Thứ Năm, 18 tháng 6, 2009

Xa lộ thông tin chỉ còn lề phải - Nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21 tháng Sáu (2)

Nguồn : Talawas
Tác giả: Thiện Ý

Nhà báo là chiến sĩ

Nhà báo được Đảng Cộng sản vinh danh là “những chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Vinh dự này khiến cho nhiều người không tích cực trau giồi nghề nghiệp mà chỉ cố nâng cao lập trường tư tưởng. Cứ đọc lại báo chí Việt Nam hồi Cải cách Ruộng đất và chống Nhân văn - Giai phẩm sẽ thấy các chiến sĩ xung kích đã bóp méo sự thật, vu khống trắng trợn như thế nào để biến hằng ngàn người dân vô tội trở thành bọn cường hào gian ác, biến ông Nguyễn Hữu Đang, nhà yêu nước lão thành (người thiết kế và chỉ đạo thi công lễ đài Ba Đình cho kịp buổi lễ Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945), nhà báo, học giả Phan Khôi, nhà báo, nhà văn Thụy An… trở thành những tên gián điệp nguy hiểm!

Những cây bút không “xung kích” theo đúng mục tiêu của Ban Tuyên huấn Đảng đều bị loại bỏ từng thời kỳ. Sau giải phóng miền Bắc, nhà báo Hiền Nhân và nhiều cây bút cũ của Hà Nội phải cất bút. Sau khi báo Tin Sáng “hoàn thành nhiệm vụ”, đội ngũ này được phân loại, chỉ cho một số ít người được tiếp tục làm báo. Chủ nhiệm Ngô Công Đức, Tổng Biên tập Hồ Ngọc Nhuận được mời một cách lịch sự đi làm công việc khác. Ông Nhuận được làm Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc TPHCM, nghe có vẻ sang trọng nhưng là để vô hiệu hóa cây bút báo chí sắc bén và trung thực này. Nhiều cán bộ báo chí từ “phong trào” nhưng trong quá trình làm việc tỏ ra không tuân thủ sự chỉ đạo của Tuyên huấn Đảng cũng bị loại khỏi “đội ngũ xung kich” như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Kim Hạnh, Lê Văn Nuôi… Tổng Biên tập Nguyên Ngọc, vị đại tá, nhà văn, vì viết bản Đề dẫn đòi mở rộng tự do sáng tác và cho đăng Nguyễn Huy Thiệp phơi bày ung bướu trong cơ thể “xã hội chủ nghĩa tốt đẹp”, phải bị bãi chức. Chỉ vì bênh vực ông Nguyên Ngọc, nhà thơ kiêm nhà báo Bùi Minh Quốc đã bị khai trừ khỏi Đảng và… treo bút.

Năm 1994, làng báo Việt Nam xảy ra chuyện ầm ĩ ở báo Lao Động. Bốn cán bộ cốt cán của báo là Tổng thư ký tòa soạn Lý Quý Chung, Trưởng ban Kinh tế - Xã hội Trần Trọng Thức, Chánh văn phòng Nguyễn Hữu Tính, cây bút phiếm luận Ba Thợ Tiện (tức nhà thơ Hoàng Thoại Châu) đề nghị Tổng Biên tập chọn giữa bốn người họ, hoặc ông Hồng Đăng Phó Tổng biên tập, vì ông này hách dịch tới mức anh em không chịu nổi. Hồng Đăng phản công lại bằng cách bắn tin với Tổng cục 2 (Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng) rằng ở báo Lao Động có một nhóm âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” mà người cầm đầu là Lý Quý Chung, nguyên Tổng trưởng Bộ Thông tin chính phủ Dương Văn Minh. Nhóm này được Tổng Biên tập báo Lao Động bao che. Ở thời điểm Liên Xô và Đông Âu vừa sụp đổ, lời vu cáo này đã làm Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam lo sợ, vội vàng họp ngay và có quyết định phải tìm mọi cách vô hiệu hóa âm mưu này! Bộ Chính trị cho rằng Tổng Biên tập báo này có 4 khuyết điểm: 1. Đưa vào cơ quan báo nhiều người không đảm bảo an ninh chinh trị: Lý Quý Chung - Bộ trưởng chế độ cũ, Trần Trọng Thức - nhà báo cũ, họa sĩ Chóe ở tù cải tạo hơn 10 năm, nhà thơ Hoàng Hưng ở tù 3 năm… (Tuy nhiên, ông Lý Quý Chung có nhận xét hoàn toàn ngược lại khi đánh giá đội ngũ này. Trong Hồi ký không tên xuất bản năm 2004 ông cho rằng cả đời làm báo chỉ, đến khi ở báo Lao Động ông mới được cộng tác với “một đội hình đẹp như mơ”, tất cả đều rất hoàn hảo về nghề nghiệp!) 2. Những năm qua, Lao Động có nhiều loạt bài đã làm cho Bộ Chính trị lo lắng, như trong một tháng mà báo này phê bình đến 4 ông bộ trưởng. Một chính phủ có 4 bộ trưởng bị bêu xấu thì làm sao còn uy tín trước nhân dân và nước ngoài? 3. Là tờ báo trung ương, tại sao Ban thư ký tòa soạn của báo lại đặt ở Sài Gòn? Đây là vi phạm nguyên tắc rất nghiêm trọng. (Thật ra việc này không phải làm chui. Từ ông Nguyễn Đức Bình, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách khối Tuyên huấn - Văn hóa - Văn nghệ, ông Nguyễn Văn Tư chủ tịch và toàn bộ ban lãnh đạo Tổng Liên đoàn Lao động đều đã đến tham quan hệ thống điều hành hoạt động tòa soạn được trang bị kỹ thuật hiện đại, làm cho 2 trụ sở Sài Gòn - Hà Nội như cùng trong một ngôi nhà.) 4. Cuối cùng là tình trạng mất đoàn kết. Bộ Chính trị cho rằng phải thay Tổng Biên tập và chuyển những người có “nghi vấn chính trị” làm công tác khác.

