận đúng hết, đúng hoàn toàn những sự việc đã xảy ra. Một nhà văn được phép dự những phiên xử đã ghi chép lấy và so sánh với biên bản thấy lòi ra nhiều chỗ khác. Dự phiên xử Krestinky, ký giả nào chẳng lưu ý tới một vụ "kẹt" bất ngờ Toà phải đình xử để "sắp đặt lại cho bị cáo đi đúng đường lối vạch trước".

(Theo tôi biết trường hợp "đi trật đường rầy’ được chuẩn bị từ trước. Chẳng hạn có sẵn một biện pháp chống kẹt sau đây. Một mật văn lập sẵn. Cột số 1 là tên bị cáo, cột số 2 là biện pháp sử dụng cấp tốc ngay khi toà đình xử nếu bị cáo "nhắc trật bài" và cột thứ 3 là tên điều tra viên chỉ định sẵn để phụ trách công tác. Do đó, Krestinky khai hay trả lời không đúng "bài" là có người và có cách giải quyết liền.)

Tuy nhiên vấn đề biên bản sai chỉ là thứ yếu. Cả thế giới đã ngạc nhiên khi chính quyền Xô viết dám mang ra xử liên tiếp 3 vụ án lớn với đầy đủ lớp lang, dàn cảnh công phu. Họ càng kinh ngạc khi chứng kiến tận mắt các tay thủ lãnh Cộng sản từng hét ra lửa và làm điên đảo thế giới nay xuất hiện trước Toà hiền lành, ngoan ngoãn như cừu để "đọc bài" một cách chăm chỉ và cong lưng xuống tự sỉ nhục, thú nhận những tội lỗi ghê gớm mà nếu có chút đỉnh đầu óc họ cũng không bao giờ có thể lầm!

Lịch sử chưa từng có những vụ án tương tự. Nó trái ngược hẳn vụ án Dimitrov ở Leipzig. Mới đây Dimitrov còn gầm thét như hổ dữ trước các quan toà Đức, rõ ra hào hùng, bất khuất, mà các đồng chí của hắn – toàn là đảng viên cỡ lãnh tụ, một thời đi sát Lenin – đã hèn hạ, khiếp nhược đến độ đái ra quần trước Toà Mạc Tư Khoa? Đó là một điều bí ẩn, dù được giải thích nhiều phen – nhất là trong tác phẩm Arthur Koesther – cũng vẫn cứ bao trùm bí ẩn.

Nhiều người cho là họ bị thôi miên hay bị uống một thứ thuốc mê dược gốc Tây Tạng làm mất lý trí. Nếu có thứ mê dược ấy thật thì NKVD không bao giờ ngần ngại. Chẳng còn gì bằng "thuốc" cho bị cáo mất hồn, ngu muội. Thập niên năm 1920 quả có nhiều thầy thôi miên tên tuổi đột ngột giải nghệ, đầu quân GPU cũng như khoảng 1930 NKVD còn có một bạn thôi miên. Trước khi Kamenev bị đưa ra toà, bà vợ được gặp mặt và nhận thấy chồng như một người nào khác, lờ đờ chậm chạp. Sau khi tiết lộ chuyện này với vài người bà Kamenev cũng bị bắt luôn.

Tuy nhiên nếu có thôi miên hay mê dược Tây Tạng thì tại sao những con người như Palchinsky, Krenikov vẫn không chịu khuất phục?

Sự thực giản dị hơn nhiều,và ít người biết đến!

Trước hết phần đông đều lầm tưởng các bị cáo đều là những nhà Cách mạng nghĩa là những chiến sĩ từng vào tù ra khám, từng nếm đủ mùi tra tấn dưới thời Nga hoàng. Có, họ có hoạt động cách mạng phản đế thật nhưng vào tù ra khám không phải họ! Chịu đựng tù đày là những đảng viên Narodnik, Xã hội Cách mạng hay nhóm Vô pháp, Vô quân, những chiến sĩ liệng bom hay xách động khởi nghĩa mà các đồng chí Bôn-xê-vích nhờ họ được hưởng tiếng thơm lây (còn tra tấn đến chết đi sống lại thì thực sự chẳng ai bị vì giản dị là dưới thời Nga hoàng chưa có "điều tra" khoa học!). Lãnh án khổ sai, đi đày những nơi dữ như Sakhalin, Yakutsk tuyệt đối không thấy nhà Cách mạng Bôn-xê-vích nào hết.

Chẳng hạn Dzerdzinslay từng nổi danh lãnh án nặng nhất, cả đời ở tù nhưng so với chúng tôi chỉ là thứ tập tễnh 10 năm! Khốn nạn, bản án 10 năm thì quá thường, bất cứ thằng nông dân nào thế hệ chúng tôi chẳng dễ dính như chơi. Đồng ý là trong số 10 năm có 3 năm khổ sai ở Trung ương khám đường, nhưng cũng chẳng có gì đáng nói.

Các đảng viên Bôn-xê-vích lớn bị đưa ra toà từ 1936 đến 1938 hồi hoạt động cách mạng nếu có bị ở tù, đi đày cũng chỉ ngắn hạn chưa từng nếm mùi khổ sai. Như Bukharin cũng từng vào tù nhiều thật nhưng bắt rồi lại thả, cộng lại cũng chưa đi đến đâu. Chưa lần tù nào ở quá một năm, lần đi đày Onega thì chớp nhoáng [8] . Như Kamenev hoạt động tuyên truyền nhiều năm, đi lại khắp nước Nga nhưng chỉ ở tù 2 năm, đi đày 1 năm rưỡi. Còn Zinoviev mới lạ lùng: chưa hề ở tù lần nào quá 3 tháng, chưa hề mang một bản án! Thời buổi chúng tôi thì con nít 16 tuổi lãnh án 5 năm tù quá thường, do đó so với dân quần đảo chúng tôi thì họ chỉ là tù sơ đẳng, chưa thể gọi là biết nếm cơm tù – như Rykov và Smirnov từng bị bắt nhiều lần và ở tù 5 năm thật nhưng thời gian ở tù của họ quá dễ lại chưa từng biết mùi đi đày (vì may mắn thoát khỏi hay được ân xá).

Phải nói cho đến ngày bị tống vào Lubyanka, họ chưa biết thực sự thế nào là ở tù, chưa biết điều tra thẩm vấn ghê gớm cỡ nào.

Không biết đích thân Trotsky lọt vào phòng Điều tra của Cơ quan có đỡ hèn hạ hơn họ chút nào hay chịu đựng tra tấn gan dạ hơn được không. Chỉ vì người chưa bị nên chưa thể nói chắc. Bản thân Trotsky chỉ bị tù nhẹ, chưa hề nếm mùi tra tấn và mới bị đi đày Ust Kut 2 năm. Nhắc đến tên Trotsky là nhắc đến khủng bố, đàn áp nhưng cái uy danh ghê gớm đó người mượn ở chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quân sự chớ người đã cho thấy nét con người oai hùng, tinh thần cao bao giờ? Thói thường những đấng tuyên án tử người thì bạo nhưng đến lần mình bị lại run hơn ai hết, xét vì sự bạo dạn bắt người khác chết và sự can đảm đối diện cái chết vốn khác hẳn nhau.

Như Radek thì trước sau cũng chỉ là một con cờ thí, như nhiều con cờ thí khác trong 3 vụ án lớn. Và Yadoga là một týp chỉ chuyên cong lưng và sát nhân.

Chính Yagoda, thủ phạm của cả triệu sinh mạng con người vẫn tin tưởng ở sự bảo vệ, che chở của người anh lớn, cấp trên vĩ đại. Đến phút chót hắn vẫn không ngờ Lãnh tụ có thể bỏ rơi. Trong phiên xử hắn tưởng tượng như đích thân Stalin tới chứng kiến, theo dõi vụ án nên mới ngước mắt lên cầu khẩn, van vỉ người: "Xin cho tôi một ân huệ , Tôi chỉ còn trông đợi ở người, Vì người tôi đã làm 2 con kênh lớn". Một nhân chứng kể lại rằng đúng vào lúc Yagoda kêu nài thì trên cửa sổ lâu đài hai ngó xuống phòng xử, sau bức màn the lờ mờ bỗng có ánh diêm bật lên. Thấp thoáng có bóng người lù lù ngồi hút píp.

(Đây là một cách kiểm soát hữu hiệu mà cũng là trò chơi thú vị của mấy đấng quân vương Đông phương. Đại sảnh đường Cơ Mật Viện nào chẳng có một cánh cửa sổ lầu ngó xuống, có rèm che khuất bóng tối đằng sau. Mỗi lần Cơ Mật Viện nhóm họp, các đại thần ngước nhìn lên chẳng thấy bên trên thấp thoáng bóng người: phải chăng đích thân Quân vương đang từ cao ngó xuống?)

Stalin rất khoái những trò Đông phương nên tôi tin bóng người hút píp bữa đó chính là người thiệt. Tại sao người không đến đại sảnh Tháng Mười để tận tai tận mắt thưởng thức vở kịch hiếm có để tạo chút cảm hứng?

Sau nữa phần đông còn không ngờ chỉ vì lâu nay quen đánh giá quá cao những con người lãnh tụ, từng có quá khứ vĩ đại, oai hùng. Phải là những siêu nhân, Bukhari, Zinoviev, Kamenev, Pyatakov, Smirnov! Những thằng dân thường, tinh thần yếu đuối, thấy chết là run thì tự thú, tự tố cáo lẫn nhau trước Toà là thường quá rồi. Nhưng họ, họ là những lãnh tụ Bôn-xê-vích cao cấp!

*


Vả lại chúng ta quen nhìn các bị cáo như những nhân vật khác thường hơn người. Làm sao có thể ngờ họ có thái độ hèn hạ trước Toà, tố cáo lẫn nhau tầm thường như vậy? Phải chi họ là dân thường, tinh thần yếu nên chịu không nổi đành bị khuất phục đi. Đằng này họ là Bukharin, Zinoviev, Kamenev, Pyatakov, I.N. Smirnov, toàn cỡ lãnh tụ lớn không!

Hiển nhiên những nhà đạo diễn vở kịch cũng biết vậy. Cũng phải chuẩn bị chế độ, lựa chọn cẩn thận, chớ không phải dễ dàng như phiên xử "Đảng Kỹ thuật" muốn chọn ai thì chọn. Những tên tuổi dỡ Bukharin, Zinoviev, quần chúng quen mặt, quen tên quá mất rồi! Họ muốn thấy đích danh, đích thực trước vành móng ngựa.

Trong số những nhân vật lớn biết sắp bị thanh trừng, có một số sáng suốt, cương quyết thà chết trước chớ không để bị điệu ra Toà. Thà họ tự sát! Đó là Skrypnik, Tomsky, Gamarnik, những người không sợ chết. Chỉ những đấng không dám chết mới chịu để bị bắt. Với bọn cầu sống thì tròng sợi dây vô cổ quá dễ. Cũng có một số không dám chết ngay nhưng lọt vào phòng Điều tra đã nhận ra sự thực nên chống đối lại, thà chết trong âm thầm chớ không chịu chết nhục. Nếu họ chịu ra Toà ắt hẳn sẽ thêm một tên: Rudzutak, Postyshev, Yenukidze, Chubar, Kosior và cả Krylenko nữa!

Do đó phải hiểu rằng ra Toà là những týp yếu nhất trong số những người yếu. Hơn nữa là nhà đạo diễn tối cao còn biết đích chỗ yếu nhất của từng người một để ra tay là phải gục. (Đó là một trong những biệt tài đã đưa Stalin lên tuyệt đỉnh danh vọng). Trong đám nào còn có ai cao cấp, có tên tuổi và có tài bằng Bukharin? Chỗ yếu nhất của đồng chí Bukharin thì Stalin đã nhận ra và kiềm chế được từ lâu, không có gì để e ngại nên đối với nhà lý thuyết xuất chúng, thông minh tuyệt vời này đạo diễn có quyền biểu diễn một màn mèo vờn chuột, tha hồ tung lên hạ xuống,

Sáng tác cụ thể nhất của Bukharin còn gì bóng bẩy, tuyệt vời bằng Bản Hiến Pháp Liên bang Xô Viết, đọc lên nghe thực hùng hồn mà hoàn toàn vô dụng? Viết xong bản văn Hiến pháp, cây lý thuyết Bukharin ắt phải hứng khởi tinh thần, muốn bốc lên tận chín tầng mây. Cỡ chú Koba [9] sao viết nổi một hàng! Chú mày lăm le độc tài độc tôn thì phải có bản Hiến pháp này cho chú mày coi chừng. (Chưa biết chú Koba có ngán không, chỉ thấy cha đẻ ra bản Hiến pháp đút đầu vô rọ!)

Nghe nói Bukharin vốn không ưa gì Kamenev và Zinoviev nên sau khi họ bị dính vào vụ án ám sát Kirov chính Bukharin còn bảo mấy đàn em thân cận: "Thì ra thế! Hai thằng ấy ghê lắm, chúng dám lắm, Chắc phải có một cái gì bên trong chớ nước này có ai vô tội mà bị bắt bao giờ?".

(Vẫn biết tâm lý chung thời đó là "thằng nào chết thây kệ, miễn không phải tao là được", nhưng không lẽ tới 1935 rồi mà "cây lý thuyết" của Đảng còn ngây thơ vậy?)

Mùa hè 1936, khi Kamenev và Zinoviev trở ra Toà lần thứ hai, Bukharin còn thong dong đi săn thú trong rặng Thiên Sơn. Có hay biết gì? Về đến Frunze, đọc mấy tờ báo mới hay cả 2 vừa bị lên án tử hình và họ lại cung khai vô cùng tai hại cho "lý thuyết gia". Phản ứng của Bukharin thế nào? Đánh điện văn phản đối sự thanh trừng dã man, tố cáo cả một âm mưu tàn độc đang hình thành. Đâu có? Bukharin vội gởi khẩn điện lên cho chú Koba, yêu cầu tạm hoãn hành quyết để ông ta về đối chứng cho rõ trắng đen! (Khốn nạn Stalin chỉ cần cung khai, tự thú. Đối chứng làm chi cho thêm phiền?)

Tuy nhiên vẫn chẳng ai đả động gì đến Bukharin hết. Dù mất chức chủ nhiệm Izvestiya, mất hết chức vụ, công tác Đảng, vẫn tiếp tục ở ngoài nửa năm trong Điện Cẩm Linh, ở ngay dinh Potesnhy của Poter Đại đế. Dù bị giam lỏng ông ta vẫn đi nghỉ mát và ra vô lính gác vẫn bồng súng chào như không có gì xảy ra. Tuy nhiên chẳng bạn bè nào dám lai vãng, kêu điện thoại tới và 3 tháng liền Bukharin hì hục viết tâm thư cả mớ để gởi chú Koba, Koba thân mến.

Cho đến lúc ấy Bukharin vẫn muốn gặp, vẫn trọn tin ở Stalin, dù không nhận được một lá thư phúc đáp. Chú Koba còn mắc quá nhiều công chuyện mà quan trọng nhất là đạo diễn cho xong buổi của đàn anh Bukharin thân mến. Bao nhiêu lần dượt thử rồi, kể như xong rồi nhưng vẫn phải biết trước đàn anh "đóng tuồng" thế nào chớ. Đàn anh có một số thủ hạ tâm phúc và đệ tử ruột – dĩ nhiên chẳng có bao nhiêu – đã triệt bằng hết mà có lên tiếng bênh vực một hồi. Môn phái của đàn anh vừa dựng, chưa đứng vững nổi thì đàn em, môn đồ lần lượt bị tỉa rụng hết đành đứng khoanh tay ngó. Còn chức chủ nhiệm Izvestiya còn có chân trong Trung ương Đảng mà thấy Kamenev, Zinoviev bị thủ tiêu công khai mà vẫn ngậm miệng làm lơ và còn chấp nhận kia mà. Nhớ lại có lần Đại hội Đảng, Bukharin và một nhóm nữa vừa ngo ngoe có tư tưởng chống đối, mới thử doạ trục xuất khỏi Đảng là anh nào anh nấy đã xanh mặt, xin rút ý kiến tức khắc!

Ấy đấy, còn tự do và còn nắm giữ chức vụ cao, quyền hành lớn mà cả bọn muốn bẻ sao cũng còn phải chịu vậy, thì để nằm một hồi ở Lubyanka, cho bọn chuyên viên "chiếu cố" chu đáo từ miếng ăn giấc ngủ cho đến từng bộ phận trong cơ thể thì còn hơi sức, tinh thần đâu mà chống đối? Đứa nao dám đóng kịch khác đi, không răm rắp tuân theo lệnh đạo diễn? Còn chờ gì không tổng dượt lần chót để sửa soạn kéo màn?

Thì ra chỗ yếu nhất của Bukharin mà Stalin đã nắm vững được là chỉ sợ bị trục xuất khỏi Đảng, thiếu Đảng, không có Đảng. (Mà Stalin đã đạt được tới mức "Đảng là ta, ta là Đảng"). Cũng như một số đồng chí thời đó, Bukharin không có Đảng không sống nổi. Họ không có lý tưởng! Nên họ làm gì có lập trường, tư tưởng cá nhân đích thực để đứng hẳn lên chống đối. Trước khi họ dám đứng lên Stalin đã đặt họ vào vị thế đối thủ và đốn hạ bằng hết rồi. Trong khi đó họ chỉ mong sao không bị trục xuất khỏi Đảng là may, thậm chí không dám làm gì có hại cho thanh danh Đảng nữa.

Trong vở kịch, đạo diễn đã dành cho Bukharin vai chánh nên càng phải dành thời giờ chuẩn bị cho chu đáo đã đành mà còn phải tập cho vai chánh thuộc vở nữa. Phải để Bukharin có dịp công xuất Âu Châu từ cuối năm trước, tiếng là để tiếp nhận các di cáo của Marx (để làm công việc này còn ai xứng đáng bằng cây lý thuyết của Đảng?) nhưng nếu cần buộc tội "có những tiếp xúc khả nghi" rộng rãi thì còn gì bằng? Huống hồ có dịp xuất ngoại công du tự do một thời gian càng làm ông lý thuyết gia nôn nóng ham muốn trở lại vai trò lãnh tụ!

Với ngần ấy biến cố, hết lên lại xuống, nào bị tố cáo dính vào những âm mưu phản động, nào tình trạng giam lỏng, cô lập cứ kéo dài hoài, ý chí Bukharin có là sắt thép cũng phải yếu xèo. Thời kỳ hành hạ "nguội" này còn có ép phê hơn áp lực trực tiếp của Lubyanka nhiều (tuy nhiên ngọn đèn Lubyanka vẫn được sử dụng đích đáng trọn một năm liền).

Để thử thách, có lần Kaganovich đã triệu Bukharin tới văn phòng, cho đối chất với Sokolnikov, với sự hiện diện của đông đủ cán bộ Cheka cao cấp, để nghe Sokolnikov cung khai về nhóm hữu khuynh song hành với nhóm Trotsky và về những hoạt động mật của chính Bukharin. Đích thân Kaganovich thẩm cung Sokolnikov một cách hung hăng, sốt sắng và sau đó đuổi về để nhẹ nhàng bảo Bukharin: "Thằng khốn nạn, mở miệng ra là thấy dóc láo!"

Báo chí cứ công kích, Bukharin chỉ lo tiếp xúc với Trung ương Đảng, viết thư cho "chú Koba" yêu cầu có thông cáo chính thức lên tiếng giải oan giùm. Để trấn an ông ta, viện Chưởng lý cũng cho ra một thông cáo "không có bằng chứng nào cụ thể về những sự tố cáo Bukharin có những hoạt động phản động".

Bukharin cẩn thận đến độ Radek gọi điện thoại tới cũng phản đối: "Anh cũng đang bị nghi ngờ như tôi. Điện thoại, thăm viếng làm gì thêm phiền phức?". Nhưng cả hai còn làm tờ Izvestiya, còn có nhà ở cạnh nhau nên Radek mò sang chơi buổi tối, tâm sự rằng: "Mai đây nếu có chuyện gì, và nếu tôi có cung khai điều gì xin đồng chí hiểu cho chẳng phải tự ý tôi muốn. Theo tôi thì đồng chí không bị dính vào một vụ nào đâu mà lo, đồng chí đâu có liên hệ với nhóm Trosky?"

Theo Bukharin thì Radek nói đúng. Rất có thể họ không truy tố, không trục xuất khỏi Đảng. Xưa nay ai chẳng biết Bukharin không chấp nhận nhóm Trotsky, những thằng dám ly khai khỏi Đảng, đứng riêng một khối và có sai lầm cũng vẫn đứng với nhau.

Ngày đại lễ tháng 11 có duyệt binh ở Công trường Đỏ, Bukharin đưa vợ đi coi trên khán đài dành cho tân khách (lần cuối cùng Bukharin xuất hiện ở Công trường Đỏ). Làm gì có giấy mời phải xuất trình thẻ nhà báo! Bỗng đâu có một quân nhân võ trang tiến tới. Bukharin đã xanh mặt: không lẽ họ tới bắt, và bắt ngay ở đây trong ngày này? Không phải, gã quân nhân bước tới chỉ để chuyển lại một lời chào mừng của chú Koba(!). Hắn đứng nghiêm chào và nói:

"Đồng chí Stalin ngạc nhiên thấy đồng chí còn ngồi đây. Chỗ của đồng chí bây giờ phải là ở nhà mồ!"

Sáu tháng cuối cùng của Bukharin cứ bị vờn như vậy hoài! Ngày 5 tháng 12 bản Hiến pháp do ông ta soạn thảo được long trọng công bố, mệnh danh Hiến pháp Stalin cho mọi thế hệ mai sau. Cũng tháng đó Trung ương Đảng nhóm họp Đại hội để "trình diện" Pyatakov, bị đánh sút hết răng, không ai nhận ra. Sau lưng bị can đứng một đám Cheka, đàn em Yagoda (vì bản thân Yagoda cũng sắp phải "đóng tuồng" mà). Họp Trung ương Đảng phải có mặt Bukharin (và Rykov) ở hàng ghế đầu, để nghe bị can "tự ý thú nhận) và cung khai. Bản thú tội của Pyatakov buộc Bukharin và Rykov dữ dội, gắt gao hơn bao giờ hết!

