Thứ Năm, 18 tháng 6, 2009

Xa lộ thông tin chỉ còn lề phải - Nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21 tháng Sáu (1)

Nguồn : Talawas
Tác giả: Thiện Ý

Báo chí vô sản định hình ở Liên Xô sau Cách mạng tháng Mười. Năm 1920, trong thư gửi Emma Goldman, nữ chính trị gia Hoa Kỳ, Lenin cho tự do ngôn luận là một thiên kiến tư sản. Như vậy có thể hiểu báo chí vô sản tách ra khỏi trào lưu giành quyền tự do ngôn luận mà nhân loại đã đeo đuổi từ những năm 40 của thế kỷ 19.

Báo chí vô sản, theo Lenin, có chức năng tuyên truyền, giáo dục, cổ động và tổ chức phong trào hành động cách mạng thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng Cộng sản. Để làm tốt chức năng đó, báo chí vô sản phải theo định hướng tuyên truyền trong từng thời kỳ, do Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng chỉ đạo. Theo định hướng, tức là phải chọn sự thật nào có lợi và loại bỏ sự thật nào không có lợi cho mục đích tuyên truyền. Để làm tốt việc tuyên truyền theo định hướng, báo chí cách mạng liên tục đưa tin, bài về những điển hình người tốt việc tốt nảy sinh từ phong trào thi đua trên các mặt trận chiến đấu, lao động sản xuất, học tập rèn luyện để trở thành những con người mới vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Nội dung nói trên cho thấy mấy điều:

- Đó là nền báo chí của một xã hội khép kín. Báo chí thực chất chỉ là công cụ truyền đạt mệnh lệnh từ trên (Đảng, Chính phủ) dội xuống, không có chức năng thông tin, không chấp nhận phản biện, không tự do ngôn luận.

- Các bộ biên tập không xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, không nhằm đáp ứng quyền được thông tin của bạn đọc để chuẩn bị nội dung tờ báo. Họ căn cứ vào tiến độ tuyên truyền do cấp trên chỉ đạo để lập kế hoạch minh họa bằng các bài báo. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan viết: “Họ chỉ chịu trách nhiệm trước… Đảng chứ không phải trước độc giả. Và chỉ quan tâm tới mục tiêu hơn là nội dung các bài báo.” (Nhật ký 1990, ngày 5- 11)

- “Không có tự do ngôn luận thì mọi truy tìm sự thật là bất khả” (Charles Bradlaugh - nhà cải cách xã hội Anh). Báo chí vô sản tước bỏ, bóp méo và bưng bít sự thật nhằm phục vụ cho mục đích tuyên truyền. Do đó, lẽ ra là “công cụ tốt nhất cho việc mở mang trí tuệ con người” thì ngược lại nó là công cụ ngu dân!

Trong cuộc họp báo đầu tiên sau khi nhậm chức, Tổng thống Mỹ Obama nói: “Một chính phủ lấn lướt báo chí, một chính quyền không phải đối mặt với giới truyền thông cương trực và mạnh mẽ không phải là sự lựa chọn của nước Mỹ”. Đối chiếu với câu nói đó, chúng ta thấy các nền báo chí vô sản ngược hẳn lại.

Báo chí cách mạng Việt Nam theo hình mẫu báo chí vô sản của Lenin. Do đó chúng ta cùng xét xem nó đã gây những hậu quả gì cho xã hội và người đọc?

Cách mạng và sự thật

Trong các tập nhật ký, linh mục Nguyễn Ngọc Lan nhiều lần châm bíếm các báo cách mạng cắt xén sự thật. Nhà xuất bản Tin (Paris) giới thiệu Nhật ký 1988 của ông đã đặt câu hỏi: “Cái gì làm cho chúng ta tuy cùng một tiếng mẹ đẻ nhưng không cùng một ngôn ngữ? … Cái gì làm chúng ta sợ sự thật?”

Người viết bài này luôn dằn vặt bởi câu hỏi đó.