Sau một thời gian xem xét, ông Nguyễn Văn Tư, Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động đã kết luận một cách đúng đắn và dũng cảm rằng “không có âm mưu chính trị, chỉ có mất đoàn kết”. Tuy vậy, để yên lòng cấp trên, ông Võ Tự Thành Vụ trưởng Vụ Báo chí Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng đã bỏ ra một buổi sáng cố thuyết phục Tổng Biên tập báo Lao Động: Có thể dùng Lý Quý Chung làm công việc của Tổng thư ký tòa soạn, nhưng nên đổi chức danh là trợ lý của Tổng Biên tập. Bởi vì Lý Quý Chung có lý lịch như thế, không thể được phép giữ chức danh Tổng thư ký tòa soạn. Tổng Biên tập báo Lao Động kiên quyết bác ý kiến đó với lý do: “Làm như vậy là lừa dối cấp trên và làm nhục một trí thức từ chế độ cũ đến với cách mạng. Tại sao không coi trọng việc làm thực sự mà lại coi trọng cái danh nghĩa?” (không rõ đây có phải là một trong những lý do khiến ông này được cho về vườn sớm?).

Để tỏ ra nghiêm túc thực hiện kết luận của Bộ Chính trị, Tổng Liên đoàn Lao động quyết định kỷ luật Tổng Biên tập báo Lao Động với hình thức cho về hưu. Một số nhà báo đồng loạt phản ứng quyết định trên. Bắt đầu là Tổng thư ký tòa soạn Lý Quý Chung đưa đơn thôi việc (Trong Hồi ký không tên Lý Quý Chung viết rằng ông nghỉ việc vì biết Vụ Báo chí Ban Tuyên huấn Trung ương sẽ không chấp nhận ông làm Tổng thư ký tòa soạn). Tiếp theo Lý Quý Chung là Trần Trọng Thức, họa sĩ Chóe, Ba Thợ Tiện, Lưu Trọng Văn (Lưu Trọng Văn nói: “Tôi nghỉ việc không phải vì Tổng Biên tập mà vì Lý Quý Chung, một người ở chế độ cũ, yêu nước, gần 20 năm ra sức đổi mới báo chí thế mà vẫn không được tin dùng! Tôi mang lý lịch “đỏ” đứng cùng Lý Quý Chung để chứng minh rằng đây không hề có chuyện “diễn biến hòa bình”.), tiếp theo là Đinh Quang Hùng, Nguyễn Trung Dân, Lê Xuân Tiến…

Đây là một sự kiện chưa từng có trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam. Ban Tuyên huấn Đảng Cộng sản coi đây thực sự là một vụ phản ứng tập thể có tính chất chính trị rất nghiêm trọng cần phải phê phán, ngăn ngừa.

Có những người đã được coi là đạt tiêu chuẩn làm báo, nhưng sau đó vì có quan hệ với người không được tin cậy thì cũng phải bị loại. Ông Nguyễn Ngọc Lan không cùng quan điểm với Đảng về vụ Phong thánh tử vì Đạo thì vợ ông, bà Thanh Vân, dù đang là cây bút đắc lực của tờ Tin Quận 5 cũng phải bị sa thải. Trong Nhật ký 1990-1991, Nguyễn Ngọc Lan viết theo lời chị Thanh Vân: Chỗ làm vẫn cần, nhưng có quyết định cho nghỉ việc của Ủy ban Nhân dân quận và Quận ủy. Tru di tam tộc đó mà. Ông trưởng phòng và bà phó phòng đùn đẩy nhau việc đưa tờ quyết định nghỉ việc cho Thanh Vân, vì thấy nó kỳ cục quá, không mở miệng được. Các bạn đông nghiệp thì được một bữa khóc…