Vì tật lãng tai nặng, Ordzhonikidze phải bắc loa tay nghe cho rõ để hỏi gặng lại bị can: "Nghe đây đồng chí Pyatakov, đồng chí hoàn toàn tự ý cung khai, không bị ép buộc gì đấy chớ?" [10]

Pyatakov ấp úng: "Dĩ nhiên, hoàn toàn tự ý". Sau đó hắn loạng choạng, đứng hết nổi. Lợi dụng lúc nghỉ họp, Rykov khẽ rỉ tai Bukharin:

"Bây giờ tôi mới biết, Tomsky lì thật. Hắn biết trước từ tháng 8 nên thà tự sát quách cho rồi. Còn tụi mình là những thằng hèn mới ráng sống tới ngày giờ này".

Đến lượt hắn đăng đàn thì Kaganovich hăng lắm. Hắn không ngần ngại lớn tiếng mạt sát vì cho đến giờ vẫn muốn tin đàn anh Bukharchik vô tội lắm, nhưng tin hết nổi! Rồi Molotov cũng thế. Nhưng Stalin thì khác:

"Dầu sao đi nữa, tôi cũng thấy tội trạng Bukharin chưa có gì minh chứng cụ thể. Rykov thì có thể nhưng Bukharin tôi tin là không".

Ôi, còn gì cảm động bằng! Vừa mới xuống tinh thần Bukharin lại lên cái vù, Nhưng mấy ngày sau, ngày nào cũng có những người của Cơ quan mang tận nhà Bukharin đọc cho nghe nhiều bản cung từ. Nào của Radek, nào của nhóm cựu học viên Viện Giáo sư Đỏ, bản nào cũng buộc tội "cây lý thuyết" của Đảng, buộc đích danh. Có điều Cơ quan cho mang tới nhà đọc để cáo tri cho ông Ủy viên Trung ương Đảng Bukharin biết vậy thôi chớ đâu phải để buộc tội.

Số cung từ mỗi ngày một nhiều, một nặng. Họ không đọc nữa mà để lại cho nhà ông Ủy viên có thời giờ coi cho rõ! Mỗi lần có thêm một mớ, Bukharin lại gạt qua cho vợ [11] "Mình đọc đi. Tôi không đọc nổi nữa!". Những lúc đó Bukharin ưa nằm vật ra giường, úp mặt xuống gối. Chán chường hết mức, nhưng tự sát thì không! Nếu muốn chết thì quá dễ vì lúc nào trong nhà chẳng giữ tới 2 khẩu súng lục.

Thế rồi lại thêm một phiên toà công khai nữa. Một số phản động lại lãnh án tử hình. Nhưng Bukharin vẫn được chừa ra, không ai đả động tới! Bukharin khác, vì Stalin chẳng bảo: "Tôi tin là Bukharin không" đó sao?

Nhưng tình hình vậy thì sống sao nổi? Đầu tháng Hai 1937 Bukharin đành liều làm áp lực với Trung ương Đảng bằng cách tuyên bố tuyệt thực để yêu cầu Trung ương Đảng nghị xét một lần chót, nếu vô tội thì chính thức tuyên cáo để chấm dứt mọi dư luận mập mờ. Cố nhiên Bukharin nhịn ăn thật và vẫn có thư riêng gởi chú Koba nên Trung ương Đảng triệu tập phiên họp đặc biệt để bàn về (1) tội ác của nhóm hữu khuynh (2) thái độ chống Đảng của đồng chí Bukharin, bằng chứng là vụ tuyệt thực.

Bukharin bối rối. Vậy là mình, chống Đảng thiệt sao? Mặt mũi trắng nhợt, râu mọc tua tủa không khác một thằng tù, Bukharin ráng lết tới dự họp. Chú Koba thân mật hỏi: "Bộ đồng chí điên hay sao, mà nghĩ vớ vẩn", bèn than thở:

"Đành vậy, tôi biết làm gì khác, họ tố cáo tôi, họ buộc tội tôi ghê quá mà? Họ rõ ràng muốn trục xuất tôi khỏi Đảng!"

"Đừng nghĩ bậy! Chẳng ai trục xuất đồng chí khỏi Đảng!"

Chú Koba nhún vai cười, cho rằng "Đó là cả một sự vô lý!". Làm gì Bukharin không yên chí tin tưởng? Trước mặt đông đủ Đại hội, bèn có lời tự giác. Nếu tuyệt thực là chống Đảng thì xin hủy bỏ ngay, đâu dám tiếp tục nhịn ăn nữa? Về nhà cụ thể hoá quyết định bằng cách bảo bà vợ trẻ: "Mình cắt cho tôi khoanh xúc xích đi. Khỏi nhịn nữa! Koba xác nhận không bao giờ có vụ trục xuất". Đúng vậy, ý kiến Stalin mới là quyết định. Kaganovich hay Molotov [12] công kích thì ăn nhằm gì. Hai thằng quá khích, dám có ý kiến khác! Stalin đã nói vậy mà trước Đại hội, chúng cứ buộc tội tay sai Phát xít, một hai đòi bắn.

Sau này có lẽ tinh thần xuống đến cực điểm Bukharin mới để thì giờ gò gẫm lá "Tâm Thư Để Lại Trung Ương Đảng Ngày Sau". Vì tính cách "chúc thư" trối trăng nên lá thư được lưu giữ đến bây giờ cho cả thế giới cùng đọc. Có điều nó không làm rúng động nền móng toàn thế giới mà Trung ương Đảng ngày sau cũng chẳng ai buồn lưu ý, dù đó là chúc thư để lại cho đời của cây lý thuyết cừ khôi của Đảng! Bất quá chỉ thêm một tiếng kêu than với Đảng của một người vì nặng bầu nhiệt huyết với Đảng mà vong mạng. Bức tâm thư Bukharin còn xác định thêm một điều: ông ta hoàn toàn chấp nhận tất cả những gì xảy ra trước 1937 và cho tới 1937 luôn. Nghĩa là Bukharin công nhận là hợp lý những phiên toà phường tuồng trước đó cũng như toàn bộ hệ thống ngục tù bẩn thỉu, những ống cống vĩ đại từng cuốn đi những đợt sóng người khổng lồ.

Công nhận vậy thì có bị cuốn vô guồng máy ngục tù còn oan uổng nỗi gì? Con người đồ sộ vạm vỡ, khoẻ như đô vật là Bukharin sau cùng bị vật ngã để rồi bộ máy Lubyanka nghiền nát [13] .

Xét ra Bukharin biết trước vụ thanh trừng từ lâu, bị hành hạ "nguội" đến chán chê nhưng không hề bị tra tấn, đánh đập và lại là "cây lý thuyết" cừ khôi của Đảng, vậy lập trường nhất định phải vững hơn Yakubovich năm 1931 mới đúng. Sự thực lại trái ngược. Ông ta chịu đựng thua Yukabovich nhiều chỉ vì lẽ Yukabovich không thiết sống nữa trong khi Bukharin còn sợ chết, không dám chết. Nếu Yukabovich từng được Chưởng lý Krylenko thuyết phục hợp tác trong vụ Tổng bộ Men-xơ-vích nhân danh Đảng, nhân danh tình đồng chí (mình cùng đảng viên Cộng sản với nhau mà) thì Bukharin cũng bị đồng chí Vyshinsky "xỏ mũi" quá dễ dàng! Dù có là một "cây lý thuyết" trụ cột của Đảng, Bukharin cũng bị Vyshinsky dẫn dắt từ nhìn nhận có hành động đối lập trong nội bộ Đảng đến chống Đảng và đã chống Đảng là có thể sắp đặt hay nghĩ đến những hành động phá Đảng, phản quốc (chẳng hạn như làm gián điệp cho ngoại quốc, sát nhân, phá hoại). Tất cả tội trạng của Bukharin chỉ dựa trên lý thuyết "những gì có thể xảy ra rất có thể đã được làm rồi" nghĩa là chấp nhận những giả thuyết do Vyshinsky nêu ra là những tội ác mà chính mình đã phạm rồi.

Vyshinsky đã nói thẳng như sau:

"Nếu đồng chí đã nhìn nhận như vậy thì xin báo trước để đồng chí biết nếu đồng chí phủ nhận hay nói khác đi trước phiên toà thì phải hiểu rằng đồng chí chỉ làm lợi cho bè lũ đế quốc tư bản và có hại cho thanh danh của Đảng. Nếu trường hợp có xảy ra thì đồng chí có muốn chết nhẹ nhàng cũng không được! Ngược lại nếu mọi việc êm xuôi thì dĩ nhiên chẳng ai bắt đồng chí chết làm gì. Chúng tôi sẽ có cách thu xếp kín đáo để đưa đồng chí ra đảo Monte Cristo ở đó đồng chí tha hồ tham khảo, nghiên cứu."

"Nhưng trong mấy vụ án trước những người nhận tội đều bị xử bắn cả mà."

"Họ khác, đồng chí khác chớ. Vả lại chúng tôi cũng có bắn cả đâu. Chỉ tuyên án, các báo chỉ đăng vậy thôi. Thực tế một số vẫn được sống."

Những gì đã xảy ra đúng hệt như ý muốn của nhà đạo diễn lớn. Chỗ yếu nhất của Bukharin đã nắm vững trong tay thì làm gì "cây lý thuyết" chẳng ngoan ngoãn cung khai trước Toà? Khai ngược lại bè lũ đế quốc tư bản, phá Đảng phản quốc sao? Bề nào chúng ta cũng là Đảng viên Cộng sản mà?

Lịch sử quả là một cuộc tái diễn. Năm 1937 cũng như 1922, 1924 vậy thôi. Điệp khúc Đảng ru ngủ, tai hại đã khuất phục hết, bắt cúi đầu hết. Phải chi bọn họ dám có tư tưởng riêng, dám có lập trường độc lập để ngạo nghễ ngửng mặt, hét lớn vào mặt đạo diễn và bọn tay sai rằng:

"Không, chúng tôi không làm Cách mạng với các anh! Chúng tôi không đồng bào với các anh! Chúng tôi không Cộng sản với các anh!"

Chỉ cần một người đủ can đảm hét lớn lên như vậy là tất cả công trình dựng vở sẽ đổ sụp, những mặt nạ sẽ rã rời rớt xuống, ông đạo diễn chắc chắn sẽ chạy tuốt ra bằng cửa sau và đám tay sai sẽ trốn chui trốn nhủi xuống lỗ hết.

*


Với tuồng như thế là hạ màn thành công mỹ mãn. Có thế nói là vào hạng nhất nhưng dù sao cũng vẫn tốn của, tốn công. Do đó nhà đạo diễn không muốn mở những phiên toà công khai ở Đại sảnh Tháng Mười trụ sở Tổng công đoàn Mạc Tư Khoa nữa. Thay vào đó phải đưa toà án về cấp Quận cho gần quần chúng, để xử bọn phản động ở khắp nơi trên toàn quốc. Vấn đề là phải tìm cho ra "đạo diễn" chân tài, dựng vở không chu đáo đâu được?

Những phiên toà địa phương mở màn từ 1937, nhà "đạo diễn" lớn đã chuẩn bị chu đáo rồi. Nhưng sự thực ít ai ngờ là chỉ sau một vài vụ điển hình toàn bộ chương trình ngưng ngang: thiên tài đến như Stalin cũng lúng túng đành bó tay luôn.

Dưới đây là một phiên toà tiêu biểu. Nếu vụ án Bukharin, Kamenev, Zinoviev có tính cách trung ương bao nhiêu thì vụ án Kady có tính cách địa phương bấy nhiêu, xét vì nói là quận lỵ mới toanh của tỉnh Ivanovo địa đầu xa xôi, vả lại quận Kady chỉ mới được thành lập vào cuối năm 1934. Ngày đó nhà nước cũng đã có ý định coi Kady như một thí điểm để mang ánh sáng của văn minh khoa học tới một miền hoang vu, dân chúng nghèo nàn chậm tiến nhất nước. Cán bộ được gởi đến xây dựng Kady do dó, không phải thứ cán bộ quận thông thường mà toàn là thứ trung kiên, có thành tích hoạt động lỗi lạc ở nhiều địa phương khác gởi tới.

Được Trung ương đặc phái tới Kady cán bộ có hăng say phục vụ đến đâu cũng phải lắc đầu: địa thế xa xôi hiểm trở, dân nghèo mạt, mọi phương tiện thiếu thốn. Cán bộ thiếu quỹ phát triển, dân mệt mỏi vì chính sách thu mua.

Đại diện Đảng ở địa phương là Quận ủy Fyodor Ivanovich Smirnov, một cán bộ có tư cách, ngay thẳng. Trưởng chi Nông vụ là Stavrov, một nông dân thuần túy, chăm chỉ, tương đối có học nên biết điều khiển trại ruộng. Đó là thành phần mệnh danh Intensivniki, nông dân có tư sản nhưng tiến bộ nên chưa bị thanh trừng như bọn kulak. (Có thể là Stavrov sớm giác ngộ, vô Đảng sớm nên chưa bị đốn như bọn nông dân phản động Kulak!) Sự thực ê kíp Smirnov – Stavrov muốn phục vụ tốt, biết làm việc nên nông dân địa phương chắc chắn có phận nhờ, nếu không có những chỉ thị ngược đời, chỏi nhau từ trung ương gởi xuống bắt thi hành nghiêm chỉnh. Họ còn dám đề nghị lên cấp tỉnh Ivanovo, yêu cầu giảm bớt mức thu mua ngũ cốc vì nếu nhà nước buộc phải bán tới số thì dân Kady sẽ kiệt quệ. (Đòi giảm mức thu mua ngũ cốc là một đề nghị quá liều lĩnh vào thập niên 1930. Cũng may Kady còn là một quận mới, đang phát triển nên cán bộ còn được phép đưa sáng kiến!)

Ê-kíp Smirnov-Stavrov gặp khó khăn khi ông phó Quận ủy Varsy Fyodorovich Romanov lợi dụng lúc Quận ủy Smirnov đi công tác, đã vận động Đảng ủy quận Kady lên án Chi trưởng Nông vụ Stavrov, khép tội có khuynh hướng thân Trotsky kềm hãm sự phát triển của Quận!" (Romanov áp dụng đúng chính sách Stalin ở Trung ương Đảng: Muốn hạ bè lũ đối phương phải tỉa dần từng thằng một. Thằng yếu hạ trước còn thằng khoẻ bị chặt vây cánh hạ sau cũng không khó!)

Có thể Stavrov đã bị Romarov hạ ngay trong mấy phiên họp Đảng ủy đầu tiên. (Khốn nạn, tội có tư tưởng thân Trotsky thì cãi sao nổi! Càng cãi càng "lòi bộ mặt phản động") nếu hắn không được yểm trợ tích cực của Vasily Grigoryevich, Viasov, Quản đốc Hợp tác xã Tiêu thụ Quận Kady. Phải công nhận là Vlasov là mẫu cán bộ ngay thẳng, có tài điều khiển cơ sở và biện thuyết, dù không có vốn văn hoá cao. Trước Đảng ủy Quận, Vlasov đã hăng hái bênh vực Stavrov, đưa nhiều bằng chứng cụ thể để yêu cầu trục xuất Romanov vì tội mạ lỵ. Kết quả Romanov chỉ bị cảnh cáo nặng. Hắn đe doạ "Thế nào tôi cũng làm tới. Đảng sẽ điều tra, để lột mặt nạ bằng hết bọn thân Trotsky".

Chưa biết Đảng có điều tra thật không nhưng mấy ngày hôm sau cụ thể là Stavrov bị chi NDVD Kady câu lưu ngay và một tháng sau đến phiên Univer, Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Quận. Thế là Romanov được đề bạt vào chức của Univer, một người gốc dân Estonia. Bị áp giải lên Ty NKVD Ivanovo, lập tức Stavrov có bản tự thú: Không những hắn thân Trotsky mà còn có chân trong một tổ chức khuynh hữu đang thành hình trong quận Kady. Sau khi lập xong bản tự thú thì Stavrov bỏ mạng trong khám NKVD Ivanovo nhưng căn cứ vào lời khai của hắn, trọn bộ tổ chức khuynh hữu ở quận Kady bị câu lưu mà dĩ nhiên Quận ủy Smirnov phải là Chủ tịch. Cán bộ thân thiết với Smirnov là bị bắt hết, ví dụ như Trưởng Chi Tài chính Saburov.

Nếu Stavrov đã nát xương trong khám NKVD, Romanov leo lên chức Chủ tịch Ủy ban Quận thì kẻ bênh vực Vlasov thoát sao nổi? Ngoài vụ làm mất mặt đồng chí Công tố Quận Rusov (như đã thuật ở Chương 4) hắn còn phạm tội với đồng chí Krylov Trưởng chi NKVD Quận vì dám bênh vực, che chở cho 2 nhân viên thuộc cấp dù làm việc đắc lực trong Hợp tác xã nhưng có tên trong sổ đen NKVD vì thành phần giai cấp.

Vì Vlasov có uy tín lớn ở địa phương nên NKVD chưa bắt vội. Hãy hăm doạ, làm tiền đã! Ông Phó NKVD Sorokin tới rỉ tai Vlasov muốn được để ra ngoài vụ phải đóng góp một số nhu yếu phẩm trị giá 700 đồng rúp. Có đời nào một cán bộ trung kiên như Vlasov chịu hối lộ cho bọn NKVD ăn bẩn 2 tháng lương? Ngay hôm sau đồng chí Krylov nhân danh quyền Quận ủy tới yêu cầu Vlasov thu góp tài liệu sẵn để nhóm họp Đảng ủy Kady sẽ đứng lên tố cáo "những hoạt động phá hoại của phe nhóm Smirnov-Univer đối với Hợp tác xã". Đời nào Vlasov chịu mắc bẫy NKVD. Biết có hoạt động phá hoại cơ sở mà không báo ngay cho NKVD, đợi lúc này mới thuyết trình là đồng lõa phá hoại sao? Hắn nói thằng với Krylov:

"Sao đồng chí không thuyết trình, mà lại là tôi? Đồng chí không nắm vững vấn đề, không phải địa hạt chuyên môn? Nếu vậy thì NKVD bắt người, không có bằng chứng gì cụ thể sao?"

Buổi họp Đảng ủy Quận Kady vậy là bất thành. Một đêm, viên Kế toán Hợp tác xã và người phụ tá bí mật tới nhà Vlasov, mang theo số tiền khá lớn là 10 ngàn rúp và bảo hắn rằng:

"Vasily Grigoryevich, bạn hãy lo thân bạn đi. Tình hình coi bộ không xong. Cầm lấy số tiền, đi khỏi Kady ngay tối nay. Đừng chần chờ tới mai."

Đời nào Vlasov chịu bỏ trốn hèn hạ vậy? Hắn đâu có làm gì trái phép? Tại sao phải sợ chúng?

Quả nhiên sáng hôm sau tờ nhật báo của quận Kady đã có bài tố cáo những sai lầm nghiêm trọng của Hợp tác xã (thời buổi 1937 thì báo chí với NKVD luôn luôn đi đôi thật chặt chẽ!) Ngay tối hôm đó Quận ủy Kady nhóm phiên đặc biệt để mời đồng chí Vlasov tới đích thân giải thích. Nhiều sai lầm của Vlasov được lôi ra mổ xẻ gay gắt. Đêm hôm đó ông Chủ tịch được về nhà thong thả nhưng sáng sớm NKVD đã có lệnh câu lưu.

Vlasov thuộc týp thẳng thắn, cứng rắn và ngang ngược. Buộc hắn trả lại thẻ đảng viên đâu được. Đã có quyết định trục xuất của Trung ương gởi tới Kady đâu. Truất chức nghị viên quận cũng không được vì hắn là thành phần dân cử. Nếu muốn bắt hắn đi phải sử dụng võ lực: Vlasov được bọn nhân viên NKVD chiều ý ngay!

Dù sao Vlasov cũng là nhân vật có uy tín ở địa phương. Nhưng NKVD đâu cần, sẵn sàng áp giải ông Quản đốc Hợp tác xã Quận đi như bất cứ một thằng tù nào. Người phản đối hăng nhất là gã cán bộ phụ trách quầy hàng Hợp tác xã lập tức bị vô sổ đen, trục xuất khỏi Đoàn Thanh niên Cộng sản địa phương, mất luôn chức Ủy viên Quận!

Dĩ nhiên Vlasov bị đưa lên nằm khám NKVD Ivanovo để lập thủ tục truy tố. Hắn không phải đợi lâu vì hồ sơ trọn tổ chức đã lập xong, chỉ còn đợi một mình hắn. Bị thẩm cung vỏn vẹn 2 lần, tang chứng buộc tội chỉ có bản báo cáo của Hợp tác xã Kady và bài báo đăng hôm trước. Không hề có nhân chứng, Vlasov bị ra Toà vì 3 tội:
  1. Quản trị Hợp tác xã sai lầm

  2. Không giữ đủ số nhu yếu phẩm thường trực phải có ở trong các kho hàng Hợp tác xã

  3. Tự ý để tích lại trong kho một số dự trữ quá thừa về muối
Tội trạng Vlasov chỉ có thế nhưng trái hẳn với lề lối làm việc Hội đồng An ninh Đặc biệt in ra án thật nhặm lẹ, dễ dàng, vụ án Kady có lệnh phải tổ chức rình rang để làm gương. Tất cả các bị cáo đều nằm khám NKVD Ivanovo về Kaneshma (toa xe Stolypin!) rồi đi gần 100 cây số đường rừng bằng xe hơi về đến quận Kady. Trên 10 chiếc xe hơi, chạy thành đoàn về một quận hoang vắng như Kady thì phải là một biến cố trọng đại!