Ở Việt Nam, để buộc cỗ xe báo chí đi đúng định hướng, có đến bốn tay lái: Lái chính là Ban Tuyên huấn Đảng, 3 lái phụ là Bộ Thông tin Truyền thông, Cục An ninh Văn hóa Bộ Công an và cơ quan chủ quản tờ báo. Để làm tốt việc tuyên truyền theo định hướng, báo chí cách mạng liên tục đưa tin những người và việc điển hình xuất hiện trong quần chúng để cổ vũ phong trào cách mạng.

Trong bài giảng về viết tin, ông Hoàng Tuấn, Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam kể: Hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, khi chưa tìm ra một điển hình nông dân giỏi hưởng ứng lời kêu gọi tăng gia sản xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã cho bịa ra câu chuyện về một người nông dân gương mẫu vỡ hoang trồng khoai sắn. Không ngờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tin đó, đã hỏi địa chỉ người nông dân để tặng thưởng huy hiệu. Ông Tuấn đành phải báo cáo thật là mình cho bịa ra “điển hình” để cổ vũ phong trào.

Trong chiến tranh rất cần có những điển hình xả thân vì chiến thắng. Nhiều tên tuổi được báo chí loan truyền (theo sự hướng dẫn của các chính ủy và Ban Tuyên huấn Đảng) đã đi vào lịch sử. Có nhiều chuyện nghe cứ lung linh như huyền thoại, nhưng không mấy ai muốn (hoặc dám) nghi vấn. Ví dụ như tại sao anh Phan Đình Giót không dùng vật gì mà lại lấy thân mình lấp lỗ châu mai?

Gần 30 năm sau chiến tranh, nhân kỷ niệm lần thứ 50 chiến thắng Điện Biên Phủ nhà báo Lưu Trọng Văn đã hết sức công phu sưu tầm tài liệu viết một loạt bài đăng trên 5 kỳ tạp chí Kiến thức Gia đình (phụ bản báo Nông nghiệp Việt Nam) chứng minh rằng:

  • Không có chuyện Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai;
  • Không có chuyện Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo;
  • Cũng không có chuyện (thời chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của Mỹ) giữa trận địa pháo Nguyễn Viết Xuân hô to: “Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn!”.

Tất cả các chiến sĩ nói trên đều chiến đấu rất ngoan cường, hi sinh rất anh dũng, góp phần cho chiến thắng. Tuy nhiên trước lúc hy sinh tất cả họ đều không có ai làm cái việc mà sau này các nhà báo đã tô vẽ.

Những bài báo của Lưu Trọng Văn đăng trên một tạp chí ít người đọc nhưng đã làm cho ông Nguyễn Khoa Điềm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương tức giận phê phán gay gắt.

Cũng năm đó, Lưu Trọng Văn trích Hồi ký không tên của Lý Quý Chung, đoạn kể ông Dương Văn Minh chủ động đầu hàng như là thực hiện một nhiệm vụ cao cả, đăng trên Nhà báo và Công luận cuối tháng (của Hội Nhà báo Việt Nam), số kỷ niệm ngày 30 tháng 4. Báo này vừa phát hành đã bị thu hồi, (nhưng không cho đưa tin lý do bị thu hồi) và bị đình bản. Lý do thu hồi thực sự là ở thời điểm đó chưa cho phép đề cao vai trò ông Dương Văn Minh, mà đề cao sức mạnh của các quân đoàn buộc ông phải hàng phục. (Dù đã được ông Võ Văn Kiệt đọc, ông Trần Bạch Đằng viết lời giới thiệu, quyển hồi ký này vẫn buộc phải biên tập và in lại.)