Ông Trần Trọng Thức nhiều năm là giáo viên thỉnh giảng của Đại học Báo chí TP Hồ Chí Minh nhận xét nội dung đào tạo người làm báo như sau: Chương trình đại học báo chí không coi trọng đúng mức phần nghiệp vụ báo chí. Trong 194 đơn vị học trình, chỉ có 30 đơn vị học trình cho các môn tác nghiệp báo chí. Các thể loại thông tấn chỉ có 4 đơn vị học trình, bằng số học trình của các môn văn học Nga, văn học Trung Quốc… Chính vì phải đào tạo “Nhà báo là chiến sĩ sắc bén về tư tưởng”, cho nên các học phần về triết học, chính trị Mác-Lê được đặt cao hơn các bài học về nghiệp vụ. Học viên báo chí được tuyển với tiêu chuẩn chính trị (lý lịch gia đình, quan điểm lập trường), cao hơn nghề nghiệp, cho nên có 50% học viên không có năng khiếu làm báo, có 20% số người tốt nghiệp đại học báo chí không viết được bài.

Từ sau 30/4/1975, báo chí cách mạng có gì mới?

Xin nói rằng: Có! Báo chí miền Bắc trước 1975 là hóa thân của loại truyền đơn tuyên truyền. Những sự kiện lớn như Đại hội Đảng, Kỳ họp Quốc hội… các báo chỉ được phép đăng lại đúng bản tin của Thông tấn xã Việt Nam.

Điều đặt biệt mới mẻ sau 1975 là sự có mặt của tờ nhật báo Tin Sáng và tạp chí Đứng Dậy. Mặc dù cũng phải lựa lời mà nói theo cái khuôn của Ban Tuyên huấn Đảng đưa ra, Tin Sáng có cách viết mới mẻ gần với sự thật hơn những đứa con ruột của Đảng. Cây bút trào lộng Xích Điểu thích làm cộng tác viên cho Tin Sáng hơn là viết báo Giải Phóng mà ông là Phó Tổng biên tập (với tên cúng cơm Trần Minh Tước, nguyên Vụ trưởng Vụ Báo chí Việt Nam). Đến nỗi ông Nguyễn Thành Lê, Tổng Biên tập báo Giải Phóng đã khiển trách ông mê viết cho Tin Sáng hơn viết báo nhà. Có lần tôi tò mò hỏi thì được ông Xích Điểu trả lời rất đơn giản là: “Họ biết trân trọng bài viết có nghề, còn lãnh đạo của ta thì chuộng cái chính trị sống sít! Họ trả nhuận bút cũng đúng với chất xám mình bỏ ra, còn lãnh đạo báo ta thì chỉ khen chê suông!”

Đương nhiên tờ Tin Sáng có số phát hành cao hơn báo Đảng. Đó là điều chế độ không thể chấp nhận.

Sau khi Tin Sáng “hoàn thành nhiệm vụ”, Ban Tuyên huấn của Đảng sàng lọc những người ít gai góc, đưa về tăng cường cho hai tờ báo Sài Gòn Giải PhóngTuổi Trẻ. Nhóm về Tuổi Trẻ nhanh chóng biến tờ báo này từ một tờ “nội san của Thành đoàn” trở thành một tờ báo thông tin đa dạng, sinh động. Sở dĩ nhóm này làm được điều đó là do có hai nhà báo giỏi là Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức. Nguyên nhân thứ hai không kém quan trọng là ông Tổng Biên tập Võ Như Lanh (vào nghề từ việc làm nội san của phong trào sinh viên) đã mạnh dạn giao việc cho các anh có nghề. Trái lại, bên báo Sài Gòn Giải Phóng, Tổng Biên tập vốn là Tổng Giám đốc Thông tấn xã Giải Phóng, đương nhiệm phó trưởng ban thứ nhất Ban Tuyên huấn Thành ủy, người từng có lý thuyết “lợi ích cách mạng cao hơn sự thật”, đâu có thể để cho các nhà báo chế độ cũ dạy mình phải làm báo như thế nào!

Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức mời nhà báo Thép Mới cùng thảo luận tìm cho Tuổi Trẻ phương châm phát triển gồm 3 từ: Đỏ, Trẻ, Sài Gòn. Tờ Tuổi Trẻ không lâu sau đã được bạn đọc vồ vập. Ban đầu bạn đọc của nó là sinh viên, học sinh, người lao động, dần dần nó giành cả bạn đọc là cán bộ, đảng viên của báo Đảng, khiến báo chí cả nước nhìn vào nó để học hỏi đổi mới nội dung và hình thức. Tuy vậy những “ông thầy” ở đây đã không được quý trọng. Chị Kim Hạnh, Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ (sau ông Võ Như Lanh), đã từng thổ lộ: Quản lý các anh này luôn bị trên đe dưới búa. Cấp trên thì lo ngại dò xét, còn các anh thì hay đấu tranh khi có những bài bị gác không thỏa đáng. Cuối cùng số đông trong Ban biên tập muốn tòa báo khỏi bị soi mói vì sự có mặt của các nhà báo chế độ cũ. Thế là xảy ra cuộc “di cư” của hai ông thày Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức và kéo theo họ có bảy học trò từ Tuổi Trẻ xin sang Lao Động, đưa tới sự ra đời báo Lao Động Chủ nhật năm 1990 nổi tiếng một thời. Trước đó, báo Lao Động chỉ bán cho các tổ chức công đoàn mua bằng tiền “kinh phí”. Sau khi nhóm anh em này về, nhiều cây bút xuất sắc cũng kéo nhau về, biến Lao Động trở thành tờ báo mạnh nhất của báo chí cấp trung ương ở Việt Nam, tấm gương đổi mới cho báo chí cả nước. Tiếc thay nó bị nghiêng đổ bởi một lý do không đâu như đã kể ở trên.