Đích thân đồng chí Klyugin, Chánh sở Đặc biệt chống Phiến loạn Ty NKVD phụ trách công voa với 40 công an xung phong chĩa lưỡi lê, súng cầm tay. Phải dàn cảnh để khủng bố dân địa phương luôn thể mà. Toà án chưa làm xong, chưa có điện nhưng dân Quận Kady được hướng dẫn đi coi xử án rất đông từ ngày 24 đến 27 tháng 9. Một quận lỵ hẻo lánh, xa xôi như quận Kady thì phiên toà phải biết là long trọng.

(Trong bản in, từ trang 553 đến trang 568 là 28 phụ bản hình, từ phụ bản 1 đến 22 có chú thích hình, phần còn lại thì không. Dưới đây là thứ tự của các chân dung và chú thích được in trong cuốn sách - talawas)
  1. Năm 1929 lãnh tụ Đệ Tứ quốc tế Leon Trotsky bị Stalin trục xuất khỏi Liên bang Xô Viết. Năm 1974, đến lượt nhà văn Aleksandr I. Solzhenitsyn bị lên án "phản bội", vĩnh viễn lưu đày ngoại quốc.

    Ngày chiếc phản lực cơ thương mại AEROFLOT thả công dân bị truất quyền Solzhenitsyn xuống phi trường Frankfurt (Tây Đức). Sau khi nhận một đoá hồng đỏ, nhà văn hôn tay cô chiêu đãi và lên chiếc Mercedès tới cư ngụ tạm nơi nhà ông bạn văn Đức Heinrich Böll, cũng giải Nobel. Hình chụp hai bạn già đứng bên nhau, ngày đầu tiên Solzhenitsyn bắt đầu cuộc "lưu đày hải ngoại" đau khổ vì bị THIẾN trên phương diện tinh thần.

  2. Những phút giây quý giá bên vợ con ở Mạc Tư Khoa. Nhờ sự can thiệp của nhà cầm quyền Tây Đức, chính phủ Nga cho phép Solzhenitsyn đi cho khuất mắt. Đã tưởng phải ra đi sống cô độc nhưng sau bao nhiêu ngày vận động bà Sotzhenitsyn và 2 con mới được phép xuất ngoại.

  3. Andrei Sinyasky: Nhà văn, nhà phê bình 48 tuổi. Cũng như đồng nghiệp Solzhenitsyn, vì để bản thảo lọt ra ngoại quốc ấn hành hắn bị 5 năm lao động cưỡng bách. Mãi 1971 mới được phóng thích và "cho phép" di cư. (Trường hợp chính thức bị nhà nước trục xuất cho tới bây giờ mới chỉ có 2 người: Trotsky và Solzhenitsyn). Hiện Sinyasky là giáo sư văn chương Nga Đại học đường Sorbone, Balê.

  4. Yuri Galanskov: Xuất bản lậu một tập san thuần túy văn nghệ, Galanskov lãnh 7 năm cải tạo. Bị chứng ung thư bao tử dằn vặt, chịu đựng không nổi chế độ lao tù, nhà thơ Galanskov từ trần ngay trên bàn mổ y viện trại giam năm 1972, vừa vặn 33 tuổi.

  5. Larisa Bogoraz: Nữ giáo sư Triết, 44 tuổi, tích cực chủ trương hoà bình, chống đàn áp. Năm 1968 biểu tình ở Công trường Đỏ Mạc Tư Khoa, chống vụ xâm lăng Tiệp Khắc. Sau 3 năm đi đày Tây Bá Lợi Á, Bogoraz hiện đã được trả tự do.

  6. Valery Ghalidze: 35 tuổi, được đào tạo về ngành Vật lý học nhưng đổi nghề luật gia chỉ vì phải để tâm nghiên cứu luật pháp Liên Xô khi tham gia một nhóm chống đối nhà nước. Năm 1972 được nhà nước cấp chiếu khán cho sang Mỹ nhưng Chalidze vừa đặt chân lên tân lục địa là bị tước quyền công dân Xô Viết. Ở lại Mỹ, sống về nghề viết báo từ đó.

  7. Pyotr Yakir: Chỉ vì là con trai nhà danh tướng Yakie mà cậu bé Pyotr bị Stalin cho lệnh giam từ hồi còn nhỏ, sợ cậu bé lớn lên không quên trả mối thù giết cha. Sau quãng đời niên thiếu cơ cực trong trại Cải tạo, Pyotr Yakir trở thành một sử gia lỗi lạc và mỗi khi có dịp, không ngần ngại tố khổ chế độ Xô Viết. Năm 1973 nhà chép sử 50 tuổi lại bị tống giam lần nữa và lãnh án biệt xứ tống khỏi Mạc Tư Khoa.

  8. Pyotr Grigorenko: Mang quân hàm cấp tướng Hồng quân, Pyotr Grigorenko là anh hùng quân đội, chiến sĩ xuất sắc trong Thế chiến II. Có tư tưởng tự do. Grigorenko trở thành chiến sĩ hoà bình, luôn luôn có mặt trong những cuộc tập họp đòi hỏi tự do. Tháng 5 năm 69 bị Mật vụ bắt vì nhất định đòi dự phiên toà xử bọn "đối lập phiến loạn"! Ở Lubyanka ra, ông già 66 tuổi Grigorenko bỗng điên khùng, bị tống vô Dưỡng trí viện ở luôn.

  9. Andrei Almarik: Nhà viết sử 35 tuổi bị chế độ Xô Viết tặng 3 năm lao động cải tạo tư tưởng vì cho ra cuốn sách tiên đoán tương lai hắc ám cho cả nước! Nhan đề sách: "Liệu Liên bang Xô Viết có tồn tại nổi đến 1984?".

    Hiện vẫn đang bị đi đày lãnh thêm bản án nữa vì "nằm trại Cải tạo" mà còn dám nhục mạ nhà nước!

  10. Zhores Medvedev: Nhà Sinh vật học lẫy lừng của Nga, chuyên khảo cứu về di-truyền-tính có thẩm quyền thế giới. Năm 48 tuổi, vì chống lại chính sách nhà nước giới hạn những giao thiệp, trao đổi với khối Tây phương mà bác học Medvedev bị tống vô nhà thương điên. Bị dư luận trong, ngoài nước ồn ào phản đối, chính phủ Xô Viết đành phải thả ra, cho phép sang Anh nghiên cứu, nhưng truất quyền công dân Xô Viết.

  11. Khung cảnh rùng rợn của một phiên toà Tối cao Mạc Tư Khoa những năm thanh trừng 1937-1938,

  12. Serge Kirov: Bị ám sát tháng 12 năm 1934 để Stalin có lý do khởi sự tổng thanh trừng.

  13. Lễ quốc táng Kirov ở Mạc Tư Khoa: khiêng linh cữu có đích thân Stalin, Vorochilov, Molotov.

  14. Zinpviev: Đảng viên kỳ cựu từ thời Lenin, lý thuyết gia lỗi lạc, song cũng không thoát khỏi pháp trường.

  15. Lev Kamenev và vợ đứng cạnh Krassine. Là em rể của Trotsky nên Kamenev có đầu hàng cũng bị xử bắn cùng Zinoviev.

  16. Smirnov: Bộ trưởng Hải quân cùng chịu chết trong vụ án Zinoviev – Kamenev. Có ai thoát trong vụ án số một này?

  17. Hung thần của những năm tổng thanh trừng, Chưởng lý Vyshinsky, người đòi xin nhiều cái đầu đồng chí nhất.

  18. Karl Radek: Kẻ trở cờ làm nổ vụ án cấu kết với Trotsky: thoát khỏi tử hình cũng không lạ!

  19. Sau Stalin còn ai, nếu không phải đồng chí Nicolas Boukharine thân thiết? Lý thuyết gia cừ, Bí thư Trung ương Đảng, chủ nhiệm tờ Sự Thật, song vẫn không thoát xử bắn.

  20. Krestinki: Kẻ duy nhất dám đối đấu Vyshinsky trước Toà song đành khuất phục sau 3 giờ bị tra tấn nát xương lồng ngực. Xử bắn.

  21. Rakovski: Cựu Đại tá Xô Viết ở Balê, 1 trong 3 kẻ may mắn (?) thoát chết trong 21 người dính trong vụ Boukharine.

  22. Yagoda: Hung thần Mật vụ. Bị thanh trừng, xử bắn cùng Boukharine. Ít nhất cũng đã thủ tiêu văn hào Gorky, trùm GPU Menzhinsky.

  23. Viktor Petrovich Pokrovsky

  24. Aleksandr Sthrobinder

  25. Aleksandr Andreyevich Svechin

  26. Vasily Ivanovich Anichkov

  27. Mikhail Aleksandrovich Reformatsky

  28. Yelizaveta Yevgenyevna Anichkova
Chánh thẩm là Shubin, Công tố là Karasik, cử toạ không lúc nào dưới vài trăm người từ các làng xã xa xôi được triệu tới coi nhà nước xử tội nhóm phản động chạy theo Bukharin vừa phát giác. Cũng có một luật sư được chỉ định biện hộ chớ. Nhưng chứng nhân quan trọng duy nhất trong vụ là Stavrov thì đã từ trần trong khám. Đầu mối số 1 phanh phui toàn bộ vụ án phản động không còn nữa, nên Công tố viện yêu cầu Toà coi những lời khai của người đã khuất như sự hiện diện của Stavrov trước Toà vậy. Dĩ nhiên Chánh thẩm Shubin chấp nhận ngay nhưng rắc rối ở điểm trước Toà tất cả các bị cáo đều phản cung hết. Không ai chịu nhận những cung từ ký nhận trong phòng điều tra NKVD Ivanovo khiến ông Chánh thẩm phải hét lên:

"Vô lý quá! Tại sao lại có sự cung khai bất nhất như thế này! Tại sao mấy người đã khai như vậy còn phản cung?"

Lý do đó không ai đưa ra nổi. Chỉ một mình bị can Univer bạo gan lên tiếng, sau khi đã nhìn trước nhìn sau kỹ càng:

"Ông chánh thẩm muốn biết tại sao, nhưng nhân danh một đảng viên Cộng sản, tôi thấy không thể tiết lộ ở đây những thủ đoạn điều tra của NKVD. Đây là một phiên toà công khai."

Để sửa chữa lại sự bất nhất đó, chính đồng chí Klyugin được ủy thác "tiếp xúc" từng bị cáo một ở tận cát-xô. Hắn mơn trớn Vlasov:

"Anh đã thấy bọn Smirnov-Univer khai tầm bậy thế nào chưa? Chúng tôi tin là anh không hèn hạ như vậy, có thế nào cứ khai thực ra."

"Cung khai toàn sự thực hả? Sự thực thì chúng bay toàn là một bọn côn đồ, khát máu Phát xít".

"Mày muốn chết thì tao cho chết." [14]



[1]Antonov Saratovsky là một chiến sĩ Tư pháp lão thành, nổi danh cách mạng mà ngay cái tên cũng vô cùng thích hợp vì gốc gác bình dân, dễ nghe dễ nhớ. Vì vậy năm 1962 còn có kẻ nhớ ra người đó, là những người thân, bạn bè của đám nạn nhân từng bị người tuyên án tử hình. Mãi 1962 họ mới dám đăng cáo phó trên mặt báo Izvestiya!
[2]Không hiểu chiến lược gia nào đã phác hoạ trước – chắc là trên bao thuốc lá đang hút dở – cho Krylenko một cuộc tiến binh này? Nếu cũng vì đó chịu trách nhiệm hoạch định vòng đai phòng thủ của chúng ta hồi 1941 thì thảo nào!
[3]Xin đừng hiểu lầm đây là một trò chơi. Sự kiện nhà máy dệt làm căn cứ hành quân đã được ghi ở trang 156, tập Vụ án "Đảng Kỹ thuật" ấn hành năm 1931.
[4]Chính sự giảm khinh cho những phần tử biết hối ngộ tốt đã khiến những phiên toà sau tiến hành tốt đẹp và còn có ảnh hưởng quan trọng đối với những phần tử “to đầu” như Zinoviev và Kamenev sau này.
[5]Bản thỉnh nguyện khôi phục công quyền của Yakubovich bị bác bỏ chỉ vì vụ án Men-xơ-vích đã “đi sâu vào lịch sử”, như một toà lâu đài cổ xây đã quá lâu đời, không thể vì rút ra một viên gạch lẻ loi Yakubovich để có thể bị sập đổ hết. Vì vậy còn mang bản án trong tư pháp lý lịch nhưng Yakubovich để có thể bị ủi bằng cách được cấp một khoản hưu bổng với tính cách cá nhân cho những hoạt động Cách mạng. Đó là một trớ trêu vĩ đại!
[6]Oan uổng nhất là ông nhân chứng tên Kuzma A. Gvozdev. Ông này từng là thủ lãnh nhóm công nhân trong Ủy ban Kỹ nghệ Chiến tranh. Chỉ vì những thành tích bị chế độ Nga hoàng cầm tù vô cớ năm 1916 mà được Cách mạng tháng Hai giải thoát và ban chức lớn Bộ trưởng Lao động trong chính phủ lâm thời. Có thể nói Gvozdev là một trong những “chiến sĩ vô địch ở tù dai”: trại Cải tạo nào cũng thấy mặt! Trước 1930 không hiểu ông ta đã bị giam bao nhiêu năm song từ 1930 trở đi thì… ở tù thường trực. Mãi tới 1952 có nhiều người ở trại Cải tạo ra còn gặp Gvozdez ở trại Spasik tuốt bên Kazakhstan!
[7]Xin đừng nhầm với ông Đại tá Yukabovich thuộc Bộ Tổng tham mưu thời đó cũng hay xuất hiện trong các buổi họp tương tự, nhân danh đại diện của Bộ Chiến tranh.
[8]Tất cả những con số, bản án đều trích trong Tập số 41, Bách khoa Toàn thư Granat, đoạn nói về cuộc đời những đảng viên Bôn-xê-vích cao cấp. Nếu không do chính các đương sự tự thuật thì cũng là những tiểu sử chính thức, đáng tin cậy.
[9]Koba là bí danh trong Đảng của Stalin mà chỉ vài người thân cận nhất, từng sát cánh hoạt động từ lâu mới biết nổi.
[10]Chỉ vì tật lãng tai, trước đông đủ Trung ương Đảng dám cẩn thận hỏi gặng lại câu này mà chính Ordzhonikidze sau đó cũng bị lãnh một viên.
[11]Bà vợ Bukharin còn quá trẻ! Mới có 22 tuổi và mới đầu năm vừa hạ sanh một cậu quý tử.
[12]Nội vụ này cho thấy “nhân chứng” Molotov quan trọng là nhường nào, có thể soi sáng bao nhiêu sự kiện lịch sử còn mờ ám! Vậy mà cứ đụng nhắc tới là người ta lại yêu cầu: “Hãy kính trọng tuổi già, hãy để ông ta yên!”.
[13]Hỏi hai người còn thân thiện có những lần thử vật nhau chơi với sự hoan hô cổ võ của nhiều đồng chí trong Trung ương Đảng. Luôn luôn Stalin bị Bukharin cho nằm đài rất lẹ: Sức mấy chống lại ông thợ săn kiêm cây lý thuyết Đảng? Có lẽ vì vậy mà đàn anh Bukharin bị chú Koba “vờn mồi” mãi rồi mới cho chết hẳn.
[14]Sau cùng người chết không phải là Vlasov mà lại là Klyugin. Hắn mắc kẹt trong vụ Yezhov là bị một mật báo viên cắt cổ trong khám.

11. Bản án tử hình

Ở ngay bản án tử hình có lúc thịnh lúc suy. Dưới thời Nga hoàng Aleksei Mikhailovich Romanov, Bộ Hình Luật ghi rõ 50 tội danh có thể lãnh án tối đa. Thời Peter Đại đế có luật quân sự, số tội danh tăng lên 200. Nữ hoàng Elizabeth không hủy bỏ những đạo luật cho phép xử tử hình nhưng không hề sử dụng đến. Tục truyền lúc mới lên ngôi bà đã lập lời nguyền không bao giờ tuyên án tử hình. Hai mươi năm trên ngôi báu, bà vẫn giữ vẹn lời thề, kể cả 7 năm chinh chiến. Giữa thế kỷ XVIII, 50 năm nữa mới có máy chém thì đó quả là một kỳ tích!

Tuy nhiên chúng ta quen hạ giá lịch sử, có bao giờ chịu ngợi khen, nhìn nhận điều gì tốt đẹp bao giờ? Chúng ta sẵn sàng chê Nữ hoàng Elizabeth, tiếng là bỏ án tử hình nhưng thay vào đó biết bao nhiêu cách trừng phạt: nào phạt roi phạt trượng, cắt mũi xẻo tai, thích chữ vào mặt, lưu đày chung thân sang Tây Bá Lợi Á. Nhưng thử hỏi dưới chế độ xã hội ấy bà có thể làm gì hơn được? Hiển nhiên một thằng bị án tử hình bây giờ sẽ coi như được sống lại sẵn sàng đánh đổi tất cả ngần ấy hình phạt miễn là được sống. Văn minh nhân tạo như chúng ta có cho phép họ chịu đòn, chịu đi đày thế mạng không? Không lẽ những hình phạt thời Elizabeth lại nặng hơn 20 năm (hay 10 năm) nằm trại Cải tạo?

Xét lại khi nhất quyết không cho thi hành án tử hình, Nữ hoàng Elizabeth đứng trên quan điểm hoàn toàn nhân đạo. Nhưng Nữ hoàng Catherine nghĩ khác. Làm sao bỏ án tử hình cho được? Bỏ đi là nguy hiểm cho bản thân, cho ngai vàng và cho cả chế độ! Bắt buộc phải duy trì bản án tối đa trong những vụ án chính trị, chẳng hạn như vụ khởi loạn Mạc Tư Khoa, vụ án Mirovich, vụ án Pugachev. Còn đối với những thứ tù tư pháp thì cần gì duy trì án tử hình!

Dưới triều đại Hoàng đế Paul không còn án tử hình. Dù chinh chiến nhiều phen song vẫn không có nạn mỗi đơn vị kèm theo một toà án binh. Suốt triều đại Alexander Đệ nhất án tử hình chỉ áp dụng riêng cho những tội phạm chiến tranh, giữa thời kỳ chiến tranh (1812) Dĩ nhiên không thể tránh khỏi những vụ thủ tiêu lén lút nhưng tuyệt đối không có vụ người truất quyền sống của người, trong những phiên họp gọi là Toà xử án công khai. Trong nửa thế kỷ liền – từ Pugachev đến vụ sĩ quan nổi loạn tháng 12 – nước Nga không có một bản án tử hình, kể cả những tội chống lại nhà nước.

Hình như máu của 5 kẻ phản loạn tháng 12 đổ ra đã làm nhà nước say mùi máu. Án tử hình không bỏ xó nữa, không cấm đoán, giới hạn nữa cho đến ngày Cách mạng tháng 2 năm 1917. Những bộ luật năm 1845 và 1904 đã xác nhận điều đó và sau này còn thêm các bộ Hình Luật của Lục quân, Hải quân.

Ở Nga có bao nhiêu người đã bị chính thức xử tử trong thời gian đó?

Ở chương 8, chúng ta đã có con số. Giờ đây phải thêm vô những con số đã được kiểm chứng của chuyên viên Hình Luật Tagantsev. Theo ông ta cho tới 1905 án tử hình ở Nga chỉ là một biện pháp đặc biệt. Trong khoảng 30 năm, tử 1876 đến 1904 trên toàn quốc chỉ có tổng cộng 486 người bị xử tử, trung bình mỗi năm 17 người. Đó là thời kỳ hoạt động Cách mạng và khủng bố của Narodnaya Volya phải mới rỉ tai dự định khủng bố! Đó là thời kỳ công nhân đình công tập thể và nông dân nổi loạn. Đó cũng là thời kỳ thành lập và củng cố, phát triển của các đảng phái làm cách mạng. Con số 486 người bị xử tử trong vòng 30 năm đó còn gồm luôn những tội phạm tư pháp. Mỗi năm xử tử đến 17 người! Đấy quả là một thành tích ghê gớm, nếu so với Thụy Sĩ, vì ở Schlusselburg từ 1884 tới 1906 chỉ có đúng 13 người bị xử tử hình.

Những năm đầu tiên của cuộc Cách mạng 1905, nhà nước thẳng tay đàn áp số người bị xử tử đã nhảy vọt kinh khủng. Dân Nga bàng hoàng, Tolstoi đổ lệ Korolenko và biết bao nhiêu người khác nghiến răng căm hờn. Từ 1905 qua 1908 mới có 4 năm mà nhà nước xử tử tới 2.200 người, trung bình 45 người một tháng. Chuyên viên Hình Luật Tagantsev phải mệnh danh thời kỳ dịch xử tử. Dịch chấm dứt đột ngột.

Chính phủ Cách mạng lâm thời lên cầm quyền là bãi bỏ án tử hình. Tháng 7 năm 1917 phải áp dụng lại trong quân lực chính quy và ở vùng tiền tuyến để trừng phạt những tội phạm có tính cách quân sự: giết người, cướp của, hiếp dâm. Dĩ nhiên phải hiểu tình hình tiền tuyến quá hỗn loạn, nhưng chính phủ lâm thời bị công kích dữ, bị mất lòng dân trầm trọng cũng vì lặp lại án tử hình, dù chỉ giới hạn. Bằng không phe Bôn-xê-vích đã chẳng tung ra khẩu hiệu cướp chính quyền: "Đả đảo án tử hình, đả đảo Kerensky lặp lại án tử hình!"