Mới đây, trong cuộc góp ý kiến cho một tờ báo đang sa sút, ông Xuân Cang nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động tâm sự: Ngay khi bước vào nghề làm báo ông đã dặn mình, bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải nói cho được sự thật. Nhưng rồi thực tế đã dạy ông điều còn quan trọng hơn là phải biết cách nói sự thật. Ông kể, năm 1986 ông cho đăng bài viết của ông Lê Giản, nguyên Giám đốc Nha Công an đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong bài có câu “nhà đã dột từ nóc rồi”. Vì câu đó, ông bị Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng giũa te tua. Người ta hỏi, ông không biết nói “nóc nhà” là ám chỉ Bộ Chính trị hay sao? (Thực ra nhà thơ Việt Phương là người đầu tiên có ý nghĩ này trong câu thơ “Bùn đã vấy đến chín tầng mây”. Ông đã phải trả giá bằng những năm rời khỏi bàn viết trong dinh Thủ tướng để đi lao động cải tạo tư tưởng ở nông trường). May cho ông Xuân Cang, thời điểm này vừa bắt đầu Đổi mới cho nên ông được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thông cảm cho làm bản kiểm điểm, tránh không được tái phạm. Ông Xuân Cang kết luận: “Cho đăng bài viết đó là không biết cách nói sự thật!” Người nghe lấy làm tiếc vì ông không cho biết trước cái sự thật “nhà đã dột từ nóc rồi” thì phải biết dùng cách nói nào để không bị giũa te tua? Chẳng lẽ cách tốt nhất là… cất bút?

Trong tập hồi ký của các nhà báo lão thành ở Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2003 có bài “Làm báo không dễ” của nguyên Tổng Biên tập báo Người Lao Động. Sau khi đọc lại bài hồi ký của mình đã được in, ông than rằng: “Có lẽ phải viết thêm bài ‘Viết hồi ký cũng không dễ’”. Ông đã hỏi vì sao cắt bỏ và sửa lại nhiều chỗ quan trọng, người biên tập đáp: “Khi ông chủ nhiệm Câu lạc bộ Nhà báo Cao tuổi đưa bài này sang cho biên tập đã có lời răn đe: “Cậu muốn ở tù thì đăng nguyên văn bài này!” Mình phải cố cắt bỏ, sửa chữa để đăng được bài cho ông đấy!” Vậy là dù quá đau vì bài bị cắt sửa trái ý mình, ông cũng phải cám ơn người biên tập.

Bài hồi ký nói trên kể lại mấy bài báo viết những sự thật không được nhà cầm quyền bằng lòng:

Một là chuyện ông La Ngọc Toàn, chủ nhiệm hợp tác xã cơ khí Đông Tâm tham nhũng và đánh đập những xã viên dám tố cáo ông ta. Bí thư quận ủy quận Gò Vấp đòi tòa báo phải đính chính bài viết và xin lỗi ông La Ngọc Toàn với lý do: Ông Toàn hiện đang là nòng cốt trong người Hoa của quận. Cùng lúc, chủ tịch Ủy ban Nhân dân TPHCM có ý kiến phê bình rằng đánh ông Toàn là vô tình đánh vào “Lá cờ đầu của ngành hợp tác xã” đang cần được cổ vũ. Tờ báo không đính chính, nhưng không thể tiếp tục phơi bày những sai trái của ông Toàn và phải để yên cho người ta giới thiệu ông ra ứng cử vào Hội đồng Nhân dân Thành phố khóa đầu tiên. Ông Toàn đắc cử với số phiếu cao, được báo Đảng ca ngợi như một nhà quản lý xuất sắc, rồi sau đó ít lâu ông ta ôm một khoản tiền lớn lặn mất tăm, để lại món nợ làm sập đổ hợp tác xã cơ khí Đồng Tâm. Những chữ “Ông chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố” trong bài hồi ký đã được sửa lại là “Có đồng chí lãnh đạo thành phố” để không ai có thể căn cứ vào thời điểm bài báo viết mà suy ra ông chủ tịch chính là đồng chí Võ Văn Kiệt đáng kính!