Hai người góp phần to lớn đổi mới báo chí cách mạng Việt Nam là Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức không được ghi nhận. Ngay ở Tuổi Trẻ những ngày kỷ niệm thành lập báo cũng không ai đánh giá đúng công lao của họ.

Tuy nhiên, khi tự do báo chí chỉ là hình thức thì những cố gắng đổi mới thật ra cũng chỉ là hình thức, không có mấy thực chất. Cái được nổi bật nhất trong những năm đầu đổi mới là đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, quan liêu. Tuy nhiên quan liêu, tham nhũng không hề yếu đi mà càng ngày càng mạnh lên. Sau năm 2000, báo chí lép vế dần trước tham nhũng, cho tới khi xảy ra sự kiện hai nhà báo chống tham nhũng bị bắt, bị xử tù thì thế thượng phong của báo chí chống tham nhũng đã chấm hết.

Qua 20 năm đổi mới, báo chí cách mạng Việt Nam đang đứng trước hiện trạng sau đây:

1. “Báo chí công cụ” đã làm cho những người làm báo Việt Nam càng ngày càng thụ động, không có suy nghĩ độc lập, thui chột năng lực sáng tạo. Người viết xã luận thì nhai đi nhai lại nghị quyết, bài năm nay na ná bài năm ngoái. Người viết điều tra thì chỉ dựa vào kết luận của cơ quan công an. Một lớp nhà báo thiếu lòng yêu nghề chỉ hám chức tước, bổng lộc. Miệng thì nói phục vụ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thực bụng là nhằm mục tiêu trở thành những ông “quan báo”.

Trong tình trạng đạo đức băng hoại, có không ít nhà báo móc ngoặc làm tiền, trở thành giàu có một cách phi pháp.

Từ chỗ chỉ làm công cụ của Đảng, báo chí bắt đầu làm công cụ cho các “đại gia”, bị họ sai khiến và khinh rẻ. Một phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã bị con rể bà Tư Hường (một đại gia và là bạn của nhiều nhân vật lãnh đạo cao nhất nước) tát giữa tiệc chiêu đãi mừng thành công cuộc thi Hoa hậu Thế giới. Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam Đinh Thế Huynh có công văn yêu cầu phải làm rõ, xử lý nghiêm vụ này trước pháp luật để bảo vệ nhà báo. Nhưng vụ việc đến nay hơn một năm đã lặng lẽ chìm xuồng.

2. Hội nhập quốc tế sâu rộng, bị tấm gương của nhiều nền báo chí tự do tương phản làm cho báo chí Việt Nam lộ rõ sự lạc hậu rất tệ hại trước trào lưu dân chủ, nhân quyền. Một đất nước có hơn 700 tờ báo mà luôn luôn bị các tổ chức nhân quyền quốc tế lên án là không có tự do báo chí. Hiện có gần trăm tờ báo của các Đảng bộ tỉnh, thành phố in ra đem phát không, rồi đem bán ve chai. Nhà báo cộng sản lão thành, ông Nguyễn Văn Trấn, nguyên Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng đã phải kêu lên trong quyển sách ông viết có tựa đề Kính gửi Mẹ và Quốc hội: Xin cho được tự do báo chí bằng với thời đô hộ của thực dân Pháp!

3. Tự do kinh tế đã tạo ra lớp doanh nhân đông đảo. Càng ngày càng có nhiều con em của người có tiền được gửi đi du học ở các nước tiên tiến. Xã hội Việt Nam đang hình thành một từng lớp trí thức trung lưu có yêu cầu cao về quyền được thông tin kịp thời, chính xác, đa dạng. Lớp người này phải tìm đến các nguồn thông tin của báo, đài nước ngoài, các tờ báo mạng, các blog. Họ sẽ là lực lượng ngày càng lớn mạnh đòi hỏi một nền báo chí tự do. Trong bài viết “Vì sao đạo đức băng hoại“, tôi cho rằng đạo đức cách mạng xung khắc với Đổi mới. Nay lại xin nói: Báo chí cách mạng cũng xung khắc với Đổi mới!