Lại nghe có phiên họp mặt ở điện Smolny tối 25 sang ngày 26 tháng 10 để bàn tính có nên ngay tức khắc ban hành Sắc luật thủ tiêu vĩnh viễn án tử hình hay không thì Lenin chê các đồng chí quá lý tưởng, thiếu thực tế. Chiều hướng xã hội nào chẳng phải duy trì án tử hình, thiếu nó là không được nhưng chính phủ là chính phủ liên hiệp với cánh tả Xã hội Cách mạng thì bọn họ có sai lầm thì Lenin cũng cứ chiều ý! Thế là ngày 28 tháng 10 năm 1917 án tử hình bị chính thức hủy bỏ. Cứ để vậy coi sao.

(Rồi có một trường hợp đặc biệt. Đầu năm 1918 Trotsky đưa ra Toà ông tân đô đốc chỉ huy Hạm đội Baltie Aleksei Schhatsny vì tội không tuân lệnh đánh chìm Hạm đội. Chánh thẩm Karklin la lối: "Tội này phải bắn bỏ, bắn trong vòng 24 giờ đồng hồ!" Cử toạ nhao nhao thì Chưởng lý Krylenko nghiễm nhiên giải thích: "Quý vị có gì thắc mắc nào? Đồng ý án tử hình hủy bỏ rồi. Nhưng bị cáo Schhatsny đâu có bản án tử hình? Hắn bị xử bắn mà". Kết quả là bị cáo bị bắn.)

Nếu căn cứ vào tài liệu chính thức thì tháng Sáu năm 1918 án tử hình đã được khôi phục toàn vẹn. Không phải tái lập mà là khởi đầu cả một kỷ nguyên mới cho những vụ xử tử! Trong tác phẩm vĩ đại của Latsis, nếu tác giả đã không đưa ra đủ con số chỉ vì thiếu tài liệu thì phải hiểu rằng Toà Cách mạng một mặt xử công khai, Cheka một mặt thủ tiêu ngầm. Kết quả là trong 20 tỉnh nội địa nước Nga, từ tháng Sáu 1918 đến tháng Mười 1919 tổng cộng khoảng 16 ngàn người đã bị xử bắn. Mỗi tháng trên một ngàn người!

(Trong số 16 ngàn người này đau khổ nhất là Khrustalev Nosar, vị Chủ tịch Xô Viết St. Petersburg từ 1905, một Xô Viết đầu tiên của Liên bang Xô Viết! Lại phải kể ông hoạ sĩ đã sáng chế ra bộ quân phục đặc biệt, chính thức của Hồng quân.)

Không phải chỉ bấy nhiêu bản án tử hình tuyên công khai hoặc thủ tiêu ngầm năm 1918 mà kỷ nguyên mới đã làm dân Nga rùng mình kinh hoảng. Đặc điểm kinh khủng nhất là những vụ cho chìm tàu, trôi sông cả loạt người một lúc, không phân biệt, không cần đếm đầu! Lối thủ tiêu tàn nhẫn này đã được nhiều nước áp dụng giữa thời chiến tranh và sau đó phe thắng thủ tiêu phe bại. Nó đã vượt ra khỏi giới hạn của Toà án và bản án tử hình. Nó đặt vấn đề lương tâm con người. Phải nói là nước Nga đã chứng kiến nhiều thời kỳ đổ máu, kể từ triều đại Ryurik trở đi, nhưng có thời kỳ nào giết người tàn nhẫn cho bằng sau thời kỳ Cách mạng tháng Mười, khởi đầu nội chiến?

Một đặc điểm không thể bỏ sót được khi nghiên cứu sự thịnh, suy của bản án tử hình ở Nga là Sắc lệnh hủy bỏ án tử hình vào tháng Giêng năm 1920. Có lẽ nào nhà nước lại "buông gươm" dễ dàng khi ở Kuban còn Denikin vùng vẫy, ở bán đảo Crimea còn phe nhóm Wrangel và ngay ở Balan các chiến sĩ kỵ mã cũng chuẩn bị lên đường?

Không. Sắc lệnh không áp dụng cho những toà án quân sự mà chỉ có ảnh hưởng với những quyết định "bên lề pháp luật" của Cheka và những Toà ở hậu phương. Hai nữa, trước khi Sắc luật ban hành nhà nước đã chuẩn bị: Những loại phạm nhân nào có thể "lọt lưới" vì Sắc luật mới, đã được quét sạch khỏi khám đường. Có còn đâu để thoát án tử hình? Và sau cùng, Sắc luật cũng chỉ sống vừa vặn 4 tháng! Ngày 28 tháng 5 năm 1918 lại có Sắc luật mới, trao trả thẩm quyền xử tử phạm nhân cho Cheka. Trong khoảng thời gian đó dĩ nhiên các khám đường toàn quốc lại chật cứng rồi.

Cách mạng đã đẻ ra danh từ mới. Không còn "bản án tử hình" mà chỉ có "biện pháp tối đa". Không có vấn đề "trừng phạt" mà chỉ có vấn đề "bảo vệ xã hội". Nếu căn cứ trên nền tảng lập pháp 1924 thì "biện pháp tối đa" chỉ được tạm thời áp dụng "bảo vệ xã hội" trong khi chờ đợi Ủy ban Hành pháp Trung ương Liên Xô tuyên hủy toàn thể. Năm 1927 Ủy ban Hành pháp Trung ương bắt đầu hủy bỏ, chỉ còn áp dụng đối với những tội chống nhà nước, chống quân lực (điều 58) và tội phiến loạn. Tuy nhiên danh từ "phiến loạn" quả là rộng nghĩa, suy diễn cách nào cũng được. Có thể là trộm cướp mà cũng có thể là một du kích quân xứ Lithuania, một phần tử quốc gia võ trang, một kẻ tham dự vào một cuộc nổi dậy ở trại quân hay ngoài thành. Ấy là để kỷ niệm năm thứ 16 cuộc Cách mạng tháng Mười.

Qua đệ thập ngũ chu niên kỷ niệm Cách mạng tháng Mười có thêm một đạo luật ác ôn, ban hành ngày 7 tháng 8. Để đẩy mạnh cuộc Cách mạng Xã hội phải bảo toàn tài sản nhà nước. Kẻ nào xúc phạm đến tài sản nhà nước bị trừng trị nặng mà khởi đầu phải có một loạt "biện pháp tối đa" làm gương. Hai năm 1932-1933 công cuộc "bảo vệ xã hội" đã đoạt biết bao nhiêu sinh mạng? Một thí dụ: tháng 12 năm 1932, giữa thời bình, chưa có vụ án Kirov, riêng khám đường Kresty ở Leningrad cũng có sẵn 265 người đang chịu án tử hình chỉ chờ giờ hành quyết (trích hồi ký của nhân chứng B. người phụ trách tiếp tế thực phẩm cho khám tử tội). Trọn năm 1932 không thể dưới một ngàn tử tội bị xử bán trong khám Kresty.

Trong số tử tội ở Kresty năm đó, có 6 nông dân ở Tsarskiye Selo. Họ phạm tội gì ghê gớm mà Ủy ban Hành Pháp Trung ương cương quyết bác cả 6 đơn ân xá, xử bắn hết. Sau khi gặt lúa về cho Nông hội, 6 người đã lén quay trở lại ruộng lúa để mót. Không phải để mót lúa, mà chỉ mót chút rơm về cho bò của họ ăn. Ngày xưa mụ địa chủ quý tộc Saltychikha chỉ vì hành hạ đám nông nô mà còn bị Hội nghị Quý tộc tuyên xử mười một năm cấm cố dưới nhà hầm Tu viện Ivanovsky Mạc Tư Khoa. Sử sách ghi chép mụ chủ đất độc ác đã dùng gậy lớn trừng trị bọn nông nô phạm tội nên bao nhiêu năm sau còn bị thoá mạ. Nhưng 6 mạng nông dân Selo có ai nói đến, nhắc đến? Họ bị xử theo luật 7/8 đàng hoàng và mất mạng chỉ vì mấy bó rơm. Mà cha đẻ ra Bộ Hình Luật là ai, nếu chẳng phải Stalin?

Công bình mà nói, đừng trách Ủy ban Hành pháp Trung ương! Có thể Ủy ban sẽ từ từ tiến tới việc hủy bỏ trọn vẹn những "biện pháp tối đa" thật, đúng như Ủy ban đã long trọng tuyên hứa, nếu Lãnh tụ tối cao và Cha già dân tộc không thình lình ra lệnh giải tán toàn thể Ủy ban Hành pháp Trung ương vào năm 1936. Thay vào đó là Hội đồng Xô Viết Tối cao mà Hội đồng chủ trương kỷ luật sắt thép như thế kỷ XVIII nên "biện pháp tối đa" lại hiện nguyên hình. Nó hết là "biện pháp để bảo vệ xã hội" mà rõ ràng một sự trừng phạt ghê gớm nhất. Không lẽ xử tử nhiều như vậy, gắt gao như vậy chỉ để bảo vệ thì nghe vô cùng chướng tai!

Làm thế nào để có con số đích xác những nạn nhân của đợt 1937-1938? Có một Hồ sơ Đặc biệt thật, nhưng chẳng ai, chẳng bao giờ được ghé mắt đến dể chép ra những con số! Đành chịu luôn. Những con số phỏng định duy nhất và có thể tin nổi chẳng kiếm đâu ra, ngoài những kẻ may mắn hãn hữu được ở Butyrki khoảng 1939-1940, được nghe những ông bạn đồng xà lim tiết lộ, những ông bạn mới đây còn là cán bộ cao cấp và trung cấp. Những đàn em thân tín của Yezhov, những người từng trực tiếp nhúng tay vào nội vụ thì không tin sao nổi? Theo họ thì 2 năm 1938-1938 trên toàn quốc nửa triệu chính trị phạm đã bị xử bắn, ngoài 480 ngàn dân Blatnye tức bọn đầu trộm đuôi cướp. Điều đặc biệt là bọn Blatnye bị thanh toán chiếu điều 58/3 Hình Luật để đốn tận gốc bọn đốn mạt Yagoda!

Sự thực thì khoảng thời gian tai hoạ của chính trị phạm không phải 2 năm mà chỉ vừa đúng một năm rưỡi. Số nạn nhân của điều 58 Hình Luật trung bình khoảng 28 ngàn người một tháng, ở 150 địa điểm khác nhau. Con số 150 được coi như khiêm nhượng vì riêng ở Pskov cơ quan NKVD đã phải lấy cả hầm nhà thờ, cấm phòng Tu viện để làm phòng tra tấn và pháp trường mật. Cho đến năm 1953 du khách còn tuyệt đối không được vô thăm các nhà thờ ở Pskov vì lý do còn nhiều hồ sơ, tài liệu lưu trữ ở trong vòng nhà thờ. Ngoài 10 năm rồi, cỏ hoang đã mọc lấp cả những "địa điểm cất chứa hồ sơ!" Và để "dọn dẹp" khu nhà thờ, nhà nước đã phải tốn nhiều công trình đào xới, mang đi từng xe vận tải đầy xương khô.

(Nếu tính toán cẩn thận thì mỗi ngày mỗi địa điểm chỉ phải lo có 6 người. Đó là một tiêu chuẩn dưới khả năng NKVD quá xa cho nên những tiết lộ của bọn đàn em Yezhov có thể dưới sự thực nhiều. Trong khi đó những nguồn tin khác ước lượng số nạn nhân khoảng 1 triệu 700 ngàn, tính đến ngày 1 tháng 1 năm 1939.)

Những năm đầu của Thế chiến II án tử hình đôi khi còn được áp dụng cho những trường hợp phi quân sự. Cán bộ, quân nhân đường sắt phạm tội cũng xử như quân nhân. Trong khi đó phương pháp hành quyết cũng nới rộng: từ tháng 4 năm 1942 ngoài vụ xử bắn còn thêm xử treo cổ.

Những vụ xử bắn xử giảo cứ tiếp tục. Hy vọng hủy bỏ án tử hình, trọn vẹn và vĩnh viễn không phải vì vậy mà mất đứt! Quả nhiên tháng 5 năm 1947 khi hoà bình đã trở lại, Stalin bất thần ra lệnh cho Chủ tịch đoàn Hội đồng Xô Viết Tối cao ban hành Sắc luật bãi bỏ bản án tử hình làm dân Nga thở ra nhẹ nhàng. Thay vào đó bản án tối đa từ nay chỉ có thể là 25 năm tù. Dân quần đảo mệnh danh bản án 1 phần 4 tức một phần tư thế kỷ.

Dù sao bản án tử hình cũng không còn nữa, trên nguyên tắc. Tại sao cứ thắc mắc nhà nước hà khắc, bỏ án chết và thay vào đó bằng một ản án đày đoạ con người tới một phần tư thế kỷ? Câu nói bạc là dân, vô ơn là dân quả xác đáng. Sao họ không nhìn nhận đó là một tiến bộ? Vì vậy nhà nước quyết định chấm dứt sự khoan hồng nhân đạo sau khi áp dụng đúng hai năm rưỡi. Ngày 12 tháng 1 năm 1950 nhà nước thấy cần phải tái lập án tử hình, nhưng lần này chiếu nhu cầu và đáp ứng sự đòi hỏi của nhiều thành phần xã hội! Không những một số các nước xã hội anh em trong Liên bang khẩn thiết yêu cầu (không biết có Ukraine không?) mà các nghiệp đoàn các hội nông dân và cả các tổ chức văn hoá (?) cũng đòi hỏi nhà nước phải thiết lập lại "bản án tối đa" để đối phó với bè lũ phản quốc, gián điệp và phản động, phá hoại. Do đó chế độ án tử hình lại tái lập nhưng dĩ nhiên bản án 1 phần 4 thế kỷ chẳng phải vì vậy mà thủ tiêu. Nhà nước quên hẳn bản án ¼!

Đặc biệt lần này ngoài vụ xử bắn, xử giảo còn thêm chiếc máy chém cổ truyền lâu nay không dùng đến. Án đoạn đầu năm 1954 chỉ dành cho bọn sát nhân có dự mưu. Từ tháng 5 năm 1961 ăn cắp hay thâm lạm của công cũng lên đoạn đầu đài. Sau đó áp dụng cho bọn làm bạc giả, khủng bố trong trại giam (âm mưu giết hại lính canh, giám thị hay ban quản đốc khám đường). Tháng 7 năm 1961 vi phạm đến chế độ ngoại tệ nhà nước cũng lãnh án chém. Nói nôm na là bọn buôn lậu, chợ đen tiền ngoại quốc! Tháng 2 năm 1962 án chém còn áp dụng cho bọn "đe doạ đến đời sống của nhân viên công lực, cảnh sát của Đảng". Sau đó thêm vô bọn hiếp dâm, bọn ăn hối lộ và đưa hối lộ.

Ngần ấy trường hợp có thể bị án chém đầu, tuy nhiên tất cả đều hiểu là chỉ áp dụng tạm thời, trong khi chờ đợi hủy bỏ toàn vẹn! Đó là một đặc điểm của nước Nga dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa. Cũng như nước Nga dưới triều đại Nữ hoàng Elizabeth Petrovna, từng không áp dụng "bản án tối đa" lâu hơn cả trong số các vương quốc cùng thời.

*


Chúng ta quen nhắm mắt sống đời bình dị cứ tưởng đâu tù tử hình phải là những tay lầm lì, xui xẻo, phải sống khác người và phạm tội nặng lắm mới nằm khám đợi chết. "Như mình thì đời nào bị!"

Tưởng vậy là lầm quá! Ai dám ngờ khám tử hình đa số đầy nhóc những con người chẳng có gì đặc biệt, phạm những tội tầm thường nhất trên đời, những tội không đúng tội. Ân huệ cuối cùng chỉ tới với rất ít – hoàn toàn tình cờ – còn đại đa số đều nằm chờ ngày chịu tối đa, dân tù ưa gọi tắt vậy.

Như năm 1937 ông kỹ sư Canh nông quận phân chất sai mẫu lúa Nông hội vừa gặt về cũng lãnh án tử hình. Sơ sẩy như Melnikov, quản đốc xưởng cũng bị quất án tối đa. Cũng may được ân huệ giờ chót, còn có 10 năm!

Năm 1932 trong khám tử hình khám đường Kresty có 2 kẻ: Feldman giấu ngoại tệ trong người và Faitelevich, sinh viên Nhạc viện dám đổi dây đàn lấy viết chì nguyên tử. Lấy bơ lấy bánh nhà nước bán lấy tiền bỏ túi chịu án tử hình nặng nhất đã đành. Đến như chú Geraska, dân một làng tỉnh Ivanovo mà bị lên án tử thì khó hiểu quá! Một đêm ở làng bên ăn nhậu say sưa liên hoan về nó thấy ông Công an cỡi ngựa đi trước và rắn mắt quất một roi vào đít ngựa. Bị bắt về trụ sở nó uất ức quá gỡ vách ván chạy ra vồ lấy tê-lê-phôn hét lớn: "Đập chết bọn quỷ!"

Đừng ngây thơ tin tưởng rằng vì làm một cái gì đó mà nằm khám tử. Hình như có một bánh xe lớn quay quay và gặp một số hoàn cảnh khách quan nào đó là bị thảy vô như chơi.

Chẳng hạn như hồi Leningrad bị bao vây nguy khốn. Tình hình căng thẳng như vậy thì đồng chí Zhdanov, tư lệnh mặt trận sẽ nghĩ gì nếu Ty Nội An không xử tối đa một trong đám hồ sơ còn kẹt? Không lẽ bọn Đức bao vây bên ngoài không có âm mưu gì và mình không phát giác ra? Năm 1919 Stalin phát giác được mà không lẽ Zhdanov năm 1942 lại bó tay? Thế là ông Tư lệnh có lệnh và những cánh tay lông lá thò ra.

Thiếu gì người đang co ro nằm ngủ trong phòng mà bị Nội An vô tận nơi lượm. Ông Đại tướng Công xưởng Ingatovsky còn bị mà.

Đứng ra cửa sổ rút cái mùi xoa trắng xỉ mũi, hay ra ám hiệu gì đây? Lâu nay ông Công xưởng trưởng lại hay nói chuyện máy móc với bọn lính thủy thì đúng là tiết lộ bí mật nhà nước! Ông Đại tướng bị Nội An vồ thì phải khai. Khai cho đủ 40 thằng tòng phạm.

Nếu anh chỉ là thằng xét giấy rạp hát quèn thì không đến nỗi dính vô đám 40. Lỡ ra lại là Giáo sư Viện Kỹ thuật thì dính chắc! Ai chẳng biết bọn kỹ sư chúa là phản động? Anh có làm gì đâu nhưng cãi sao nổi? Mà "tòng phạm tiết lộ bí mật nhà nước" thì tránh sao khỏi án tử hình? Quả nhiên ông tướng Ingatovsky và 40 tòng phạm ra pháp trường đủ!

Cũng có trường hợp sống sót hy hữu như nhà bác học Cơ khí Konstantin I. Strakhovich. Các ông lớn Nội An chê danh sách của ông ta quá ít. Nhất định phải còn nhiều nữa. Vậy là Strakhovich được giữ lại để khai thác thêm. Đại úy N.A. Atshuller hét lên:

"À, anh định qua mặt? Cái gì anh cũng thú nhận để được xử bắn cho mau, cho khỏi tiết lộ chính phủ bí mật chắc? Biết điều khai đi. Anh giữ chân gì trong Nội các?"

Sau đó bác học Strakhovich nằm khám tử hình chịu thẩm cung. Chịu nhận chức Tổng trưởng giáo dục để ra pháp trường cho rồi nhưng ông Đại úy khó tính nhất định còn khai thác thêm được. Do đó Strakhovich được cho sống tạm trong khi nhóm tòng phạm nhỏ nhoi ra pháp trường hết. Kẹt lại một mình ông ta bị quay dữ quá, quay liên miên đến nổi giận. Không phải tại muốn sống mà chỉ vì chờ chết mãi bực bội quá. Lại cứ phải bịa ra những vụ dóc láo nên Strakhovich phát tởm. Một buổi thẩm cung có vài ông lớn Nội An ghé ngang, ông ta không dằn nổi, đập bàn chửi thẳng vào mặt Đại úy Atshuller:

"Cho mày hay, chính mày mới là thằng đáng mang bắn bỏ tức khắc. Tao bị buộc khai láo nhiều quá, chán quá rồi! Tao không khai gì nữa. Xé bản tự thú đi, bỏ hết!"

Không ngờ một phút nổi nóng lại phúc đức thế. Cuộc thẩm cung ngừng tức khắc và Nội An lâu ngày quên luôn có thằng tù tử hình Strakhovich trong khám. Có thể nào giữa một bầy ngoan ngoãn một kẻ bực bội tới không muốn sống nữa bao giờ cũng có đường sống?

*


Những vụ xử bắn cứ thế tiếp tục. Số ngàn, số trăm ngàn, Đâu có nghĩa gì, ngoài những con số? Mà những con số thì đọc mãi cũng bù đầu và quên mau lắm.

Một bữa nào đó có người gởi lại một bức hình thân nhân họ bị xử bắn. Rồi nhiều người gởi tiếp thêm, đủ in một bộ hình dầy. Có dịp lật qua những tấm hình kỷ niệm đau xót đó, nhìn vào những cặp mắt không bao giờ mở ra được nữa ta có thể có một bài học giá trị đến mãn đời. Không cần ghi chú phía dưới những bức hình đó sẽ in sâu vào tâm tưởng ta đến vĩnh viễn.

Một hôm tôi tới chơi một gia đình thân, nơi lui tới của dăm thằng Zek cũ và tình cờ được dự một buổi lễ nhiều ý nghĩa. Ngày 5 tháng 3 vốn là ngày giỗ của Cha già Đại đao phủ, gia đình này quen bày lên những bức hình của họ hàng, bạn bè từng bị xử bắn hay bỏ thây trong ngục. Được người nào hay người ấy, tổng cộng cỡ vài chục bức hình. Cả nhà im lặng, chiêm nghiệm suốt ngày. Bầu không khí trang nghiêm hẳn như lễ cầu hồn ở nhà thờ hay trong nhà mồ. Một bản nhạc tang tóc nhẹ nhàng trổi lên. Ai nấy ngồi lặng yên ngắm chân dung những người đã chết, rồi nhìn nhau kể chuyện khe khẽ. Lúc ra về tất cả phải nắm tay từ biệt.