Chuyện thứ hai xảy ra năm 1983, báo đăng bài viết về ông Nguyễn Văn Tài, giám đốc xí nghiệp hóa màu Tân Bình phơi nắng công nhân và cắt tiêu chuẩn gạo của họ. Sau hôm báo đăng bài này, anh Tổng Biên tập lên văn phòng Thành ủy dự họp về công tác tuyên truyền giáo dục. Vừa thấy anh bước vào, bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Linh kêu lên: “A, ông báo Công đoàn! Tại sao ông a thần phù đánh vào mô hình tiên tiến của thành phố mà không hỏi ý kiến tôi?” Tổng Biên tập đáp: “Thưa anh Mười, chúng tôi rất thận trọng khi làm việc này. Bài báo hoàn toàn chính xác khi nêu các hành vi phạm pháp của ông giám đốc Tài…” Bí thư Nguyễn Văn Linh tức giận ngắt lời: “Chao ơi, đến giờ này mà anh còn cãi rằng anh đúng sao? Anh sai về quan điểm nhìn nhận sự việc. Đồng chí giám đốc này áp dụng hình thức kỷ luật sắt theo kinh nghiệm học được từ nước bạn Cộng hòa Dân chủ Đức. Nhờ có kỷ luật sắt mà Đông Đức trở thành ‘tủ kính’ của phe xã hội chủ nghĩa, đối điện vững vàng trước Tây Đức tư bản. Quần chúng bao giờ cũng có ba loại: tiên tiến, trung bình và lạc hậu. Người cộng sản phải biết nắm lấy quần chúng tiên tiến, thúc đẩy phong trào, lôi kéo những người trung bình và giáo dục, kỷ luật những người lạc hậu. Các anh nhân danh bảo vệ người lao động, nhưng thực ra là theo đuôi quần chúng lạc hậu. Cái đó Lenin gọi là chủ nghĩa công đoàn, không phải quan điểm đúng đắn của người cộng sản!” Ông đã muốn ngưng lời, nhưng thấy anh Tổng Biên tập có vẻ cương, chưa chịu ngồi xuống, hình như đang chờ ông dứt lời để tranh cãi. Ông cáu kỉnh hét lên: “Đồng chí ngồi xuống đi chứ!” Anh Tổng Biên tập lưỡng lự rồi miễn cưỡng ngồi xuống vì mọi người đang chờ bắt đầu cuộc họp với nội dung khác. Hôm sau, anh bàn với Công đoàn Thành phố kiến nghị tổ chức thanh tra xí nghiêp hóa màu Tân Bình. Đoàn thanh tra cố kéo dài thời gian, cuối cùng lựa chiều kết luận theo ý của bí thư Thành ủy, dành cả hai trang phê phán các nhà báo quá non nớt về chính trị đã “đánh” một ông giám đốc có những biện pháp quản lý tiên tiến nhất thành phố! Anh Tổng Biên tập buộc lòng phải tung một tin do anh em công nhân cung cấp. Đó là chuyện bà vợ ông bí thư Thành ủy gửi tiền vào xí nghiệp hóa màu Tân Bình với lãi suất cao và hằng tháng dùng xe của bí thư Thành ủy đến lĩnh tiền lãi. Tuy sự việc không phải là “tiêu cực”, nhưng anh em công nhân nghi vấn: Có phải vì mối quan hệ này mà bà nói tốt cho giám đốc xí nghiệp hóa màu Tân Bình? Rồi ông bí thư tin vợ hơn tin nhà báo? Khi biết nguồn tin ngoài luồng này, ông Linh rất tức giận nhưng đã hành xử đúng đắn: Ông tuyên bố trước Ban Thường vụ Thành ủy xin rút khỏi trách nhiệm chỉ đạo việc thanh tra xí nghiệp hóa màu Tân Bình và trao việc này lại cho ông Phan Minh Tánh, phó bí thư Thành ủy. Dưới sự chỉ đạo của ông Phan Minh Tánh, hai tháng sau đoàn thanh tra công bố bản kết luận chính thức ngược hẳn với bản dự thảo của họ trước kia: “Giám đốc xí nghiệp hóa màu Tân Bình đã vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng, không đủ tư cách tiếp tục giữ cương vị lãnh đạo.”