4. Để thoát khỏi sự kềm kẹp tư do báo chí, một phong trào viết blog xuất hiện. Có địa chỉ blog được đông đảo người đọc tin cậy tìm đọc như Blog Osin của nhà báo Huy Đức. Một luồng gió tự do từ các blogger đang thổi bùng lòng khát khao quyền được thông tin của nhân dân từ lâu bị bưng bít, khiến cho nổi bức xúc căng lên. “Đây chính là một thứ quyền lực thứ năm.” (Thế giới phẳng, Thomas L. Friedman).

“Hoàn toàn có tự do, nếu đi đúng lề đường bên phải!”

Nói như vậy không khác nào bảo hãy vào nhà giam đi, ở trong đó sẽ tha hồ mà tự do!

Có lẽ, trong công cuộc Đổi mới ở Việt Nam, báo chí là một ngành vận hành theo chiều ngược, tức là càng ngày càng bị siết lại.

Giữa năm 2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng truyền đạt ý kiến Bộ Chính trị, gồm mấy ý lớn sau đây:

- Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức và không để tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước.

- Kiên quyết đình chỉ các cơ quan báo chí không chấp hành đúng pháp luật, không thực hiện đúng tôn chỉ mục đích.

- Việc xem xét xử lý sai phạm của các cơ quan báo chí phải đươc thực hiện đồng bộ giữa xử lý kỷ luật về chính quyền đi đôi với xử lý kỷ luật về Đảng, xử lý người trực tiếp có sai phạm gắn với xử lý trách nhiệm của người đứng đầu và người có liên quan.

Từ tư tưởng chỉ đạo ấy mà có sự lựa chọn Bộ trưởng. Ông Lê Doãn Hợp là mẫu người thích hợp. Ông này ăn nói thô bạo không cần giữ ý: “Tổng biên tập là người của Bộ Thông tin và Truyền thông sau này cắm ở từng tờ báo”. (Nhà thơ Hoàng Hưng gọi đây là dòng ý nghĩ đen.) Ông tuyên bố sẽ quản lý chặt cả báo mạng và các blog cá nhân. Là người chỉ huy đạo quân chữ nghĩa của một đất nước ngàn năm văn hiến, nhưng ông ăn nói không cần chọn từ ngữ chuẩn xác, cứ nói văng mạng như một kẻ vô học. Trong cuộc “giao lưu trực tuyến với nhân dân”, ông Bộ trưởng đã giải thích quản lý báo chí là: “Quản một cách có lý, bao gồm cả đạo lý và nguyên lý. Đạo lý là ủng hộ người tốt, răn đe người không tốt. Nguyên lý là tạo hành lang cho người ta hành động”.

Nhiều ý kiến trên mạng cho rằng ông nói nghe buồn cười. Nhà báo Thuận Lý có bài viết trên báo Lao Động Cuối tuần góp ý với ông rằng câu nói ấy nghe giống như dạy cho học sinh cấp 1!

Sự “quản lý” của ông Hợp theo tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị đã làm cho báo chí cách mạng Việt Nam mấy năm qua có nhiều biểu hiện không bình thường.

- Vụ báo chí Nhật Bản đưa tin Công ty PCI của họ hối lộ quan chức Việt Nam Huỳnh Ngọc Sĩ, sau mấy tuần lễ, báo chí Việt Nam vẫn im như thóc không dám đưa tin vì chưa có lệnh Tuyên huấn! Bạn đọc châm biếm hỏi: “Phải chăng công khai sự thật tức là đi ra ngoài hành lang của ông Lê Doãn Hợp?”

- Vụ khởi tố nữ phóng viên Lan Anh của báo Tuổi Trẻ là mở đầu đánh vào nhà báo chống tiêu cực, đối tượng từ lâu được khuyến khích và bảo vệ. Bị dư luận phản đối dữ dội, vụ án phải đình chỉ, phóng viên Lan Anh thoát nạn. Năm 2008, vụ án khởi tố hằng loạt phóng viên của nhiều tờ báo đưa tin về vụ tham nhũng ở PMU 18 với tội danh “làm lộ bí mật nhà nước và lợi dụng quyền tự do dân chủ”.

- Cũng như Lan Anh, các nhà báo trong vụ án này đều là những người trung thành với “lý tưởng làm báo cách mạng”, quyết lôi bọn tham nhũng ra ánh sáng, làm trong sạch bộ máy Đảng và nhà nước. Nhà báo Nguyễn Việt Chiến ra trước tòa vẫn khăng khăng rằng mình không có tội mà chỉ có quyết tâm chống tham nhũng. Các ban biên tập báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên và nhiều đồng nghiệp của họ đã hăm hở viết bài bảo vệ họ. Việc làm đó đã bị dập tắt ngay lập tức. Tất cả báo chí cả nước im phắc cùng một ngày. Tiếp theo là án tù ngồi cho người không tự biết mình có tội (Nguyễn Việt Chiến), tù treo cho người biết nhận tội (Nguyễn Văn Hải). Tiếp theo nữa là tước quyền hành nghề của các phó tổng biên tập, tổng biên tập của các báo Thanh Niên, báo Tuổi Trẻ, những người đã viết bài hoặc duyệt bài bảo vệ những người bị bắt. Nhà báo Uyên Vũ cho rằng vụ tước quyền hành nghề của bảy nhà báo một lúc có thể so sánh với vụ Nhân văn - Giai phẩm, chỉ có điều khác xưa là họ không bị “đấu tố” và “ném đá” bởi các đồng nghiệp!