Lẽ ra phải tổ chức những buổi chiêm nghiệm ở nhiều nơi. Để không sao quên được những người chết, vì sao họ chết. Có vậy những cái chết của họ mới ý nghĩa. Phần tôi, tôi chỉ giữ được một bộ hình của mấy người sau:

  • Viktor P. Pokhrovsky, xử bắn ở Mạc Tư Khoa năm 1918
  • Alesandr Sthrobinder, sinh viên, xử bắn ở Petrograd 1918
  • Vasily I. Anichkov, bắn trong Lubyanka năm 1927
  • Alesande A. Svechin, giáo sư Bộ Tổng tham mưu, xử bắn năm 1935
  • Mikhail A. Refomatsky, kỹ sư Canh nông, bắn ở Orel 1938
  • Yolizaveta Y. Anichkova xử bắn trong trại Cải tạo vùng Yenisei năm 1942

Họ vô khám tử trong trường hợp nào? Nằm đợi chết ra sao và có cảm giác gì? Họ suy nghĩ những gì, có quyết định gì không? Chừng bị mang đi xử bắn, họ có ấn tượng gì trong những phút giây chót của cuộc đời?

Nghĩ về những người chịu án tử hình, ai chẳng nêu ra câu hỏi trên? Ai chẳng muốn biết, nhưng có ai biết mà trả lời? Những người được ân xá mà về chẳng sao biết nổi những gì xảy ra ở giây phút chót. Những gì xảy ra sau đó thì bọn đưa đi xử tử phải biết. Đời nào họ nói. Như bác Lyosha ở khám Kresty Leningrad mỗi lần dẫn tử tù đi đều trói giật cánh khỉ, còng cứng. Vừa định nói: "Anh em ở lại tôi đi" đã bị một nắm giẻ bịt miệng. Vậy mong gì bác Lyosha nói, dù giờ đây người vẫn ăn mặc chững chạc dạo phố hay nhậu la-ve trong câu lạc bộ một "đảo" nào. Có gặp xin cứ hỏi thử.

Tuy nhiên chính bọn xử tử cũng chẳng biết hết mọi chuyện. Hắn chỉ chĩa súng sau gáy nổ một phát, máy xe hơi bên cạnh nổ át tiếng súng. Thế thôi. Công việc đó hắn còn không muốn biết thì còn biết làm gì chuyện xảy ra! Biết hết chỉ còn những người chết, không nói được nữa. Ngoài ra biết phần nào, biết lờ mờ thì chỉ còn các nhà văn, cộng thêm những tử tù chờ chết được ân xá. Nhờ họ mới đoán biết bộ mặt của khám tử hình trước giờ hành quyết.

Như Narokov tác giả cuốn tiểu thuyết Những giá trị tưởng tượng. Ông ta đặt quá nặng việc gợi lại thảm cảnh còn hơn Dostoyevsky, muốn tạo xúc động hơn Dostoyevsky, nhưng dù sao không khí khám tử và phút thọ hình cũng được ông ta ghi nhận lại tuyệt vời. Không kiểm chứng được nhưng đọc là tin ngay.

Trước Narokov mấy ông nhà văn như Leonid Andreyev đều lạc hậu cỡ 150 năm. Tả khám tử hình 1937 mà cứ tưởng tượng thì hố nặng: nào chờ đợi trong tuyệt vọng, nào lắng nghe thời gian. Làm sao biết nổi những đặc điểm kỳ quặc như dưới đây:
  1. Chết rét: Tử tù nằm chờ chết trong xà lim tử tội, dám chết rét lắm chớ? Chưa ăn đạn đồng cũng có thể gục như không vì đêm đêm nằm sàn xi măng, hàn thử biểu xuống cỡ 10 độ.

  2. Chết ngộp: Sau đó còn có thể chết ngộp hơi người. Cát-xô cá nhân mà nhét 7 người tối thiểu, 28 mạng tối đa – như Strakhovich từng bị ở Leningrad năm 1942 – thì quả là khó thở. Nằm đợi chết 7 người, 10 người một lượt đã cực kỳ rùng rợn lại phải chen chúc nhau mấy tuần, mấy tháng. Nỗi bận tâm không phải giờ hành quyết. Xử bắn không sợ mà chỉ ngại co chân duỗi tay và làm sao thở được một tí không khí trong sạch.

    Năm 1937 khám Ivanovo, trại giam riêng của NKVD, gồm 2 khu chứa từ 2 đến 3 ngàn tù mà phải nhét trên 40 ngàn. Khu I là khu giam cứu, tức câu lưu để điều tra. Khu II gồm đủ thứ tù, chính trị tư pháp lẫn lộn, kẻ chờ đi căng, người chờ chết, người tử hình được ân xá chưa biết đi đâu. Có xà lim nhốt chặt cứng đến độ dựa sát vào nhau vừa đủ chỗ đứng, giở chân giở tay không được. Đứng sát bục nằm sơ ý là bị xô gãy ống chân. Mùa đông mà hơi người hầm quá phải phá cửa kính cho khỏi nghẹt thở. Có mặt ông già đầu bạc Alalykin, đảng viên từ 1898 đến Cách mạng 1917 thành công thì rút lui, cũng nằm chờ giờ hành quyết.

  3. Chết đói: Nằm chờ chết lâu quá, nhiều tử tù không sợ ra pháp trường bằng sợ đói. Năm 1941 Alesandr Babich đợi 75 ngày ở khám tử Krasnoyarsk, muốn ăn đạn để giải thoát nhưng chưa chết được người đã phù thũng như con bò vì thiếu ăn. Rồi được ân xá còn 10 năm mới lê thân tàn đi đày! Kỷ lục thời gian chờ đợi là bao lâu? Không biết. Tử tội Vsevolod P. Golitsyn vô địch 1 xà lim năm 1948 tưởng 140 ngày đã là nhiều. Nhà bác học số 1 nước Nga Vavilov đợi chết gần một năm. Chẳng đến khám Saratov mà nằm nhà hầm cũng còn đợi. Mùa hè 1942 không được ân xá, Vavilov được ra xà lim chung mà đi không nổi. Đến giờ được ra hứng gió phải có người đỡ đi.

  4. Chết bệnh: Tử tội không được khám bệnh, khỏi có thuốc. Năm 1938 Okhrimenko nằm xà lim đợi chết tới, bệnh gần chết! Không được đi bệnh viện, năn nỉ mãi không có bác sĩ. Chừng bà bác sĩ tới thì đứng ngoài xà lim. Không nhìn con bệnh, không thèm hỏi một câu mà chỉ nhét qua song sắt gói thuốc bột! Còn Strakhovich phù thũng, ứ nước ở hai chân. Kêu mãi mới được một ông nha sĩ xuống.

    Chữa bệnh cho đám tử tội người thầy thuốc có lương tâm nên chữa cho họ để khỏi kéo dài kiếp đau khổ nữa, hay nên hối thúc xử tử lẹ lên. Strakhovich kể lại chuyện có ông bác sĩ xuống thăm, đi cùng gã gác khám và chỉ vào từng thằng tử tội: "Thằng này chết rồi, thằng này sống sao nổi, thằng này cũng thế". Ý hắn có ý bảo để chúng sống dở chết dở làm chi? Sao không hành quyết cho rồi.

*


Đúng vậy, bắt chờ đợi lâu như vậy để làm gì? Không lẽ thiếu đao phủ thủ? Có điều lạ là nhân viên khám đường thường nhắc nhở, đôi khi còn hối thúc bọn tử tù nạp đơn xin ân xá. Nhiều người không chịu, không muốn đụng đến một vụ gì cho thêm lôi thôi họ còn viết đơn giùm ký tên thay cho nữa. Mỗi lá đơn gởi đi là phải mất vài tháng.

Có tình trạng xung khắc trên vì hai cơ quan vốn chẳng ưa gì nhau. Bên bắt người, xử người (theo sự tiết lộ của mấy ông Toà quân sự thì chỉ là một) chỉ mong bắt nhiều và xử án nặng lấy điểm. Tuyên thật nhiều án tử hình cho chúng hết hồn. Nhưng tuyên án xong là hết trách nhiệm. Có gì thắc mắc, mà những thằng tù nhìn tơi tả thì còn làm gì được nên cứ để cho chúng sống, an ninh nhà nước cũng chẳng vì thế mà bị đe doạ! Hãy liệng hết bọn chúng cho nhà tù tức cơ quan giam người lo. Mà nhà tù là anh em ruột với Nha Tổng quản trị các trại Lao động Cải tạo lại quen nhìn bọn tù dưới khía cạnh kinh tế. Quan điểm của họ là càng nhiều nhân công càng tốt. Nhiều án tử hình làm gì?

Quản đốc nhà giam NKVD trong khám lớn Leningrad là Solokov nhìn tù dưới góc cạnh kinh tế tức lao động. Tử tội Strakhovich nằm chơi không đợi chết mãi cũng phát chán bèn hỏi giấy bút để ghi chép. Lập tức ông quản đốc bèn khai thác, cung cấp ngay đầy đủ tập vở và viết chì để ông kỹ sư láy hoáy ghi chép mớ lý thuyết cơ học. Hết bàn về xúc tác giữa vật thể cứng trong môi trường lỏng đến tính toán về bọc đạn, lò xo, nhíp hoặc đưa ra Căn bản của luật ổn định [1] . Sau đó dĩ nhiên tử tội Strakhovich được ở "xà lim khoa học" riêng một mình, ăn uống đầy đủ hơn để "đóng góp chuyên môn". Chẳng hạn Bộ Tư lệnh chiến trường Leningrad được chỉ dẫn nguyên tắc súng lớn, bắn toả chống máy bay. Kết quả là tử tội được ông Tư lệnh Zhdanov ân xá tạm còn 15 năm tù. Mãi sau này mới nhận được công văn rùa bò từ Mạc Tư Khoa tới, chính thức ân giảm còn 10 năm, khoan hồng còn hơn ông Tư lệnh!

Không riêng quản đốc mà điều tra viên cũng có quyền tha hồ "khai thác" tử tội. Phục vụ riêng cho mình cũng được. Như ông điều tra viên nhám tay Kruzhkov đang theo học của hàm thụ về toán. Dưới khám tử tội có nhà Toán học N.P. giáo sư đại học nên ông điều tra viên kêu lên bắt chỉ dẫn thêm, giải bài khó giùm.

Ngoài mục đích giữ tử tù để khai thác, nhà tù còn sử dụng khám tử để dựng kịch, cho cò mồi đóng y như thật để "bẻ gãy" những thằng cứng đầu nhất định không chịu ký cung. Nhân chứng Ch. thuật lại vụ 2 can phạm giam cứu khám Krasnoyarsk thình lình bị đưa ra một phiên toà giả và lãnh án tử hình giả, tống giam vô một khám tử hình thiệt đợi ngày "hành quyết". Dĩ nhiên 2 gã tử tội giả phải rầu rĩ, buồn phiền, cứ tưởng đời sắp tàn chắc! (Sao không tưởng thiệt khi những phiên toà thiệt cũng còn "dựng vở"?). Đúng lúc đó có hai ba cò mồi cũng bị án tử, tống vô chung khám tử tội. Chúng cũng giả vờ rầu rĩ và bàn nhau hối ngộ. Xin lập lại bản cung để cung khai thêm thì lập tức được cho ra khỏi khám tử hình, nghĩa là sinh mạng bảo đảm. Tấm gương "cung khai sự thực thì khỏi chết" sờ sờ như vậy làm gì 2 can phạm cứng đầu chẳng nôn nả noi theo.

Sau chót tử tội còn được giữ lại trong khám để lâu lâu xách ra nồ đưa đi xử bắn cho mất tinh thần, cung khai thêm cho điều tra viên. Ngay ông Thống chế Konstantin Rokossovsky hồi nào cũng bị nồ 2 lần. Nửa đêm bị kêu tên, đưa vô rừng. Bịt mặt trói vô cột, toán lính lên đạn lách cách như sắp nổ đến nơi, nhưng đột ngột lại hạ súng xuống. Những gì xảy ra sau đó không ai biết. Chỉ thấy trước mắt Rokossovsky không chết tí nào, mạnh giỏi hơn người và lên lon vù vù.

*


Hình như tử tội ngoan ngoãn lắm trước lúc bị đưa đi thọ hình. Những người được ân xá kể lại chẳng thấy ai bị đưa đi mà chống cự, giằng co bao giờ. Nghe nói khám Kresty chỉ có một vụ năm 1932, ông lính áp tải vô xà lim tính kéo đi bị mấy tử tù giật súng bắn lại. Rút kinh nghiệm từ đó về sau đưa 1 người đi cũng ngó vô nhận diện trước rồi 5 người võ trang ào vô. Có xà lim nhốt 8 người, ai cũng nạp đơn xin ân xá rồi nên nằm chờ đợi. Thấy lính ào vô nắm đầu một nạn nhân thì cả 7 người quay đi. Vùng vẫy, kêu cứu chẳng ai dám ngó. Đành chịu trói và miệng bị nhét nguyên một trái banh cao su trẻ con chơi. Ai mà ngờ trái banh hiền lành lại được sử dụng đặc biệt như vậy!

Thử hỏi nếu không ham sống, 7 người đó ùa lại tận lực cứu bạn thì sao? Không chừng chấm dứt được nạn xử bắn bừa bãi, chẳng cần đến Ủy ban Hành pháp Trung ương ân xá! Đằng nào cũng đến chết là cùng, sao không thử chống cự? Nhưng thôi, nói làm chi. Từ lúc bị bắt đã thụ động, khom lưng quỳ gối rồi. Khốn nạn, làm như chân tay bị chặt rồi phải bò để may ra thoát chết.

*


Vasily Grigoryevich Vlasov nhớ lại đêm bị tuyên án tử hình, điệu đi ở Kady với 4 khẩu súng lục kè kè 4 bên. Nghe bản án xong vẫn không tin bị xử ngay, còn ham sống lắm nên lúc ấy chỉ nghĩ họ dám nổ rồi phao vu toan đào tẩu là mất mạng oan.

Nhưng không. Chỉ bị áp giải về Ty Cảnh sát, cho ngủ trên bàn giấy. Dưới ánh đèn dầu hôi 2, 3 thầy chú canh chừng gắt. Họ kháo nhau: "Nghe xử án cả 4 ngày liền mà chẳng hiểu các bị cáo bị buộc tội gì? Tụi mình làm sao hiểu nổi?".

Vlasov nằm lại Ty 5 ngày. Ra họ còn đợi xác nhận lại bản án rồi xử bắn ngay tại Kady chớ mang đi chỗ khác phiền phức lắm. Chưa thấy Trung ương có chỉ thị, dù có người đã đánh điện xin ân xá giùm cho Vlasov: "Tôi không nhận tội. Xin bảo toàn sinh mạng".

Mấy ngày chờ chết Vlasov run rẩy, cầm muỗng múc cháo không nổi phải bưng cả tô lên húp. Quản đốc Klyugin còn đến ngó và giễu nhưng sau vụ án ở Kady đương sự cũng bị đưa từ Ivanovo về Mạc Tư Khoa. Năm ấy "có động" ở cấp chỉ huy trung ương Trại Cải tạo: nhiều vụ lên xuống thật bất ngờ, nhiều ông lớn cải tạo cũng sắp đi quần đảo đến nơi mà không hay.

Chưa có chỉ thị rõ rệt thì cả 4 người vụ Vlasov cũng được áp giải đến Kineshma: 4 người đi 4 xe, mỗi xe 7 thầy chú ngồi cùng và chĩa súng lăm lăm. Đến nơi tống đỡ vào nhà hầm 1 tu viện kiên cố cho chắc ăn, đợi thêm 1 toán tử tội nữa mới nhập chung cho lên toa xe lửa nhà lao đưa thẳng về Ivanovo. Vừa tới sân ga họ đã tách làm hai: Vlasov được giữ lại cùng Saburov và một tử tội mới còn bao nhiêu được đi chỗ khác. Smirnov thuộc tốp sau và chỗ khác là pháp trường!

Ba người co ro ngồi bệt xuống đất ở khoảng sân ga phía trong đợi họ tìm người, chia toán cỡ 4 giờ. Chưa chắc đã bị "đi" bữa nay nhưng cả 3 cùng rét, chỉ nơm nớp sợ bị kêu tên. Giữa lúc bồn chồn, lo sợ thì bị kêu đi, vô cát-xô làm Saburov hoảng quá, níu cứng lấy thằng ngồi bên cạnh. Hắn bị níu cứng bắp tay, đau quá la chói lói làm lính phải gỡ bằng lưỡi lê Saburov mới chịu buông tay.

Khám tử hình Ivanovo có 4 xà lim, chung hành lang với nơi giam bọn thiếu nhi và nhà thuốc. Xà lim tử tội phải có 2 lớp cửa. Ngoài cánh cửa gỗ có lỗ nhòm thông thường còn thêm lớp cửa sắt mà mỗi cửa 2 ống khoá. Muốn mở cửa phải có mặt cả gã gác khám lẫn trưởng khu, mỗi người một chìa khoá riêng. Xà lim 43 giáp vách với Phòng Điều tra nên nằm chờ chết đêm đêm còn phải nghe những tiếng gào thét vọng sang đến khổ.

Vlasov vô xà lim số 61 trước đây là cát-xô biệt giam 1 người dài cỡ 5 mét rộng cỡ 1 mét là nhiều. Có 2 "ghế bố" sắt bắt cứng xuống nền xi-măng thì mỗi ghế đã có 2 ông chiếm, nằm trở đầu trở đuôi. Còn 14 người chen chúc nhau nằm ngang khoảng diện tích còn lại, dĩ nhiên nằm đất. Ngày xưa người chết "nằm 3 thước đất" Chekhov còn chê chật hẹp mà bọn chờ chết ở đây tính ra chỉ được trên 3 tấc đất thì không hiểu phải dùng danh từ gì?

Câu đầu tiên Vlasov hỏi thăm anh em cũ là "Vô đây có bị đưa đi ngay không" thì có kẻ tỉnh bơ đáp: "Người anh em không biết sao chớ tụi tôi nằm đây chán chê mà vẫn còn nằm đây này!"

Tình trạng chờ đợi nghẹt thở bắt đầu. Những đêm thức trắng mắt, chán nản đến không thiết một cái gì mà chợt nghe tiếng mở khoá lách cách là sợ đứng tim! Ác nhất là những đêm đau khổ vì hồi sáng vừa có một thằng được ân xá. Nó nhảy cẫng lên hò reo chạy ra khỏi cát-xô là anh em còn kẹt lại càng hốt hoảng, bồn chồn thêm. Chỉ sợ đêm nay cửa mở!

Chao ôi, có đêm cửa sắt mé ngoài chợt động. Bao nhiêu con tim chết đứng thì gã tuần hành kiểm soát thò đầu qua khung cửa sổ kia.. Những con tim vừa thắt lại, lại tiếp tục nhảy! Cả 19 tử tù trong xà lim đều công nhận mỗi cú đứng tim như trên quả tương đương với 1 năm sống. Chỉ cần mở khoá điệu đó cỡ 50 lần thôi, nhà nước khỏi tốn đạn! Nhưng mừng biết mấy khi trong đám anh em có thằng bật ra được: "Dạ xin lỗi sếp, để lấy xuống liền!"

Sáng ra sau chầu làm vệ sinh là có quyền ngủ khoan khoái. Ngủ không sợ sệt cho đến lúc gã gá khám bưng vô khay cháo: "Nào cháo đây!" Nghe thân mến làm sao! Nội cái vụ bưng cháo vô một mình cũng đã là vi phạm luật lệ nhà lao: lẽ ra mở cửa sắt bắt buộc phải có trưởng khu đi cùng. Nhưng con người dù sao cũng vẫn chưa phải máy, vẫn lớn hơn luật lệ chớ.

Hớp cháo sáng thật sung sướng, thoải mái. Nó lọt ngon lành xuống cuống họng. Cả ngày mới ăn được bằng ấy vì kể từ trưa trở đi lại hết ngủ và hết ăn luôn. Còn đầu óc đâu nữa mà nuốt cho trôi? Cho dù người nhà không biết vẫn gởi vô một gói tiếp tế cũng để đến mốc meo. Ở cát-xô tử hình thì mọi thứ đều là của chung nhưng cũng chẳng ai buồn đụng tới.

Suốt ngày tù tử hình nằm trơ chờ đợi. Lâu lâu ông trưởng khu bước vô chơi cho có chuyện. Hoặc ông Ác Tarakanov, hoặc ông Thiện Makarov. Nhưng chuyện thì nếu không "Có ai cầm giấy viết đơn" thì lại "Có tiền thì gởi Câu lạc bộ mua thuốc lá giùm cho?".

Món giải trí duy nhất là gỡ vỏ bao diêm ra, vạch đại mấy con số làm bộ cờ đô-mi-nô chơi với nhau. Hứng chí lắm Vlasov mới đem những chuyện Hợp tác xã Tiêu thụ ra kể. Nằm khám tử nghe những chuyện vớ vẩn mà còn cười hả hê được thì in thành sách bây giờ phải hốt bạc.