Mặc dù ông Nguyễn Văn Linh qua đời đã lâu, nhưng bài hồi ký về vụ hóa màu Tân Bình không được phép nêu rõ tên ông (người biên tập đã sửa lại thành “một đồng chí lãnh đạo Thành ủy”) và những chữ “tức giận”, “cáu kỉnh”, “hét lên” không thích hợp với ngôn ngữ của một đồng chí mà chỉ ít lâu sau đã trở thành “Tổng Bí thư Đổi mới”. Người biên tập đã chịu khó thay cho ông những từ ngữ có “văn hóa lãnh đạo” như: “nhẹ nhàng hỏi”, “tỏ vẻ không bằng lòng”… Ngay những lời thuyết giảng rất hùng hồn của ông về quan điểm cộng sản khác với chủ nghĩa công đoàn cũng phải cắt bỏ, bởi vì đồng chí ấy không thể nói nhầm.

Nói về tác hại của việc kiểm duyệt, cắt xén sự thật, nhà văn Nga vĩ đại A. Solzhenitsyn đã viết: “Đây không chỉ đơn thuần là bóp nghẹt tự do mà là sự gắn xi vào trái tim dân tộc đó, xóa bỏ ký ức của dân tộc đó”. Vì vậy rất cần phục hồi những bài viết đã bị kiểm duyệt cắt bỏ, nếu còn có thể tìm lại.

Một lần, tôi đem vấn đề “báo chí cách mạng và sự thật” bàn với ông Trương Tịnh Đức, nguyên ủy viên Ban Biên tập Đài Phát thanh Giải phóng và là giảng viên Trường Báo chí Giải phóng. Ông Trương Tịnh Đức kể: Sau Mậu Thân 1968, các cơ quan lãnh đạo của Mặt trận Giải phóng miền Nam không còn đất để trú đóng an toàn đã phải kéo sang ở nhờ đất nước bạn Campuchia. Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam đã có sáng kiến chỉ đạo Đài Phát thanh Giải phóng soạn bài tường thuật về một cuộc hội nghị đã được tổ chức rất hoành tráng ở giữa vùng giải phóng miền Nam. Lúc ấy ông Trương Tịnh Đức tỏ ý băn khoăn làm như vậy là vi phạm quá nghiêm trọng tính chân thật của báo chí. Ông Võ Nhân Lý, giám đốc Thông tấn xã Giải phóng thuyết phục: “Ông đừng quá trung thành với lý thuyết. Trong hoàn cảnh chiến tranh chúng ta phải đặt lợi ích của cách mạng lên trên tính chân thật ông ạ. Báo chí cũng là một mặt trận mà!”

Dù ở hoàn cảnh nào, khi đã một lần đặt lợi ích lên trên sự thật thì từ đây các lợi ích sẽ có nhiều lý do để đòi phải tiếp tục được đặt lên trên sự thật. Đầu tháng 6/2009, trong cuộc hội nghị về “Định hướng thông tin”, ông Đặng Khắc Thắng, phó giám đốc Sở Thông tin Truyền thông tỉnh Nghệ An đã cho rằng: “Bảo định hướng thông tin phù hợp với lợi ích xã hội, thật ra là phù hợp với ý kiến của lãnh đạo chứ không hẳn phù hợp với lợi ích của nhân dân!” Cứ xem cách chỉ đạo thông tin về Dự án Bauxite, vấn đề mà cả nước đang quan tâm hiện nay thì quả đúng như phát biểu của ông Thắng. Báo chí chỉ đăng ý kiến của những người hùa theo Bộ Chính trị, tất cả những phản biện không báo nào đăng. Tệ hại hơn, có hai bài báo (của Xuân Quang đăng trên Nhân Dân và Hà Văn Thịnh trên Lao Động) răn đe những trí thức ký kiến nghị ngừng Dự án.