- Phó Tổng biên tập Bùi Thanh của Tuổi Trẻ, một nhà báo đầy “lý tưởng cách mạng” bị cách chức trong vụ này đã ngơ ngác hỏi “Vì sao?”, khi nhìn các đồng nghiệp tử tế và trong sáng của mình bị xe cảnh sát đưa vào nhà giam. Ông lại tiếp tục ngây thơ khi viết trên blog: “Đừng nản lòng, hãy vì những trang báo sống động ngày mai, vì bạn đọc của mình!” Trong khi đó, trả lời câu hỏi “Liệu vụ án này có làm sa sút ý chí chống tham nhũng của các nhà báo?” ông Đinh Thế Huynh ủy viên Trung ương Đảng, chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, kiêm Tổng Biên tập báo Nhân Dân tỉnh bơ trả lời: “Làm sao lại có thể sa sút được! Bởi vì chống tham nhũng là một kênh của báo chí cách mạng!”

Có hai nhận định đáng lưu ý về vụ này là:

- Nhà báo Huy Đức cho rằng vụ án cho thấy các nhà báo Việt Nam không có nghiệp vụ báo chí để tiến hành điều tra độc lập mà chỉ dựa vào cơ quan điều tra và tin rằng đó là tư liệu hoàn toàn chính xác. Vụ án cũng cho thấy tư pháp Việt Nam bất cập khi kết tội các nhà báo viết bài bởi động cơ trong sáng không vụ lợi và tin chắc rằng tư liệu mình có trong tay là sự thật.

- Ký giả Trần Tiến Dũng cho rằng vụ án này là “Dấu chấm hết của báo chí lý tưởng”, bởi nó đã đánh vào những nhà báo tự nguyện làm công cụ của Đảng để thực hiện lý tưởng cách mạng! Ngẫm ra nhận định này không phải không có cơ sở. Thực tế cho thấy tham nhũng đã xâm nhập vào các cấp cao nhất của guồng máy Đảng và Nhà nước khiến cho họ không có cách nào khác là phải bẻ gãy những cây bút công cụ đang chĩa vào chính những ông chủ!

Năm 2008, báo chí Việt Nam vốn ngoan ngoãn với chức năng công cụ, đã bị trừng phạt nặng nề: 6 cơ quan báo chí bị cảnh cáo, 252 trường hợp bị khiển trách, 15 nhà báo bị thu thẻ hành nghề, trong đó có 2 Tổng Biên tập, 4 phó Tổng Biên tập, 6 nhà báo bị khởi tố, 2 nhà báo vào tù.

Mới đây, nhà báo, văn nghệ sĩ lại bị trấn áp với tội danh mới, “tội yêu nước”! Đó là vụ ông Nguyễn Trung Dân, phó Tổng Biên tập báo Du Lịch Việt Nam, bị cách chức, thu thẻ nhà báo vì đăng tin bài chống Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa. Một số nhà báo, văn nghệ sĩ bị bắt, bị thẩm vấn và gây khó khăn trong cuộc sống vì đã tham gia biểu tình chống Trung Quốc xâm chiếm đảo biển Tổ quốc. Đạo diễn Song Chi, một blogger có nhiều bài viết mạnh mẽ đã phải rời đất nước xin tị nạn chính trị ở Na Uy, được nước này tiếp nhận như là một guest writer (khách văn). Bà Song Chi cho biết sau khi bị bắt vì tội biểu tình chống Trung Quốc bà bị gây khó không thể làm việc được.

Đây quả là một bi kịch của báo chí cách mạng Việt Nam!

Mới đây nhà báo Nguyễn Chính trong bài viết “Báo và Blog và… Bầu trời” kể rằng 15 năm trước khi ông nói báo Nhân Dân là tờ báo mà nhân dân ít đọc nhất đã bị ông Đinh Thế Huynh, chủ tịch Hội đồng Khoa học báo Nhân Dân, bực dọc vặn lại: “Nói thế là không được! Xin hỏi anh Nguyễn Chính, đó là nhân dân nào?” Nay ông Huynh đã lên Tổng Biên tập và kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng khác. Nhưng báo Nhân Dân thì vẫn giữ vững kỷ lục là tờ báo ít nhân dân mua nhất! Nhà báo Trương Duy Nhất cho rằng không chỉ báo Nhân Dân không có người đọc mà nói chung ngày nay “Đọc báo giấy chán bỏ mẹ!” Bạn đọc Việt Nam, nhất là số người có học, đang tìm đến các tờ báo mạng, các blog.