Riêng ông già cựu Chủ tịch Quận Yakov P. Kolpakov, đảng viên từ đầu xuân 1917 và từng xung phong ra tiền tuyến thì cả chục ngày liền hai tay ôm đầu ngồi gục một chỗ, cằm dựa lên đầu gối. Kolpakov ngồi không cục cựa, mắt thao láo dán vào bức tường trước mặt. Thấy Vlasov làm trò cười, ông ta lắc đầu rầu rĩ: "Vô đây mà còn..." Lập tức ông tướng tử tù quát lên:

"Chớ làm gì bây giờ? Dọn mình cho sạch đặng lên Thiên Đường chắc? Tôi chỉ nghĩ một điều và nghĩ xong từ lâu. Bữa đó tôi sẽ chửi thẳng vào mặt thằng đao phủ: "Mày coi chừng, ông oán mày mãn kiếp! Toà xử, thằng nào quyết định chẳng thấy đâu. Chỉ có mày. Chính mày giết tao. Chỉ vì có những thằng giết người như mày mới có án tử hình, biết không đồ chó chết? Phải nói bằng được ngần ấy câu tôi mới chịu chết!"

Nhưng người chết không phải Vlasov mà là Kolpakov rồi đến Kostantin S. Arkadyev cựu Trưởng chi Canh nông tỉnh Vladimir. Nửa đêm ông Trưởng chi bị 6 giám thị ùa vào cát-xô lôi đi. Arkadyev bình tĩnh ngó quanh, chiếc nón cầm tay cứ mân mê mãi như luyến tiếc phút chia tay. Sau cùng chỉ mấy người ở kế bên may ra mới nghe thấy tiếng lí nhí: "Thôi, vĩnh biệt!"

Giây phút lâm ly đó mấy kẻ ở lại chợt cảm thấy nhẹ mình: "May quá!" Nhưng sau đó người đi vừa khuất là cả cát-xô lại trở về tình trạng bồn chồn, khổ sở. Suốt ngày hôm sau tất cả lại ngậm câm, nuốt không vô.

À, phải trừ một kẻ! Cũng đợi chết như mọi người nhưng chú Geraska ăn no ngủ kỹ nhờ gốc nông dân. Nó nhất định không tin bị xử bắn. Quả nhiên được ân xá. Còn có 10 năm. Không lẽ say rượu chửi bậy 1 câu, phá vách hoặc vụt 1 roi vào đít ngựa của ông Công an mà phải đền mạng?

Nằm cát-xô tử tội ít ngày là hầu hết già đi trông thấy. Mặt mũi nhợt nhạt, tóc mọc dài quá nhanh bắt buộc phải hớt tóc, phải đi tắm theo luật nhà lao. Nhiều người đâm ngớ ngẩn, nói không rành mạch và hiểu chậm hẳn. Nhưng vẫn phải nằm đợi trong cát-xô. Bất thần nổi điên là ra pháp trường tức khắc, luật nhà lao là vậy.

Phải nói là số tử tù được ân xá nhiều chớ. Cuối năm 1937 bắt đầu có án 15 năm, 20 năm càng nhiều. Một số chỉ còn 10 năm. Và 5 năm cũng có nữa! Nước Nga là vậy, chuyện gì chẳng có thể xảy ra? Thiếu gì thằng hôm qua còn đáng tội chết hôm nay đã phất phơ đi đày có 5 năm, bản án thiếu nhi? Ở trại Cải tạo còn án nào nhẹ hơn nên nó còn có quyền đi đó đi đây, miễn áp giải!

Lại có trường hợp kỳ quặc của lão Khomenko 60 tuổi cựu Đại úy Cốt Sắc. Quả là "linh hồn của xà lim" vì tối ngày lão nhởn nhơ cười cợt coi như ở tù chơi. Bị giải ngũ vì sức khoẻ từ sau hồi Nga – Nhựt chiến tranh, Khomenko chuyên nghề nuôi ngựa giống và có chân Hội đồng tỉnh. Sau đó được cử sang Ty Nông vụ tỉnh Ivanovo làm Thanh tra ngựa, chuyên trách gây giống ngựa tốt cho Hồng quân. Cũng vì ngựa mà ông Thanh tra bị ghép tội băng hoại và lãnh án tử hình. Tại sao dám đề nghị ngựa đực phải thiến trước khi lên 3? Phá hoại tiềm lực chiến đấu của Hồng quân!

Chuyên viên Khomenko không chịu, xin thượng tố. Đợi đúng 55 ngày thì đơn chống án bị ông trưởng khu mang tận xà lim trả về, vì đi trật hệ thống. Lão thản nhiên mượn ông trưởng khu cây viết chì, kê lá đơn cũ lên vách cát-xô, bôi bỏ chỗ sai và điền vô đúng tên cơ quan thẩm quyền. Giản dị như đơn xin mua thuốc lá vậy! Sau đó chờ thêm 60 ngày nữa, trước sau vừa vặn 4 tháng.

Kết quả là Khomenk được miễn tố. Ra khỏi khám tử hình, tha bổng luôn! Lý do là sau khi lão đi tù bỗng có chỉ thị của Thống chế Voroskilov ra lệnh ngựa đực của quân đội phải thiến trước khi lên 3.

Dù thấy tận mắt nhiều ca giảm án Vlasov vẫn cảm thấy quá ít hy vọng. Tội đã nặng, bữa ra toà còn găng thì thoát sao nổi? Bề nào họ cũng phải bắn bỏ một số, có thể là một nửa mà. Đằng nào cũng chết thì tại sao phải chết gục đầu? Hèn hạ trước khi chết còn tệ nữa. Do đó anh hùng tính nổi dậy, nếp sống ngang tàng sống lại.

Đúng lúc đó ông Trưởng ban Điều tra Ty Nội An Ivanovo đi thanh tra khám đường. Có lẽ Chinguli muốn lấy le chơi nên xồng xộc vô bắt giám thị mở cát-xô rồi đứng sững chỗ ngưỡng cửa hỏi thuộc viên: "Đâu, thằng ở Kady đến là thằng nào?". Hồi đó mốt sơ-mi lụa cộc tay mới ra đời ở Nga, ông sếp Nội An mặc chi lẳng lơ và cát-xô bỗng sực nức mùi nước hoa.

Đang nằm trên ghế sắt Vlasov đứng bật dậy, dõng dạc quát: "Mặt thằng này mà sĩ quan hả? Cút ngay, quân sát nhân!" Một bãi nước bọt nhổ tiếp theo. Đứng cao như thế làm gì không trúng giữa mặt.

Chinguly lau mặt, thối lui trở ra. Cấp bực đó không có quyền vô cát-xô tử hình nếu không có 6 vệ sĩ kèm theo, luật nhà lao rõ ràng như vậy. Vả lại có 6 vệ sĩ đi cùng chưa chắc Chinguli đã dám vô. Vì vậy hắn đành bẽ mặt.

Xét ra tử tội Vlasov hung hăng vậy là dại. Đã vô đây thì chúng hành sao chẳng được. Vả lại biết đâu chừng báo cáo của sếp chẳng ảnh hưởng đến vụ sống hay chết? Tuy nhiên chịu đựng mãi, quá giới hạn nhục nhã rồi dằn không nổi nữa. Hèn là thân phận con thỏ nhưng một khi thỏ đã hiểu rõ trước sau cũng biến thành ra-gu thì lại khác. Có hèn cũng chậm chết là cùng chớ có sống được đâu?

Đợi đến 41 ngày, căng thẳng quá, Vlasov chỉ muốn có dịp là hét lên: "Đ.M, tới đây. Lôi tao đi bắn cho rồi!". Hai lần nhân viên khám Ivanovo hối ông ta nạp đơn xin ân xá Vlasov đều lắc đầu.

Qua ngày thứ 42 Vlasov bất thần được gọi đi. Tới một phòng vắng ông ta được thông báo: Chủ tịch đoàn Xô Viết Tối cao vừa quyết định giảm án cho ông ta còn 20 năm cải tạo, cộng 5 năm an trí. Lúc ấy khuôn mặt nhợt nhạt của Vlasov nhếch một nụ cười, kèm theo vẫn là một lời cay đắng, bóng bẩy:

"Lạ thật, Người ta lên án tôi không tin tưởng ở sự chiến thắng của Xã hội chủ nghĩa trên đất nước này. Nhưng tin sao được kìa? Ngay Kalinin cũng cóc thể tin nổi! Chiến thắng, thành công gì mà hai mươi năm sau vẫn còn Trại Cải tạo kìa?"

Hai mươi năm sau nữa vẫn còn trại Cải tạo? Hồi đó có ai tin!

Cái lạ là ba mươi năm vẫn còn. Vẫn cần.


12. Tù xưa, tù nay

Văn tự Nga có một danh từ đặc biệt ý nghĩa. Ostrog nghĩa đen là tù, ngục. Có 6 chữ cái ghép lại mà đọc lên hình dung ra ngay những bức tường kiên cố, không thể vượt qua! Cùng một âm với nó còn có một lô danh từ có ý nghĩa gần cận. Nào strogost là nghiêm khắc, ostroga là mũi lao, ostrota có nghĩa bén nhọn. Thêm vào một vần ostoroznhost lại có nghĩa thế chân (tiền thế chân để đổi lấy tự do chớ còn gì? Mà bớt đi, còn rog gọi là gai nhọn. Cây gai nhọn chĩa ra, đâm vào cuộc đời chúng ta chớ còn gì nữa?

Xét về toàn bộ tổ chức, điều hành thì chế độ lao tù ở nước Nga trong vòng 90 năm trở lại có thể ví như một cây gai. Một cây gai nhọn cả 2 đầu. Thời Cách mạng phản đế Narodnaya Volya là một đầu gai nhọn. Nó từ nhọn đi thuôn thuôn dần đến chỗ xù xì, không làm rách da được: đó là những năm đầu thế kỷ XX.

Thế rồi thân gai bắt đầu thu lại, cứng ngắc để từ sau 1917 để trở thành một đầu gai nhọn hoắt, chìa ra năm 1913 để sẵn sàng cắm ngập vào yết hầu chúng ta.

Nhờ tập hồi ký đồ sộ của bà già Vera Finger (xuất bản ở Mạc Tư Khoa năm 1964) mà ta có thể hiểu được sự khắc nghiệt của chế độ lao tù thời đó, điển hình là khám đường pháo đài Schlusselburg ở gần St. Petersburg. Hồi đó tù không có tên mà chỉ là con số, cai ngục hắc ám như đào luyện ở lò Lubyanka ra! Hành lang nhà tù im lặng như nhà mồ, xà lim tối om kín mít, sàn trải nhựa đường. Mỗi ngày một ô cửa sổ mở đúng 40 phút. Ăn thì chỉ có cháo đặc, cải bắp. Không được đọc sách có khi hai năm liền chẳng được nhìn thấy mặt ai. Ít ra từ năm thứ 3 trở đi tù mới có quyền giữ ít tờ giấy, có đánh số đàng hoàng. Theo tài liệu của Novorussky thì từ 1884 đến 1906 tù Schlusselburg có 3 người chịu không nổi phải tự sát và 5 người hoá điên.

Như cây gai thuôn dần, đời sống khám đường dần dà cải thiện bớt, nay một chút mai một chút. Tù được ăn bánh mì, phát trà, đường, Có tiền gởi vô còn được mua đồ Câu lạc bộ thêm, kể cả thuốc hút. Xà lim sáng sủa, thoáng hẳn nhờ cửa kính đóng mở tùy tiện, vách không âm u một màu sơn đen, sân nhà tù có vườn bông, cây cảnh. Tù được ra chơi, trò chuyện hay dạy học lẫn nhau. Sách có quyền mượn của thư viện St. Petersburg. Ban quản đốc Khám Schlusselburg còn phải cấp thêm đất để phạm nhân trồng hoa, trồng rau tổng cộng 450 thứ khác nhau. Hồi đó nhà tù còn có phòng trưng bày thủ công khoa học, có xưởng mộc, lò rèn. Kiếm được tiền ở trong tù có quyền gởi mua sách chính trị hay mua tháng, mua năm báo ngoại quốc. Thư từ cho gia đình rất dễ dàng [2] .

Nữ phạm nhân Vera Finger nhớ lại tình trạng ngược đời hồi đó: lớn lối, la hét không phải giám thị mà là phạm nhân. Năm 1902 một thầy chú không chịu chẳng đơn bị bà ta lồng lộn, xé rách cả cầu vai. Vậy mà ông Thanh tra đến xét còn phải xin lỗi!

Tại sao chế độ tù tội hồi ấy lại tử tế, nhân đạo vậy? Finger cho rằng tại quản đốc và giám thị còn là những người tốt, biết cư xử đàng hoàng, vả lại "ở tù lâu đâm quen mặt, quen nết". Cũng có thể vì phạm nhân hồi đó vừa khôn khéo vừa có tư cách. Nhưng theo tôi đó là nhờ ảnh hưởng của thời đại xã hội vừa được một ngọn gió tự do, ngọn gió mới thổi tạt qua, xua đuổi hết mây mù ám chướng khiến đời sống dễ chịu, lòng người phơi phới. Nếu không thì tội xé cầu vai, nhục mạ giám thị hẳn sẽ lãnh 9 gam chì!

Nói chung chẳng phải nhà nước đã làm đẹp cho chế độ nhà tù thời Nga hoàng, cải thiện đời sống phạm nhân. Chính trào lưu xã hội với ngọn gió tự do, cách mạng đầu thế kỷ XX đã trông cậy một sự thay đổi bộ mặt khám đường. Triều đại Nga hoàng không phải đợi đến tháng Hai 1917 mới đổ sụp mà từ cả chục năm trước đã lung lay nặng. Ở địa hạt ngục tù chẳng hạn, có ai coi ở tù là xấu đâu? Con nhà danh giá còn có hân hạnh được ở tù mà. Giám thị nhà tù thực sự bị coi là cai ngục, ngay sĩ quan Ngự lâm quân cũng không thèm bắt tay! Chế độ nhà tù càng nới rộng – tức càng suy yếu – thì chính trị phạm càng có giá trị và các đảng viên Cách mạng càng có thế lực, càng coi nhẹ luật pháp nhà nước.

Thế rồi 1917 Cách mạng bùng nổ và từ 1918 trở đi chế độ nhà tù đổi khác hẳn. Phải nói kể từ 1918 trở đi vì từ tháng Hai 1917 đến cuối năm trên toàn lãnh thổ Nga có chính trị phạm nào ở tù đâu. Khám giam cứu, khám thọ hình hay trại khổ sai vẫn giam tù chính trị đều mở toang cửa, giám thị thất nghiệp hết! Không muốn đói phải trồng khoai ăn trọn năm đó nhưng qua 1918 lại bắt đầu sung sướng như cũ.

Cuối tháng 12 năm 1917 nhà nước cách mạng vô sản bắt đầu cảm thấy dầu sao cũng phải thiết lập khám đường trở lại xét vì có những thành phần không thể cho phép trà trộn vào xã hội mới mà bắt buộc phải tống vào tù. Đó là thời kỳ thân cây gai bắt đầu nhọn dần và cho thấy sự bén nhọn.

Dĩ nhiên nhà nước phải long trọng tuyên bố sẽ không đi theo chế độ tù ngục hà khắc, hãi hùng của triều đại Nga hoàng. Qua lời đồng chí Vyshinsky thì sẽ cấm tuyệt sự trừng trị, hành hạ kéo dài. Không có nạn tuyệt đối im lặng, biệt giam, đi chơi theo hàng lối riêng rẽ. Không có cát-xô nữa. Chế độ mới nhằm 2 trọng tâm: một là huấn luyện cán bộ gác bên ngoài khám sẵn sàng ứng chiến, hai là tiếp tục thu trọn vẹn hệ thống nhà giam do chế độ cũ để lại. (Vẫn biết Cách mạng là thay đổi toàn diện nhưng đặc biệt riêng bộ phận khám đường không thể phá bỏ hết làm lại mới!). Cũng may mà Cách mạng không triệt hạ hết khám lớn, khám nhỏ.

Vấn đề là đào thải danh từ. Khám đường, cải hối thất lạc hậu quá. Phải là trung tâm cô lập chính trị, để cô lập những kẻ bị coi như đối thủ ở địa hạt chính trị, không phải cần trừng phạt họ nhưng nên để những con người cách mạng lỗi thời đó ra ngoài đường tiến của xã hội mới. Do đó phải có những trung tâm cô lập dành riêng cho những đảng viên Xã hội Cách mạng, Dân chủ xã hội, vô chính phủ, có sẵn cả hệ thống tiếp nhận của chế độ cũ!

Những kẻ cần cô lập vốn chẳng phải tù mới. Họ ở tù quen rồi và được đãi ngộ như tù chính trị cũng quen rồi! Họ quen có một khẩu phần chính trị, một chế độ chính trị mà quyền của họ Nga hoàng vẫn áp dụng và được Cách mạng công nhận. Một số quyền lợi được nêu ra như sau: mỗi ngày nửa gói thuốc lá, được mua sữa, phó-mát ngoài chợ, đi chơi thong thả ngoài sân, giám thị nói không phải đứng dậy nghe, nếu hai vợ chồng cùng bị nhốt thì phải nhốt chung xà lim, được đọc sách báo giữ bút giấy viết, đồ vặt cá nhân (kể cả kéo, dao cạo), một tháng 3 lần nhận thư gửi thư, 1 lần thân nhân vô thăm, đi lại dễ dàng giữa các phòng giam, cửa sổ không bít kín, đàn bà hộ sản được đưa ra ngoài 2 tháng trước. Và quan trọng nhất trong số quyền lợi của họ là quyền bầu cử ban đại diện để tạo tình đoàn kết và tiếp xúc với ban quản đốc.

Tù chính trị nhất quyết bảo vệ tất cả quyền lợi của họ và nhà nước cũng cương quyết tước bỏ bằng hết. Trong vòng rào nhà tù cuộc chiến đấu gay gắt nhưng âm thầm diễn ra và kéo dài đến hai mươi năm: chẳng sử sách nào nói đến, chẳng có đại bác. Lâu lâu mới có loạt súng nhỏ, cửa kính bể, vừa đủ nghe. Những chuyện tranh đấu - thua thì nhiều mà được thì quá ít - của tù chính trị thảng hoặc mới lọt đến tai chúng ta. Không sách, truyện, hồi ký mà chỉ có dịp thì truyền miệng, do đó người chết thì chuyện tranh đấu trong tù cũng chết luôn.

Chúng ta đã quen nghe chuyện xa chiến hoặc bom nguyên tử nổ nhưng đâu biết gì về ý nghĩa, tầm quan trọng của những cuộc tranh đấu vặt vãnh của những người đã mất tự do chỉ để đòi hỏi quyền tự do thông báo tin tức, đại diện tù phải được quyền liên lạc giữa các phòng giam. Nếu không được thì lén lút gõ vách, truyền miệng, thòng dây thả xuống. Phải can đảm thế nào mới dám chống lại cát-xô biệt giam, hay quản đốc Lubyanka bước vô nhất định không đứng dậy chớ. Năm 1926 có Anna G. và 1931 có Katya Olitskaya từng cứng đầu như trên: dĩ nhiên phải có một chầu đánh đập, riêng Katya còn bị cấm tắm, cấm rửa mặt. Nếu nằm xà lim cấm không cho nói chuyện thành tiếng thì năm 1925 hai cô Shura và Vera nhất định cất tiếng ca vang mấy bản tình ca, dù biết rằng sau đó bị gã quản đốc đánh đá, nắm tóc kéo từ xà lim xềnh xệch xuống cầu tiêu. Năm 1924 đám sinh viên bị nhét trên toa xe súc vật đưa đi đày cũng lên tiếng ca thách thức và sau đó bị cúp nước uống luôn.

Đối với chúng ta những vụ chống đối đó đâu được coi như những tấm gương anh dũng? Chúng ta quá quen với những thứ anh dũng chiến trường, bay trong không gian hay lách cách những mề đay, trong khi lòng anh dũng của người dân mới là thứ xã hội này cần và chúng ta không có.

Năm 1923 ở khám Vyatka có vụ tẩm dầu hôi tự thiêu tập thể của Struzhinsky và các đồng chí. Họ đóng chặt cửa xà lim chịu chết cháy, nhưng họ là ai, bao nhiêu người và tại sao, thì ai biết nổi? Không nói thời tiền cách mạng mà ngay thịnh thời của Schlusselburg một vụ chống đối rùng rợn như vậy sẽ rúng động cả nước Nga. Không thể rơi vào quên lãng được! Nhưng Vyatka là "Trung tâm cô lập chính trị" mà!

Quần đảo Solovetsky là trung tâm cô lập lý tưởng. Sáu tháng băng giá mùa đông thì tuyệt đối cắt đứt hẳn liên lạc với thế giới bên ngoài, nên năm 1923 các đảng viên Xã hội bị đày ra đó, chia ra ba nhóm ở ba trại trước kia là tu viện. Trại Savvatyevsky gồm hai toà nhà trước kia dành cho khách thập phương lưu ngụ: mấy tháng đầu các phạm nhân còn được hưởng chế độ đặc biệt, vài thân nhân ra thăm còn được, còn được cử 3 đại diện cho 3 nhóm chính trị, bên trong trại còn được đi lại, chuyện trò.

Ít lâu sau đã có nguồn tin cầu tiêu cho hay chế độ đặc biệt sắp hủy bỏ. Quả nhiên giữa tháng 12 băng đóng cứng mặt Bạch Hải, đường giao thông duy nhất bị cắt đứt thì Tổng Quản đốc Eichmans mới thông báo chỉ thị mới. Dĩ nhiên không có vấn đề nhất loạt bãi bỏ tất cả quyền lợi chính trị phạm. Mới cầm viết thư, nhận thư và giới hạn đi lại bên trong trại thôi! Kể từ ngày 20 tháng 12 từ 6 giờ chiều là không được ra khỏi xà lim.

Để chống lại, 2 nhóm Cách mạng Xã hội và Vô chính phủ kêu gọi anh em tình nguyện, đợi đúng 6 giờ chiều ngày cấm đầu tiên thử bước ra sân trại coi phản ứng của nhà tù ra sao. Phản ứng có liền, tới trước 6 giờ! Không đợi đúng giờ, Nogtyev quản đốc trại Savvatyevsky đã ra lệnh cho lính canh xông vô sân trại nã súng vào đám người chưa vô xà lim. Ba loạt đạn 6 phạm nhân chết tại chỗ, 3 bị thương nặng.