Nhà thơ Bùi Minh Quốc có hai câu chua xót về tình trạng này:

“Khí trời mỗi ngày ta thở,

Bị ô nhiễm bởi bao lời dối trá!”

Báo chí nói tiếng nói của ai?

“Báo chí là công cụ của Đảng!” Nguyên lý đó những người làm báo Việt Nam đều phải thuộc nằm lòng. Sau Đổi mới, ông Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã có sáng kiến quan trọng thêm cho báo chí Việt Nam mệnh đề thứ hai: “Là diễn đàn của quần chúng”. Một vài cán bộ báo chí quá say sưa với Đổi mới cứ tưởng cái “diễn đàn” của ông Linh đã hoàn toàn chấp nhận tự do tư tưởng, nhà báo có thể phản biện mọi chính sách đã ban hành. Nhầm lẫn đó khiến không ít người phải trả giá.

Trong cuộc hội nghị “quán triệt nghị quyết Hội nghị Trung ương” (khóa 6) ở buổỉ thảo luận tổ, ông Bùi Tín, khi đó là phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân kể, ông rất khó trả lời khi các đồng nghiệp phương Tây hỏi vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam không chấp nhận đa nguyên? Ông Bùi Tín cho rằng Đảng nên chấp nhận đa nguyên để thực hiện dân chủ. Theo ông, thực tế Việt Nam đã có những yếu tố đa nguyên: Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội hợp tác với nhau rất tốt đẹp; Mặt trận Tổ quốc gồm nhiều đoàn thể có những tiếng nói khác nhau; Các tờ báo của mọi giới, mọi từng lớp thể hiện những mong muốn rất đa dạng… Ông Bùi Tín nói dài hơn 30 phút, được toàn tổ gồm những tổng biên tập báo, đài phát thanh, đài truyền hình lắng nghe. Tổ trưởng tổ này là ông Thái Ninh, Phó trưởng ban Tuyên huấn Trung ương không ngắt lời mà có vẻ khuyến khích ông Bùi Tín. Không ai ngờ trong buổi tổng kết hội nghị, ông Đào Duy Tùng, ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách cả khối Tuyên huấn, Báo chí, Văn nghệ đã cao giọng phê phán: “Thật đáng chê trách là tại cuộc họp gồm toàn cán bộ cốt cán của Đảng mà lại có một đồng chí nồng nhiệt cổ vũ thực hiện đa nguyên! Đồng chí đó không biết rằng đa nguyên là hình thức dân chủ mị dân của chủ nghĩa tư bản. Đòi đa nguyên được, rồi sẽ đòi đa đảng!”

Hôm đó ông Bùi Tín ngồi ở hàng ghế gần cuối hội trường, rất ít người nhìn thấy ông hai tay chống cằm, mặt cúi gằm, mớ tóc dài rũ xuống hai vai, không biết ông đang bực tức hay ngượng ngùng, nhưng vẻ thiểu não thì lộ rõ.

Ít lâu sau, nhân có cơ hội đi công tác sang Pháp, ông Bùi Tín đã trình bày một cách có hệ thống quan điểm của mình trong bài trả lời đài BBC Việt ngữ. Thật ra, trước đó ở trong nước đã có nhiều người từng nói những điều ông Bùi Tín nêu ra (như các ông Trần Xuân Bách, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Hộ, Phan Đình Diệu…) Phải chi ông Bùi Tín tiếp tục nói ở trong nước, dù lời lẽ có nhẹ hơn đôi chút, vẫn dễ được đồng bào lắng nghe hơn.

Năm 1989, nhân dịp đi công tác ở Bắc Triều Tiên, bà Kim Hạnh Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ đã viết một bài bút ký miêu tả rất sinh động tệ sùng bái cá nhân ở đất nước này đối với lãnh tụ Kim Nhật Thành. Tờ Tuổi Trẻ đăng bài bút ký của bà vừa phát hành thì Bắc Triều Tiên lập tức gửi công hàm phản đối Việt Nam bôi nhọ lãnh tụ và nhân dân họ.