“Đọc báo giấy chán bỏ mẹ!” Đó chính là hậu quả của cách quản lý “hoàn toàn có tự do nếu đi đúng lề bên phải” của ông Lê Doãn Hợp! Hậu quả đó được giảng viên Đại học Sư phạm kiêm nhà báo cấp trung ương Hà Văn Thịnh miêu tả như sau: “Còn nếu quý vị có ai đó đã từng viết báo sẽ biết là rất nhiều câu chữ người ta đọc qua điện thoại cho tôi, và chúng phải có. Vấn đề là ‘lách’ như thế nào để rồi người đọc hiểu đến đâu là câu chuyện quá dài… Nói là bồi bút thì cũng phải, không sai đâu. Thế nhưng cần phải lật ngược vấn đề rằng có ai ăn lương hiện nay mà không từng một lần làm bồi bút?”.

Chao ơi, có đau đớn không, khi chính sách của Đảng cầm quyền từng được tung hô “quang vinh muôn năm” lại biến những người cầm bút của báo chí cách mạng vốn được giao thiên chức “xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng” trở thành những tên bồi bút! Và càng đáng sợ hơn là người ta có thể nói ra điều nhục nhã đó một cách xưng xưng không chút ngượng ngùng! Vậy thì người đọc của dân tộc anh hùng này đang đi theo cái định hướng để trở thành những tên… bồi gì đây?

Điều 19 của ICCPR?

Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa dân chủ thật là giản dị: “Dân chủ là người dân được mở miệng”.

Đó chính là tự do ngôn luận. Điều mà cách đây hơn 150 năm, ông Rober Lowe, chính khách người Anh đã miêu tả cụ thể: “Chúng ta nhất định phải nói lên sự thật, đúng như chúng ta thấy, không sợ mọi hậu quả, nhất định không cung cấp chỗ ẩn náu thuận tiện cho những hành vi bất công hay áp chế mà phải lập tức giao chúng cho sự phán xét của thế giới.” Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam độc lập đã ghi nhận tinh thần đó. Luật Báo chí hiện hành cũng có ghi nhận tuy không thật cụ thể: “Thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới”. Vậy thì tại sao thực tế vận hành của báo chí Việt Nam lại không phải như vậy? Tại sao cứ tiếp tục rập khuôn theo thứ báo chí phản thông tin của Lenin mà ngày nay chính đồng bào Nga của ông cũng kiên quyết từ bỏ? Tại cuộc họp của Hội đồng Nhân quyền hồi tháng 5/2009 có hằng chục đại diện các quốc gia đề nghị Việt Nam thực hiện một phần, hoặc phù hợp, hoặc trùng khớp với Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, như: Gia tăng sự độc lập của truyền thông, cho phép ra báo tư nhân, dỡ bỏ hạn chế internet…, tất cả đều bị Việt Nam bác bỏ. Lạ thay, Việt Nam là quốc gia đã ký cam kết gia nhập Công ước Quốc tế này từ ngày 24 tháng 9 năm 1982! Tại sao vậy? Xin hãy đọc kỹ nội dung điều 19 của Công ước này xem nó chứa đựng những gì nguy hiểm đến nỗi các nhà lãnh đạo Việt Nam phải kiên quyết chối bỏ?

Điều 19

1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào.

2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.

3. Việc thực hiện những điều quy định tại khoản 2 của điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó có thể dẫn đến một số hạn chế nhất định, tuy nhiên những hạn chế này phải được pháp luật quy định và cần thiết để:

- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác;

- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng.

(Các văn kiện quốc tế về quyền con người, do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu Quyền Con người biên soạn, Nhà Xuất bản TP Hồ Chí Minh phát hành năm 1997, trang 117)

Bạn đọc Việt Nam có thấy Điều 19 có gì đáng sợ? Tôi thấy nó rất cao quý, tin ở con người, tôn trọng con người và tạo điều kiện cho con người đóng góp trí tuệ cho cuộc sống. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn hô hào tìm những biện pháp “đi trước đón đầu” trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, trong khi đó lại từ chối không chịu đi kịp những vấn đề của dân chủ, nhân quyền, không chịu thực hiện tự do báo chí, điều mà Thomas Jefferson đánh giá là “Công cụ tốt nhất cho việc mở mang trí tuệ của con người, nâng con người lên trở thành có lý trí, phẩm hạnh và mang tính xã hội”!

Khi tôi chép vừa xong điều 19 thì bạn tôi điện thoại cho hay, báo Dân Trí vừa đưa tin: Sở Giáo dục Quảng Nam buộc thôi việc cô giáo dạy văn cấp 3 Nguyễn Thị Bích Hạnh, bởi cô đã chỉ cho học sinh cách tự học, tìm tòi phân tích thông tin trên các trang web của talawas, Tiền Vệ. Như vậy là “quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức” ở điều 19 đã không được chấp nhận!