Sáng hôm sau Tổng Quản đốc Eichmans vô trại trấn an, giải thích tất cả chỉ là một hiểu lầm đáng tiếc (có thể vì đồng hồ chạy lẹ!). Tuy nhiên Nogtyev bị thuyên chuyển tức khắc và các nạn nhân sẽ được tổ chức mai táng trọng thể. Sáu nạn nhân được chôn trong nấm mộ tập thể và đây là lần cuối cùng Bài ca tiễn bạn tù thảm tử được phép cất lên giữa vùng băng tuyết chập chùng đảo Solovetsky. Tuy nhiên một gốc phong lớn được dựng lên với họ tên 6 người bất hạnh khắc sâu vào lòng gỗ thay vì bia mộ không thọ được hơn một năm! Năm 1925 nó đã bị quật xuống, vùi sâu lòng đất đến không còn mảy may di tích.

Một vụ hạ sát phạm nhân trắng trợn cỡ đó báo chí lờ đi sao nổi? Có tờ Pravda đăng mấy hàng chữ nhỏ li ti là tù tấn công toán lính hộ tống, 6 kẻ bị bắn chết. Tờ Rote Fahne trung thực hơn, loan báo Tù nổi loạn ở Solovetsky. Bằng chứng cụ thể duy nhất là những tờ y chứng của các nạn nhân có Yuri Podbelsky giữ được tính sau này sẽ công bố nhưng chẳng may đã nhét giấu trong chiếc va-li 2 vỏ mà còn bị lính xé ra một năm sau, lúc bị lục lọi ở khám tạm Sverdlovsk.

Tuy nhiên 6 mạng người hy sinh không oan. Ít nhất suốt một năm chế độ đặc biệt vẫn được duy trì. Tháng 12 năm 1924 lại có tin cúp bớt nên cả 3 trại đồng tình chuẩn bị chống đối: 3 trại trên 3 đảo Savvatyevsky, Troitsky, Muksalmsky sự liên lạc cực kỳ khó khăn nhưng vẫn ước hẹn nhau được đồng thời phát động tranh đấu, gởi tối hậu thư lên Bộ Chỉ huy Solovetsky và về Mạc Tư Khoa để yêu cầu: một là được đưa về đất liền trước khi băng đóng cứng mặt hồ, hai là duy trì toàn vẹn chế độ đặc biệt. Hạn định 2 tuần lễ, nếu không toàn thể phạm nhân 3 trại Solovetsky sẽ tuyệt thực.

Còn một ngày nữa hết hạn. Tổng Quản đốc Eichmans đi từng trại thông báo Trung ương bác bỏ. Cuộc tuyệt thực khởi sự ở cả 3 trại, tất cả đều từ chối thực phẩm, chỉ uống nước. Hàng ngày có bác sĩ (trong đám phạm nhân) theo dõi để những người bệnh khỏi phải tuân hành quyết định chung. Tuyệt thực tập thể khó ở chỗ tình trạng sức khoẻ, sức chịu đựng mỗi người mỗi khác, tất cả đều phải nương nhau, canh nhau để giữ vững tinh thần đến phút chót. Huống hồ cả mấy trăm con người, không cùng một Đảng nên qua ngày thứ 15 trại Savvatyevsky đã phải bỏ phiếu kín để quyết định nên tiếp tục hay tạm ngưng tuyệt thực.

Trong khi đó Eichmans và nhà nước cũng làm lơ: báo chí Mạc Tư Khoa đâu dám hó hé, sinh viên đâu dám biểu tình yểm trợ. Tất cả đều im lặng, cúi đầu im lặng.

Cuộc tuyệt thực Solovetsky đình chỉ. Không thắng nhưng cũng không bại, Chế độ đặc biệt vẫn còn, tù chỉ phải tự vào rừng kiếm củi sưởi mùa đông. Mùa xuân năm 1925 mọi người hân hoan vì có lệnh được di chuyển về đất liền hết. Cuộc di chuyển quá gay go, khổ cực nhưng ít nhất cũng còn gần gũi quê hương, khỏi phải thức trắng đêm Bắc cực, khỏi 1 năm 6 tháng hoàn toàn cô lập. Tù Solovetsky đã tưởng đâu thoát nạn cho đến khi ban đại diện bị tách rời khỏi các anh em: họ đều được mời lên toa xe trên, đầy đủ phương tiện hơn. Đến ga Vyatka toa xe đại diện được tách rời ra, đi theo công voa về Tobolsk còn toàn thể phạm nhân như "rắn mất đầu" được tiếp tục chở tới "khánh thành" trung tâm Verknhe – Uralsk vừa được trang bị lại. Để áp đảo tinh thần đám tù Solovetsky ngỡ ngàng vì mất thành phần lãnh đạo nhà nước đặc cử 2 cán bộ "thứ dữ" Yagoda và Katanya.

Đến đây họ mới trắng mắt ra: cuộc tuyệt thực tưởng thắng phần nào bỗng là cả một thảm bại! Ở Verknhe Uralsk chế độ đặc biệt bỗng mất hết. Quyền lợi duy nhất còn sót lại là đề cử ban đại diện thì chính ban đại diện cũng bị hạn chế lại giữa các phòng. Biện pháp chống đối còn có thể làm được là hò hét thì bị lính canh át đi bằng súng! Chớ nghĩ tới phá hoại, đập bể đổ nhà lao: phá hư cái gì mất luôn cái đó, đập bể cửa kính thì mùa đông tới tha hồ chết rét!

Theo nhân chứng Pyotr P. Rubin thì năm 1928 tù Verknhe Uralsk ráng vùng lên bằng một đợt tuyệt thực như mấy năm trước ở Solovetsky. Toàn trại tham gia nhưng tinh thần yếu hẳn. Được mấy hôm thình lình từng toán lính canh xông vô "hạ" từng xà lim một. Đám tù mấy ngày nhịn ăn sắp lả được ăn gậy và giày bốt no nê đến chết ngất hết! Cuộc tuyệt thực chấm dứt luôn và Verknhe Uralsk nổi danh địa ngục từ ngày đó!

*


Thì ra võ khí tuyệt thực lỗi thời rồi. Đe doạ nhịn ăn đến chết thực sự chỉ có ảnh hưởng nếu Ban Quản đốc nhà lao còn nhất điểm lương tâm hay còn sợ phản ứng của dư luận. Bọn cai ngục Verknhe Uralsk đâu có ngây thơ, khờ khạo như các đấng tiền bối thời Nga hoàng, thấy tù tuyên bố tuyệt thực là bồn chồn, bấn loạn rồi coi như vấn đề quan trọng, nào canh chừng nào săn sóc.

Ngày xưa nhà cách mạng Valentino tuyệt thực 12 ngày, cuộc điều tra phải ngưng tức thời. Năm 1912-1913 mỗi đợt tuyệt thực của tù khổ sai Orel là một lần nới lỏng chế độ nhà tù. Năm 1914, Dzerzhinsky và 4 đồng chí nhịn ăn nhịn uống 5 ngày là bao nhiêu yêu sách được thoả mãn đủ. Hồi đó tù nhịn ăn chỉ sợ đói chớ đâu còn sợ gì nữa. Đâu sợ bị đánh đập, tra tấn hay chồng án, tăng án, hoặc bắn bỏ, đưa đi đày chỗ khác.

Thời kỳ sau Cách mạng 1905 tù còn nắm vững tình hình hơn nhiều. Chống đối thì đập phá vật dụng nhà lao cho hả rồi mới phát động tranh đấu sau! Năm 1906 ở khám đường thị xã Nikolayev 197 phạm nhân tranh đấu tuyệt thực, thò đầu ra cửa sổ ca hát rầm rầm. Dân thị xã kéo tới trước khám cổ võ, yểm trợ công khai, làm dữ với ban quản đốc nên qua ngày thứ 9 nhà nước phải nhượng bộ. Ở Odessa, ở Kherson, ở Yelizavetgrad, bao nhiêu cuộc tuyệt thực là bằng ấy lần đại thắng. Nó là võ khi sắc bén, hữu hiệu của tập thể mất tự do.

Sau Cách mạng 1917 võ khí tuyệt thực gần như bị phạm nhân bỏ quên. Qua thập niên 1920 nó bỗng hết bén nhọn để trở thành một mũi tên cùn đầu, như bị một bàn tay thép phạt ngang.

Muốn tranh đấu tuyệt thực trên nguyên tắc vẫn được chớ. Nhưng coi chừng luật lệ mới ấn định kẻ tuyệt thực phải biệt giam, tuyệt đối cấm tiếp xúc, ít nhất nhà tù cũng có quyền kiểm soát xem có tuyệt thực thật sự, hay chỉ đòi hỏi làm nũng, vẫn được tiếp xúc lén chớ. Do đó nếu ở khám Byturki sẽ được "lên chòi" Pugachev ngay. Kẻ tuyệt thực không có quyền gây xúc động quần chúng: không cứ công chúng ở ngoài đời, mà tù ở phòng kế bên hay nhốt cùng một xà lim cũng là quần chúng!

Từ thập niên 1930 thì quyền tuyệt thực bị chính thức bôi sổ. Một phạm nhân "có hạng" như Yekaterina Olitskaya đâu chịu nhượng bộ dễ dàng. Nằm cát-xô biệt giam đúng 15 ngày đến ngất ngư mới được đưa xuống nhà thuốc và bị nhử bằng sữa tươi, bánh bích quy. Oltitskaya cương quyết nhịn đói: sang ngày thứ 19 mới được nhà tù nhượng bộ, cho phép nhận đồ tiếp tế.

Đấy là trường hợp cá nhân, tuyệt thực chỉ để đòi hỏi một quyền lợi cá nhân tầm thường, hợp pháp! Thiếu gì người ăn vạ tới 20 ngày, nguy hiểm đến cả sinh mạng chỉ để đòi hỏi một gói đồ tiếp tế, hay quyền được đi ra ngoài sân hóng mát. Tín đồ Koloskov cũng chỉ vì những đòi hỏi nhỏ mọn tương tự mà nhịn ăn hết ngày thứ 25 và sau đó hết sống luôn!

Chính vì để ngăn ngừa những trường hợp Koloskov mà các quản đốc khám đường đều được học tập chỉ thị chống tuyệt thực, với những phương pháp sau:
  1. Kiên nhẫn đối phó (sự lơ là, bỏ rơi như đã thuật ở trên)

  2. Cô lập tuyệt đối: Không gì thất vọng cho một kẻ tuyệt thực bằng bị bưng bít, có chết cũng không ai hay biết.

  3. "Bơm" thực phẩm, bó buộc nuốt: Có những trường hợp không thể để cho nạn nhân được quyền nhịn đói đến chết, do đó, bắt buộc hắn phải tiếp nhận thực phẩm, rút kinh nghiệm "bơm" đồ ăn cho gia súc bệnh. Từ 1937, phương pháp "bơm" sử dụng rộng rãi nhưng vẫn thường xuyên bí mật. Hồi các đảng viên Xã hội tuyệt thực tập thể ở khám Yarolav bất cứ kẻ nào nhịn qua ngày thứ 15 là phải "bơm" thức ăn lỏng.

    Nếu hiếp dâm là bị xúc phạm về trinh tiết thì "bơm thực phẩm" nhằm bẻ gãy ý chí: "Mày không muốn ăn để được chết thì tụi tao phải tìm đủ cách tống thức ăn vô cho mày không được chết". Một dụng cụ được dùng để nạy hàm răng ra, giữ chặt. Một đầu ống sẽ được đẩy vô cuống họng. "Nuốt!". Nếu không nuốt sẽ tống sâu xuống thực quản. Thực phẩm đổ vô không có cách chối bỏ. Để đề phòng mửa ra, dạ dày sẽ được thoa bóp. Nó sẽ sung sướng tiêu thụ luôn chớ đâu có tuyệt thực. Ngoài ra còn có cách bơm đằng hậu môn, nhỏ vô lỗ mũi.

  4. Đe doạ chống án: Đối với nhà nước cách mạng, bất cứ hoạt động nào cản trở guồng máy chạy đều đặn đều bị coi là phản động. Trong tù còn phản động ắt phải nặng thêm, án nặng thì chồng án nữa.
Từ giữa 1957 trở đi có chỉ thị rõ ràng: Xét vì tuyệt thực là một hành động bất hợp pháp, phản động nên ban quản đốc không chịu trách nhiệm về những trường hợp chết vì tuyệt thực. Để bảo vệ các điều tra viên, thời gian tuyệt thực không được kể. Thế là hết, dọn chết bằng sự nhịn ăn từ nay chỉ thiệt vào thân: nhà tù vô trách nhiệm mà ông điều tra viên cũng vô trách nhiệm luôn.

Arnold Rappoport đang tuyệt thực để phản đối điều tra viên trong khám Archangel thì có chỉ thị trên. Ông ta quyết làm mạnh, không đụng tới giọt nước trong 13 ngày liền ở cát-xô biệt giam. Không có bác sĩ coi sóc, một y tá lâu lâu ngó qua. Không ai buồn hỏi lý do tuyệt thực mà coi như không hay biết. Nhà lao chỉ ra lệnh cũ soát cát-xô thiệt kỹ, lòi ra mớ thuốc rê, ít cây quẹt! Arnold chuẩn bị tuyệt thực từ lâu, giảm dần khẩu phần và 1 tuần lễ chỉ ăn sơ sài mấy món nhẹ nên cơ thể mới tập quen lần. Ngày thứ 13 tưởng có thể nhìn xuyên gan bàn tay nhưng đầu óc nhẹ nhàng tỉnh táo. Chừng được 1 tuần nữa thì giám thị thương hại rỉ tai: "Đừng dại chết chỉ uổng mạng. Tốp ngay đi. Sao không nhịn trước khi có chỉ thị?". Arnold hiểu ngay tuyệt thực tối vô ích nên chịu ăn trở lại và được nhà lao đãi săng-úych, rượu cá, khiêng cáng trả về xà lim chung.

Mấy bữa sau cuộc thẩm vấn lại tiếp diễn nhưng ông điều tra viên hết dám hành hạ vì biết can phạm sẵn sàng chết thực. "Phải vậy mới coi được chớ. Đáng mặt chó sói". Arnold bèn cảm ơn: "Không dám! Nhưng làm chó thì không đời nào!".

Arnold Rappoport sau này còn biểu diễn một màn tuyệt thực ở khám tạm Kotlas, đòi hỏi thẩm cung lại, không chịu lên xe, nhưng thất bại một cách hài hước! Nhịn ăn sang ngày thứ 3, lính gác vô hối: "Sửa soạn lên xe" thì ông ta phản đối: "Mấy ông không có quyền. Tôi đang tuyệt thực!" Miễn giải thích, 4 đứa xông lại liệng Arnold vô bồn tắm, xách cổ ra trạm gác. Thấy "tranh đấu" không xong ông ta bèn ríu ríu sắp hàng lên xe. Vả lại sau lưng còn có lưỡi lê và bầy chó trận!

*


Có lẽ sau Arnold Rappoport mốt tranh đấu tuyệt thực kiểu tiểu tư sản [3] không doạ nổi nhà nước Cách mạng! Cứng đầu đến mấy cũng chỉ có thể tranh đấu bằng cách tự hủy mình. Nhưng tự sát là chống đối hay chỉ là đầu hàng tiêu cực?

Dù có bị nhốt chung một khám, các đảng viên Cộng sản và phe Trotskyite vẫn không chịu ủng hộ chiến thuật tuyệt thực. Họ còn làm suy yếu đi vì lúc nào cũng sẵn sàng tuyệt thực mà bỏ cuộc cũng quá dễ. Như L.N. Smirnov, một thủ lãnh phe Trotskyite tuyên bố tuyệt thực trước khi ra toà Mạc Tư Khoa nhưng vừa vặn được 4 ngày!

Bản chất quá bén nhạy của họ là vậy. Thời nào nước nào chẳng có những phần tử tương tự? Nhưng chống tuyệt thực đắc lực nhất chỉ có chế độ Xô Viết, xét vì nơi đây dư luận quần chúng chỉ là một con zê-rô. Chế độ ngục tù được thể càng xiết mạnh thì tuyệt thực là thảm bại! Thời gian qua, võ khí tuyệt thực bị quên luôn, chẳng ai dám liều. Với đám cai ngục nhắc đến tuyệt thực là cả một sự ngu ngốc.

Cuối cùng, năm 1960 tù thường phạm Gensdy Smerlov tuyên bố tuyệt thực dài hạn trong khám lớn Leningrad. Tình cờ ông Công tố ghé ngang xà lim hỏi:

"Tự hành hạ mình để làm gì?"

Có lẽ quá ngạc nhiên vì câu trả lời ngớ ngẩn: "Với tôi Công lý quý hơn sinh mạng" nên ngay sáng hôm sau "người của Công lý" Smelov được đưa đi nhà thương – nhà thương điên Leningrad!

*


Kể từ 1937 đầu gai bắt đầu nhọn hoắt, các khám đường bắt đầu tên mới "Trại cô lập đặc biệt". Những gì gọi là nhược điểm còn lại được thanh toán dứt khoát. Tù chính trị đa số là đảng viên Xã hội cũng hiếm dần và mệt mỏi cùng độ. Vụ tuyệt thực đầu năm 1937 ở Trại Cô lập Yarolav là một cố gắng vùng lên giờ chót. Họ cũng đòi hỏi tái lập chế độ đặc biệt (đại khái bầu cử đại diện, tự do đi lại giữa các phòng,) nhưng thực sự chẳng hy vọng bao nhiêu.

Qua ngày nhịn ăn thứ 15 thì được bơm cháo vô bao tử và tạm thời cũng đạt được phần nào mục tiêu: mỗi ngày đi dạo 1 giờ, được coi báo địa phương, được giữ giấy bút. Ngược lại Ban Quản đốc Trại tịch thu quần áo, bắt buộc phải mặc đồ tù. Thế rồi giờ đi dạo rút xuống nửa giờ, rồi 15 phút. Cũng đành chịu. Họ là những tù cũ, phần đông đang ở án 10 năm, 15 năm. Có người từng tranh đấu chống chế độ tù đày từ thời tiền Cách mạng và từng nếm mùi chiến thắng. Họ tranh đấu cốt để nới rộng chế độ ngục tù, nhưng giờ đây chế độ càng khắc nghiệt, bóp nghẹt dần mà họ càng suy yếu thêm, kể cả lớp đồng chí trẻ biết vô Đảng và hoạt động lén lút là thế nào cũng tàn đời trong ngục.

Cuộc tranh đấu có quần chúng hưởng ứng đâu mà năm ấy sang năm khác không tàn rụi trong tẻ lạnh. Quần chúng im lặng, thản nhiên. Báo chí có nhắc đến "bọn Xã hội" thì cũng chỉ miệt thị và kêu gọi mạnh tay đào thải bọn mà Lãnh tụ đã liệt vào hạng đối thủ nguy hiểm nhất. Còn hy vọng gì ở đám quần chúng lâu nay không thèm tín nhiệm bầu cho người của Đảng một lá phiếu vào Quốc hội? Sau cùng báo chí cũng không thèm nhắc nhở đến đám người bất lực, bỏ đi, có cũng như không.

Đối với quần chúng còn tự do ở ngoài đời thì bọn đảng viên Xã hội Nga là một thứ cũ mèm, thuộc hẳn về quá khứ. Lớp trẻ không ngờ còn sống sót bọn Men-xơ-vích, bọn Cách mạng Xã hội! Trong khi đó họ run rẩy nằm xà lim các trại Cải tạo, các trại Cô lập. Họ nằm suy nghĩ trong bóng tối, sau lớp cửa sổ "đóng nút" bít bùng. Tại chủ trương sai, lãnh tụ dở? Tại chiến lược, chiến thuật hỏng, và hành động cũng sai lạc? Rút cục chẳng được gì, cũng bất động nằm đây và kể như tàn đời.

Nhưng dù sao ở trong tù họ cũng đã tranh đấu. Dĩ nhiên họ tranh đấu cho chúng ta, cho những người có thể bị tù. Để cho ta thấy ở tù phải như thế nào và nhà tù phải đối xử như thế nào. Phải chi họ chiến thắng thì mọi sự đã khác hẳn, và chẳng cần viết Quần đảo ngục tù làm gì!

Họ thất bại. Họ bị đánh bại nên chẳng bảo vệ được thân, chẳng làm gì được cho ta.

Phe Xã hội đã bị bao vây trong ngục tù nhưng họ trót nhận nhãn hiệu GPU khoác cho là "chính trị phạm" để tự tách rời ra, không chịu đứng chung với những bọn mà GPU cũng cho là hữu phái, Đảng viên Dân chủ Lập hiến chẳng hạn là hữu phái, là bọn KR coi là "chính trị phạm"! Cũng không thể coi là "chính trị phạm" bọn tù vì lý do tôn giáo, bọn không có lập trường tả hữu. Chính vì sự cố tình tách rời, không chịu hoà đồng với các nhóm hữu phái mà phe Xã hội đã vô hình trung "bật đèn xanh" cho Điều 58 Hình Luật sau này mà chính bọn họ cũng bị nghiến nát luôn.

Do đó ngay trong tù đã có hố sâu ngăn cách các "chính trị phạm" và bọn phản cách mạng. Cùng đau khổ ở Solovetsky mà các "chính trị phạm" Xã hội có coi dân KR ra gì. Dĩ nhiên với bọn KR thì các đấng "chính trị phạm" bất quá chỉ là một đám ô hợp, chia bè phái, chỉ lớn họng đòi "chế độ đặc biệt" cãi cọ vì quyền lợi riêng trong khi cả đại khối đói khổ. Không hiểu sao dưới thời Nga hoàng phe Xã hội tranh đấu mạnh thế mà dưới chế độ Xô Viết bọn họ lại mềm yếu, ngoan ngoãn đến thế!