Cuối năm đó, trong cuộc hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm hoạt động báo chí do ông Đào Duy Tùng chủ trì, chuyện phản ứng của Bắc Triều Tiên được đem ra mổ xẻ. Ông Hà Xuân Trường, ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng Sản xin hiến kế. Ông Trường cho rằng sở dĩ Bắc Triều Tiên có cớ phản ứng bài báo của Kim Hạnh là do cơ chế quản lý báo chí của Đảng ta: “Báo là công cụ của Đảng, báo nói tiếng nói của Đảng”. Để tránh bị phản ứng kiểu này, Đảng nên thay đổi cơ chế quản lý báo chí: Đảng lãnh đạo báo chí, nhưng mỗi tờ báo có tiếng nói riêng của mình, chứ không phải chỉ nói tiếng nói của Đảng”… Hình như ông Trường chưa nói hết ý mình nhưng tiếng đập bàn khá mạnh của ông Tùng đã cắt ngang lời ông. Ông Tùng với vẻ mặt giận dữ cố nén, gằn từng tiếng: “Đồng chí phụ trách cơ quan lý luận của Đảng, chẳng lẽ đồng chí quên rằng báo chí là công cụ của Đảng là một vấn đề có tính nguyên tắc? Tôi xin nhắc lại cho tất cả các đồng chí phải ghi nhớ: Báo chí là công cụ của Đảng, nói tiếng nói của Đảng! Nguyên tắc đó là bất di bất dịch, không bao giờ được phép thay đổi, không có đổi mới ở chỗ này!” Ông Hà Xuân Trường đỏ bừng mặt, im lặng. Ông Đào DuyTùng hạ giọng: “Vấn đề của chúng ta là phải chọn những người có trính độ chính trị vững vàng làm tổng biên tập để không phạm phải những lỗi quá ấu trĩ”.

Ông Hà Xuân Trường im lặng suốt buổi họp còn lại. Trước đây, ông Trường đã một lần bị hụt chân khi cùng với các ông Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Nguyễn Kiến Giang… tán thành quan điểm “xét lại hiện đại” của Tổng Bí thư Khruchchev. Tất cả các ông kia đều phải vô tù, chỉ ông Trường mau mắn xin sám hối cho nên được thăng quan tiến chức.

Lần này, Đảng không bỏ qua cho ông. Đại hội Đảng khóa 7, mặc dù ông hãy còn trẻ, khỏe hơn nhiều người khác, nhưng đã không được đề cử vào Ban Chấp hành Trung ương và phải trao lại chiếc ghế Tổng Biên tập Tạp chí Cộng Sản cho ông Hà Đăng, dù ông này không có nhiều lý luận bằng ông.