Có phải lý do chính là “không để tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước”? Có lẽ toàn dân Việt Nam đều đồng ý với Bộ Chính trị là phải ngăn chặn mọi hành vi “gây tổn hại lợi ích đất nước”. Nhưng tại sao tất cả các quốc gia tiên tiến, hiện đại trên thế giới đều thực hiện điều 19 ấy mà vẫn không bị “gây tổn hại lợi ích đất nước” của họ? Dân tộc ta kém thiên hạ điều gì chứ lòng yêu nước thì đâu có thua ai? Nếu luật pháp Việt Nam chưa đủ chặt chẽ để ngăn chặn các hành vi “lợi dụng chi phối” ấy thì chúng ta nên gấp rút hoàn thiện luật pháp để thực thi cho được Điều 19, sẽ tốt hơn gấp trăm lần cấm đoán! Hay là chúng ta sợ mình không đủ lý lẽ chống lại sự ngụy biện xuyên tạc của kẻ xấu? Trong lịch sử không có chính nhân quân tử nào lại sợ kẻ xấu cả! Ngụy biện xuyên tạc là hành vi mờ ám, chỉ cần soi ánh sáng của sự thật vào là nó sẽ vỡ vụn ngay. Chẳng lẽ chúng ta sợ những ý kiến phản biện? Trong tuyên bố ngày 24 tháng 1 năm 2006, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh có một câu rất hay (đúng ra là có tinh thời đại): “Tôn trọng những ý kiến khác biệt”. Tôn trọng ý kiến khác biệt thì phải chấp nhận tranh luận, để tìm ra chân lý! Người lớn, cấp cao chịu làm như vậy không hề hạ thấp mình mà càng được “khẩu phục tâm phục”. Nếu như vụ Bauxite được cho công khai tranh biện trên tất cả các báo thì trí tuệ Việt Nam được nhân lên, mọi ngờ vực tan biến và uy tín của lãnh đạo sẽ nâng cao, rất cao. Tại sao Bộ Chính trị không làm như vậy?

Bộ Chính trị của khóa 10 này đã có những hành xử đáng lo ngại. Các vị chẳng những không coi trọng nguyện vọng của người dân mà còn nhiều lần bỏ ngoài tai những góp ý, kiến nghị của các bậc đại công thần, đại trí tuệ của chế độ, những người mới hôm qua còn là những bậc thầy cao không với tới đối với họ như Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt… Đáng nói hơn là những kiến nghị của các cụ được nhân dân cả nước đánh giá là rất sáng suốt, hết lòng vì nước vì dân. Hàng ngàn trí thức, hàng vạn người dân hưởng ứng những lá thư tâm huyết của Đại tướng, vậy mà các vị vẫn phớt lờ. Cách hành xử đó tồi tệ và độc đoán nhiều lần so với việc các vua Trần, vua Nguyễn bác bỏ “Thất trảm sớ” của Chu Văn An, “Tám điều cấp cứu” của Nguyễn Trường Tộ.

Mặc dù vậy, tôi vẫn không muốn tin câu nói này của Frederick Douglass có thể đang ám những người lãnh đạo của nước Việt Nam đã trải qua 64 tuổi dân chủ: “Trong các quyền con người, quyền biểu tỏ ý kiến là nỗi kinh hoàng của các hôn quân bạo chúa, là thứ quyền mà chúng phải ra tay triệt hạ đầu tiên.”

Tôi vẫn cứ muốn tin rằng thời của bạo chúa đã qua từ lâu rồi và chính Đảng Cộng sản Việt Nam từng tự hào góp phần chôn vùi nó ở đất nước này! Tôi vẫn muốn tin rằng nhân dân ta đang thực sự xây dựng một chế độ “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Tôi vẫn muốn tin rằng từ Dân chủ trong câu trên có ý nghĩa thực chất chứ không phải để làm cảnh.

Nhưng đã có quá nhiều sự thật nhơ nhớp xếp đầy trí nhớ tôi, giờ đây thêm sự thật Bauxite khổng lồ sặc mùi máu mê của những con bạc, lộ nhiều toan tính gian manh, lại đầy nghi vấn âm mưu cõng rắn! Làm sao tin được đây?

“Không có tự do báo chí thì sẽ chẳng còn gì ngoài sự tồi tệ” (Albert Camus). Nếu Đảng tự tin rằng mình đang nắm được chân lý và rất trong sáng trước nhân dân thì xin hãy đường hoàng thực hiện tự do báo chí. Đó là lửa thử vàng. Đó là cơ sở tạo lòng tin cho nhân dân.

_____________

Chú thích: Ngày báo chí cách mạng Việt Nam: Ngày 21 tháng Sáu 1925, tờ Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra đời, được coi là tờ báo đầu tiên của phong trào cách mạng (cộng sản) Việt Nam.

© 2009 Thiện Ý

© 2009 talawas


Share/Save/Bookmark

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Related Posts with Thumbnails