Với những thành phần mà Xã hội coi là tả phái tức các đảng viên Cộng sản là đảng viên Trotskyite thì đến lượt phe xã hội lại là một bọn phản cách mạng, cũng là KR như bất cứ nhóm KR nào khác! Cùng nhốt chung khám nhưng họ đứng tách rời hẳn ra, đứng trên hẳn. Họ còn oán ghét, uất hận và đổ tội lên đầu phe Xã hội, coi như nguồn gốc của mọi bất hạnh mà nhà tù có thể giáng lên đầu họ.

Đó là đặc điểm của nhà tù dưới chế độ Xô Viết: dưới thời Nga hoàng các phe nhóm chính trị đoàn kết bao nhiêu thì nay phân tán, tự cô lập bấy nhiêu. Phe Trotskyite đứng biệt lập, không chịu đi chung với Cộng sản và Xã hội. Phe Cộng sản – những cán bộ bị nhà nước tống giam – hoàn toàn không tranh đấu. Không lẽ chống lại chế độ của mình, nhà tù của nhà nước? Nhưng ở các trung tâm cô lập cũng như khám giam dài hạn, tù nhân có Đảng vẫn bị đối xử nghiệt ngã, tệ hại hơn nhiều. Thông lệ tù Xã hội chỉ có án là xong, không cần phải dùng áp lực cũng sẵn sàng cung khai không giấu giếm quan điểm cá nhân. Tù Cộng sản không quan điểm cá nhân, nhà nước muốn bắt họ nhận tội không còn cách nào khác hơn là phải làm cho bật ra bằng được bản án tự thú.

*


Xin lưu ý điều này: mặc dù hệ thống trại cải tạo đã mọc lên như nấm khắp nước nhưng các khám giam tù dài hạn vẫn tồn tại nguyên vẹn, với đầy đủ truyền thống tù ngục. Hệ thống quần đảo có đóng góp nhiều và thật giá trị cho việc giáo dục quần chúng nhưng chưa đủ. Phải có hệ thống TON – những khám đường đặc biệt bổ túc.

Có phải bất cứ ai bị cuốn vào guồng máy Nội An khổng lồ cũng làm dân quần đảo được đâu? Dân ngoại quốc nhiều người biết, những công dân Xô Viết có tên tuổi, những người cần giam kín không thể để cho ai thấy, nhân viên An ninh, Mật vụ bị sa thải không thể để xuất hiện sờ sờ. Để ló mặt ra dám ảnh hưởng tai hại cho chế độ! Cũng phải tách rời bọn đảng viên Xã hội đầu não, luôn miệng đòi hỏi chế độ đặc biệt. Khoảng thập niên 1950 các khám đường đặc biệt còn tiếp nhận những thành phần có thể xách động trong quần đảo, bọn tù tư pháp thứ trộm cắp cứng đầu không cải huấn nổi. Có những người lãnh án đi trại Cải tạo nhưng vẫn vô tù đặc biệt. Thể chất quá yếu, chưa lao động đã bỏ thây trong đảo là thoát khỏi phải trả nợ tù tội dễ đến thế sao? Nhà nước đành phải tống vô hệ thống TON nuôi báo cô vậy! Trường hợp vô quần đảo mà không lao động được, bọn vô tích sự cũng bị đưa vô hệ thống TON. Chẳng hạn lão xẩm mù Kopeilin 70 tuổi ngày ngày ưa ngồi giữa chợ Yuryevets bên sông Volga hát nhảm cũng lãnh 10 năm cải tạo vì tội KRD. Một lão mù, già nua như vậy thì đóng góp được gì cho trại Cải tạo mà đưa đi?

Hồi đó tất cả các khám đường cũ thừa hưởng của triều đại Romanov đều được nhà nước canh tân, trùng tu lại để tổ chức thật chu đáo, chặt chẽ. Chẳng hạn khám lớn Yaroslav xây kiểu xưa thật kiên cố (cửa lớn như bọc thép, trong xà lim cái gì cũng đóng cứng xuống sàn) chỉ phải cải sửa nhẹ nhàng: cửa sổ làm thêm "nút đậy" bít bùng, dựng hàng rào chia lô sân chơi, dẹp cây cối vườn cỏ để tráng nhựa hết. Mấy tu viện cũ phải chỉnh trang lại cho thích hợp công dụng mới, trang bị "chuyên môn" là đủ. Xét ra công tác cải biến cũng không tốn kém vì tu viện là nơi tự hãm mình và nhà tù để giam người thì kiến trúc đại khái cũng như nhau.

Một số ngục dữ của chế độ Nga hoàng phải dùng làm chứng tích thời đại cho du khách vô coi (như nhà ngục pháo đài Leningrad hay ngục Schlusselburg kế bên) thì để bù lại phải nới rộng những khám lớn cũ – như khám Vladimir – chỉnh trang thêm. Phải có đủ diện tích và tiện nghi để sẵn sàng tiếp nhận số phạm nhân gia tăng trong nhiều năm tới. Cùng với Tobolsk, phải có Verknhe Uralsk, Aleksandrovsk, nếu khám Orel bị hư hại nhiều vì Đệ nhị Thế chiến thì phải có khám Dmitrovsk Orlovsky khang trang, tối tân và kiên cố hơn.

*


Xét về phương diện thực phẩm thì thập niên 1920 tương đối dễ chịu đối với "chính trị phạm": bữa trưa còn có ít thịt, rau tươi, sữa còn mua được dưới Câu lạc bộ. Thời kỳ 1931-1933 khẩu phần chính trị phạm cũng sút dần: thiếu máu, chóng mặt là bệnh quá thường. Phạm nhân Korneyev ở khám đặc biệt Vladimir năm 1947 cả ngày kêu đói: 450 gam bánh mì, 2 viên đường, 2 đĩa "súp" vơi vơi. Chỉ có một thứ được xài không giới hạn là nước sôi. Tuy nhiên tù còn được ăn vậy là khá, dân ở ngoài còn chết đói mà. Những năm tương tự, nhà nước cho phép thân nhân gởi đồ tiếp tế thả giàn. Miễn có để mà gởi.

Chế độ nhà tù Xô Viết ánh sáng cũng giới hạn. Những năm 1930-1940 xà lim nào cũng chỉ sáng lờ mờ vì hệ thống "nút chặn" cửa sổ, cửa kính đục, giàn lưới thép gài phía ngoài. Phải tối tăm tù mới xuống tinh thần! Đọc sách báo chỉ tổ hại mắt. Nhưng đêm đến lại khác! Đèn điện phải chong sáng trưng, chói chang suốt đêm.

Ánh sáng đã vậy thì không khí cũng giới hạn luôn. Theo thông lệ những ô cửa sổ chỉ mở một phần, chỉ trong lúc tù đi làm vệ sinh. Đi dạo thì mỗi nhà tù mỗi khác: từ 15 tới 45 phút. Đất không được đụng tới, khỏi có vấn đề trồng cây, làm vườn. Mọi sự thăm viếng của thân nhân bãi bỏ từ 1937, cho đến bây giờ vẫn chưa được phép. Về thư từ thì một tháng hai lần có thể viết thư ra cho những người ruột thịt nhưng nhận thư thì có khi hàng năm không có 1 cái. Ở Kazan có lệ thư nhà gởi tới sau khi đọc phải nộp cho Ban Quản đốc trong ngày hôm sau.

Thông thường người nhà vẫn được phép gởi tiền và tù có thể dùng tiền đó mua thực phẩm, đồ thực dụng ở Câu lạc bộ. Dĩ nhiên vấn đề có chút đồ đạc trong xà lim là hãn hữu. Ở Suzdal nữ phạm nhân Adamova kể như có phước lớn mới có nổi một giường cây và một bàn cây nho nhỏ. Các xà lim khác đồng loạt ghế sắt xếp vô vách và bàn chôn chân cứng dưới sàn!

Korneyev phân biệt 2 giai đoạn ở khám đặc biệt Vladimir: năm 1947-1948 còn được xài đồ riêng, ban ngày có quyền ngả lưng và ít khi lính gác nhòm lỗ khoá. Giai đoạn 1949-1953 thì xà lim hai khoá, giám thị và trưởng khu mỗi người giữ một. Cấm nằm ban ngày, cấm nói chuyện thành tiếng. Nệm nhà lao phát, cấm giữ đồ riêng. Mỗi năm được phép viết thư 2 lần, mảnh giấy bằng nửa tấm bưu phiếu mà chỉ thông báo trước 1 ngày, không kịp viết là bỏ luôn. Xà lim bị lục xét hoài, tù phải đứng sắp hàng, lột trần truồng để tra xét. Mọi sự đi lại, thư từ giữa các phòng giam cấm triệt để đến nỗi mỗi phòng đi cầu một giờ riêng và sau đó lính gác xách đèn vô rọi kỹ cầu tiêu để phát giác "thông điệp" mật. Viết bậy lên vách nhà cầu và cả xà lim đi nằm cát-xô.

Chế độ "nằm cát-xô" sử dụng tối đa ở các khám đặc biệt thuộc hệ thống TON. Ho lớn có thể bị. Tại sao không trùm mền rồi ho sau? Đi lại trong phòng cũng cấm. Bộ tính sắp đặt chống đối? Đi giày lẹp kẹp cũng cấm. Ở Kazan tù đàn bà bị phát giày đàn ông ráng chịu, coi chừng mà đi.

Theo Ginzburg thì không phải phạm lỗi mà tù đi cát-xô đúng kế hoạch lần lượt tống cát-xô bằng hết để mỗi người đều có dịp nếm mùi vị biệt giam. Đau khổ nhất là vô kỷ luật còn bị dộng thêm 20 ngày cát-xô nữa. Thế nào là vô kỷ luật? Kozynev chỉ đi lại trong cát-xô cũng bị phạt thêm 5 ngày!

Cố nhiên nằm cát-xô là phải trân mình chịu lạnh. Phải cởi giày, mặc đồ lót và nằm bệt trên sàn nhà có bụi có đất có sình và vũng nước nữa! May mắn cát-xô Kazyrev có chiếc ghế đẩu. Mới đầu đêm về lạnh cóng người, lúc nào cũng tưởng sắp chết rét đến nơi. Cố mãi mới học được phép ngủ ngồi trên ghế đẩu và tự nhiên thấy nảy nở một sức chống đối nội tâm. Mỗi ngày 3 ca nước nóng và 1 lần phát bánh mì: cỡ trên dưới 300 gam. Có ông giám thị tử tế còn kẹp "bất hợp pháp" cho 1 viên đường. May quá, đếm bánh mì thấy bản án thêm 5 ngày vừa dứt.

Kinh nghiệm quá nên biết mình đã mãn hạn phạt, Kozyrev cố lặng thinh. Tai rất thính, rõ ràng nghe họ bảo nhau "ngày thứ 6 hay số 6" gì ở ngoài cửa cát-xô nhưng tuyệt đối không lên tiếng. Dại dột hỏi: "Sao qua ngày thứ 6 rồi, các ông chưa cho tôi ra?" là bị khép ngay vào tội vô kỷ luật. Bất mãn, phản đối hả?

Quả nhiên cứ ngoan ngoãn, bình tĩnh ngồi đợi thì có người mở cửa cho ra. Theo Kozyrev đây là một biện pháp để đo thật chính xác sự khuất phục của phạm nhân, coi đã "vô khuôn khổ" tức cong lưng đến mức độ nào, xét vì so với cảnh biệt giam trong cát-xô thì được giam chung ngoài xà lim quả là thiên đường.

Sau chầu cát-xô tai Kozyrev bị điếc đặc tới nửa năm lại thêm chứng nổi mụn cuống họng. Gã bạn đồng xà lim chỉ vì cát-xô nhiều quá hoá điên cho nên hắn bị nhốt chung với 1 thằng khùng trên một năm liền. So với hệ thống TON thì ngục dữ Schlusselburg thời Nga hoàng có 3 thằng điên đã ăn nhằm gì!

Khi phạm nhân đã chịu khuất phục tới cỡ Kozyrev thì phải hiểu là mũi gai tù ngục đã dần dà được mài nhọn tới mức tối đa. Đầu gai đằng kia có nghĩa lý gì, phải không?

Không hẳn vậy, mỗi người quan niệm một khác. Thiếu gì dân trại Cải tạo được về nằm khám đặc biệt lấy làm sung sướng như đi nghỉ mát. Như Vladimir B. Zeldovich ở trại Abez và Anna P. Skripnikova ở trại Kemerovo được chuyển về khám đặc biệt Vladimir năm 1956. Nữ phạm nhân Anna không ngờ ở đây còn được phép 10 ngày 1 lần làm đơn khiếu nại [4] còn có thư viện có cả sách ngoại quốc và lại cho coi danh sách cả năm trước.

Luật lệ nước Nga vốn "cao su" ở chỗ nhiều nữ phạm nhân (có chồng tù) bị án tù, mà chỉ cần một lệnh ban ra cả ngàn con người bị đưa vô quần đảo cái một. Không cần xử lại, khỏi giải thích (nếu giải thích thì có thể nói trại Kolyma chưa khai thác vàng đủ số ấn định). Vì vậy khám đường thực sự chỉ là cửa ngõ để nhập trại.

Đến đây mới là phần quan trọng trong cuộc đời tù tội. Đang yên lành trong cuộc sống thường dân phút chốc mất tự do. Chịu đựng đủ mọi cực hình, bị tẩy sạch tất cả những gì còn bám víu trên người. Như một chậu nước sông bị khuấy động lên rồi đi từ từ cho lớp bùn đóng xuống đáy.

Tay thằng tù chìa ra mân mê từng hòn đất ngoài vườn rau, vườn hoa. Giờ đây chẳng còn gì, ngoài nhựa đường! Hắn muốn ngẩng đầu lên, ngước nhìn Thượng Đế. Không được, cấm ngẩng. Phải cúi xuống! Hắn muốn lắng tai nghe một tiếng hót của loài chim nhỏ ngoài khung cửa sổ. Than ôi, cũng không được. Chỉ thấy bít bùng! Những lúc đầu óc tỉnh táo cũng muốn ghi nhận vài chữ trên tập giấy chớ. Còn ghi chép được là may mắn lắm, với điều kiện giấy vở phải bỏ tiền ra mua ở Câu lạc bộ và viết xong – ghi chép bất cứ cái gì – phải nạp cho Văn phòng Quản đốc nhà lao giữ gìn, giữ đến muôn đời.

Nếu cuộc đời thằng tù nằm khám đặc biệt TON có thể ví như một chậu nước sông đục ngầu để bộ máy tù ngục dần dà làm công việc gạn đục khơi trong thì tinh thần hắn đã gạn lọc được thực sự, hay giản dị là hắn đã đánh mất luôn, không còn tinh thần nữa. Liệu còn giữ nổi tinh thần không? Đó câu hỏi vương vấn trong đầu óc thằng tù. Sáng dậy ngài mở mắt ra là thấy trước tiên cặp mắt ngơ ngáo, thất thần của thằng bạn khùng cùng xà lim thì không thể không tự hỏi đời mình sẽ ra sao, liệu rồi có thế này không ,

Để giữ vững tinh thần, cho khỏi phát điên Nikolai Z. Kozyrev đã phải rèn luyện ý chí, luôn luôn hướng đầu óc vào điạ hạt chuyên môn. Là một nhà thiên văn trứ danh, Kozyrev không dám cho đầu óc nghỉ ngơi. Bắt nó phải suy nghĩ về vũ trụ, phải hướng về trăng sao, trời đất, phải lý luận về thời gian, ý nghĩa của thời gian. Đầu óc bận rộn hẳn khi quyết định bước sang địa hạt Vật lý mới toanh. Có vậy mới tồn tại được trong khám đặc biệt Dmitrovsk.

Suy nghĩ, tính toán nhẩm mãi rồi cũng phải kẹt. Bao nhiêu con số dài đặc, bao nhiêu sự kiện mới chồng chất mỗi ngày đầu óc nào nhớ cho nổi? Phải có gì để ghi chép, phải lưu lại trên giấy tờ, phải có tài liệu tham khảo. Chao ôi, ngần ấy thứ lấy đâu ra trong cát-xô biệt giam trơ trụi, suốt đêm hơi đèn dầu hôi ngột ngạt và một con chim nhỏ bay không lọt này? Không còn cách nào hơn, Kozyrev tự nhiên quỳ xuống cầu nguyện: "Con đã làm hết sức mình. Cầu xin Thượng Đế cứu vớt con".

Vì tin tưởng nên cầu nguyện đó thôi. Hy vọng gì? Cỡ nửa giờ sau lính gác gõ cửa cát-xô. Đến lượt Kozyrev được quyền mượn sách, mỗi lần giữ mười ngày. Khốn nạn, thư viện nhà tù này có sách gì! Quanh quẩn vài cuốn tuyên truyền rẻ tiền, riêng tiểu thuyết Hoà tấu đỏ sẵn cả chục cuốn. Lính gác liệng vô là giữ lấy đọc chớ đâu có quyền lựa chọn. Có biết thư viện có những cuốn nào đâu. Nào ngờ Kozyrev bữa đó được liệng vô cuốn Vũ trụ Vật lý học.

Thư viện nhà tù Dmitrovsk mà có cả Vũ trụ Vật lý học? Không thể ngờ nó nằm sẵn từ hồi nào và đúng lúc cần nhất thì nó nằm ngay trong lòng tay! Kozyrev sững sờ cầm cuốn sách, ngơ ngẩn nghĩ tới lời cầu nguyện. Thế rồi như bắt được vàng, Kozyrev vồ lấy đọc nghiến ngấu, vồ vập. Đọc đến đâu ghi nhận ngay trong óc, nhớ như in. Vừa duyệt lại mớ sự kiện mới nảy nở trong đầu, vừa lưu giữ lại để ứng dụng sau. Còn gì quý bằng? Hai ngày liền Kozyrev thả hồn vào cả một vũ trụ vật lý và sung sướng làm sao còn cả 8 ngày liền tha hồ nghiền ngẫm, sắp đặt! Đúng lúc đó tình cờ Quản đốc khám đi thanh tra, ghé ngang cát-xô. Cặp mắt cú vọ của hắn nhìn cuốn sách chằm chặp rồi ra lệnh:

"Thằng cha này Thiên văn học mà? Đọc sách này không được! Tịch thu, đổi cho nó cuốn khác".

Thế là Kozyrev thẫn thờ nạp trả lại. Dịp may đến và đi hoàn toàn bất ngờ! Nhưng hai ngày đọc Vũ trụ Vật lý học cũng đủ để Kozyrev ôn lại toàn bộ lý thuyết mới để sau này tiếp tục khai triển thêm trong trại Cải tạo Norilsk. Trường hợp Kozyrev điển hình cuộc chiến đấu giằng co giữa tinh thần con người và song sắt nhà giam.

Nhưng này, bữa nay có chuyện gì lạ mà nghe chừng phía ngoài xà lim xôn xao? Gã gác khám mở khoá sắt lách cách. Rồi đến ông trưởng khu hắc ám bước vô, tay cầm bản danh sách dài. Cuộc vấn đáp nhanh như máy kế tiếp, hết người này đến người khác,

Nghe đây, tên gì, họ gì, lót chữ gì? Ngày sinh, nơi sinh? Tội gì? Án bao nhiêu, chừng nào mãn? Quần áo, đồ đạc có gì lấy ra đi, chuẩn bị lẹ, đi liền.

Thế là đi. Lại đi. Chuyến đi, con tàu đang nằm chờ. Mà biết đi đâu đây? Lần này đi, biết có ngày về không? Trời đất ơi, có chắc gì!

Nhưng bảo đi là đi. Còn sống được thì còn về. Về để tiếp nối Quần đảo ngục tù. Phần Một Kỹ Nghệ Ngục Tù đã qua rồi, thì bước sang Phần Hai: Đến Đi, Đi Đến miễn còn sống nổi.



[1]Strakhovich vẫn còn giữ nguyên vẹn những bản thảo lý thuyết Cơ học ghi chép trong khám lớn Leningrad. Ở tù ra vẫn khai thác chúng khi được nhà nước giao công tác sáng chế loại động cơ phản lực đầu tiên của Liên Xô.
[2]Theo lời tự thuật của Krasilov (sau này ngồi ghế Công tố đã lên án tử hình Đức Tổng Giám mục Veniamin) thì chính hắn đã được đọc Tư bản luận ở trong tù. Tuy nhiên Krasikov chỉ bị giam đúng 1 năm là được phóng thích.
[3]Theo nhân chứng Cách mạng Xã hội Olitskaya thì các đảng viên Cộng sản Đệ Tam hay Đệ Tứ đều chống lại phương pháp tuyệt thực trong tù. Dưới thời Stalin, đảng viên Trotkyste nào cũng không chịu sử dụng đường lối nhịn ăn đến chết như các phe nhóm quốc gia.
[4]Do đó Anna Skripnikova mới nổi hứng, biết kháng thư gửi đến… Liên Hiệp Quốc!

Nguồn: Quần đảo ngục tù (The Gulag Archipelago) của Solzhenitsyn. Bản dịch Ngọc Tú - Ngọc Thứ Lang. Cơ sở Văn Khoa Trí Dũng xuất bản lần thứ nhất tại Việt Nam. Bìa Nguyễn Hè. In tại Vân Long 68/12A Trần Quang Khải, Sài Gòn. Chủ trương xuất bản: ông Đỗ Đăng Đảng. Giấy phép cuốn 1: số 5122/BDVCH/PHBCNT/ALP/TP cấp 21.9.1974. Giấy phép cuốn 2: số 5240/74/BDVCH/PHBCNT/ALP/TP cấp ngày 1.10.1974. Số lượng 2.500 ấn bản – phát hành ngày 7.10.1974. Tổng phát hành Nam Cường, 185-187 Nguyễn Thái Học, Sài Gòn, ĐT: 23.867. Giá: 1.200đ. Bản điện tử do talawas thực hiện.

Share/Save/Bookmark

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Related Posts with Thumbnails