Bà Kim Hạnh lại phạm một lỗi mới không thể tha thứ, đó là đưa lên Tuổi Trẻ một tin rất cũ: Bác Hồ đã từng có vợ! Toàn thế giới đã biết chuyện này, nhưng người Việt Nam chưa được phép biết. Lần này bà bị cấm làm báo vô thời hạn! Nhưng thật đáng khen bà đã có sáng kiến đẻ ra tờ Sài Gòn Tiếp Thị bằng cách nhẫn nại âm thầm đứng sau lưng một người khác.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội 6 Đổi mới của Đảng, Quốc hội Việt Nam xây dựng Luật Báo chí. Tại cuộc họp này, giáo sư Lý Chánh Trung, một cây bút báo chí nổi tiếng trước 1975 (với những bài viết chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đặc biệt có bài viết ca tụng Chủ tịch Hồ Chí Minh là bậc vĩ nhân khi cụ từ trần) đề nghị cho xuất bản báo chí tư nhân, đúng tinh thần của Hiến pháp và phù hợp với xu thế mở rộng dân chủ, hội nhập. Có lẽ giáo sư không thể ngờ vấn đề ông đặt ra lại gây bực tức cho các nhà lãnh đạo của Đảng đối với ông, đặc biệt là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Người chống lại ông mạnh mẽ nhất không phải các đại biểu là đảng viên mà là bà luật sư Ngô Bá Thành, người đồng đội quả cảm của ông ở nội thành ngày nào. Cũng khoảng thời gian này, với tư cách Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật, giáo sư Trung tổ chức cho nhà văn trẻ Dương Thu Hương nói về quyển tiểu thuyết Những thiên đường mù đang gây xôn xao dư luận bởi động tới một đề tài cấm kỵ trước Đổi mới. Ông đã không ngờ, quyển sách này bị coi là vượt xa ranh giới Đổi mới, một quyển sách chống Đảng! Giọt nước tràn ly. Giáo sư không được Mặt trận Tổ quốc đề cử vào danh sách Quốc hội khóa kế tiếp. Tệ hại hơn, đây đó râm ran rằng lợi dụng tình hình Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, một số phần tử thuộc lực lượng thứ 3 đang âm mưu diễn biến hòa bình, cụ thể là giáo sư Lý Chánh Trung tạo diễn đàn cho nhà văn phản động Dương Thu Hương chửi Đảng, rồi dùng diễn đàn Quốc hội đòi cho ra báo tư nhân. Tại cuộc họp cán bộ cao cấp quân đội ở Hội trường Quân khu 7, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh đến nói toẹt câu chuyện trên nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cho các sĩ quan. Ông Bộ trưởng đang hùng hồn thì bất ngờ một sĩ quan trẻ đập bàn hét lớn: “Nói láo!” rồi đứng lên rời khỏi hội trường. Lập tức cảnh vệ đuổi theo đưa anh gặp đại tá phó Hiệu trưởng. Đó là đại úy Lý Tiến Dũng, quân nhân có quân hàm thấp nhất cuộc họp, vừa mới từ chiến trường chống bọn diệt chủng Pol Pot trở về. Trả lời ông đại tá, Lý Tiến Dũng nói: “Nếu ban nãy ngồi đối diện với ông ấy, tôi đã cho một cái tát! Bởi vì tôi không thể ngồi nghe kẻ nào chửi cha mình!” Sau đó, anh cởi áo lính, đi tập viết báo. Hơn 10 năm sau, anh trở thành một cây bút chính luận sắc bén, rồi trở thành Tổng Biên tập báo Đại Đoàn Kết và nổi tiếng vì dám quyết định đăng thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu không phá bỏ Hội trường Ba Đình, sau khi đã có lệnh cấm của Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng (Có 9 tờ báo không dám đăng lá thư này.) Anh bị bãi chức Tổng Biên tập bởi đi không đúng “lề phải” của ông Lê Doãn Hợp, lại còn viết bài xài xể phó trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương Hồng Vinh là người thiếu năng lực và không có tư cách. (Hồng Vinh cũng là người không cho báo Quốc Tế của Bộ Ngoại giao đăng bài của ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt chất vấn, nhưng không được Trưởng ban Tuyên huấn Nguyễn Khoa Điềm trả lời.)

Trong cuộc họp Hội đồng Nhân quyền năm 2009, nhiều quốc gia yêu cầu Việt Nam cho xuất bản báo chí tư nhân, đã bị Việt Nam bác bỏ. Thật ra, dù cho ra báo chí tư nhân mà vẫn phải chịu sự chỉ đạo của Ban Tuyên huấn Đảng Cộng sản thì cũng không thực sự có tự do báo chí, không thoát khỏi chiếc “kim cô” công cụ. Những năm vận hành của tờ Tin Sáng sau 1975 đã chứng minh điều ấy. Tin Sáng không phải là tờ báo được thông tin tự do, bởi thường xuyên phải nhận chỉ thị “định hướng”. Thế mà Đảng vẫn không yên tâm, vẫn buộc nó sớm “hoàn thành nhiệm vụ”.

(Còn 1 kì)

© 2009 Thiện Ý

© 2009 talawas


Share/Save/Bookmark

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Related Posts with Thumbnails