Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2009

HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN (4)

Nguồn : http://www.mediafire.com/?j4miqmnjzg3


15.

TÔI ĐÃ HẾT HÈN

Vậy là cuối cùng tôi đã sống lay lứt được tới hôm nay, ngày 1 tháng 6 năm 2002!

Sau bao nổi đau về tinh thần và thể xác, tôi như được tiếp thêm nguồn sinh lực mới nhờ hai năm chống nạng vào Nam ra Bắc “xin” được chữa bệnh “vượt tuyến” không kết quả. Cũng nhờ hai năm này, tôi đã thực mục sở thị mọi thực tế xã hội trên cả nước, có dịp gặp lại bạn bè, đồng chí, đồng ngũ cũ, các tướng về hưu, các đại tá sửa xe, bán nước đầu đường... Tôi đã ngập mình trong cái xã hội mọi người không chỉ chen lấn xô đẩy nhau như thời kỳ “xếp hàng cả ngày”, giành giật cướp bóc, thậm chí tiêu diệt nhau để “làm giàu”.

Đi đâu cũng gặp những “ông chủ mới” –– thực tế là những “người cộng sản mới”, những tướng (cướp) mới, những “kẻ cầm cân nảy mực” xã hội từ xã cho đến trung ương đang hè nhau tranh thủ cướp đất của dân xây nhà, xây khách sạn, làm sân golf…để tích lũy của cải cho nhiều đời con cháu. Chuyện các quan chức có tài khoản nhiều triệu đô la ở nước ngoài không còn là chuyện lạ. Một số trắng trợn hơn, cho con cháu ngang nhiên làm chủ cả hàng loạt khách sạn, công ty, trung tâm vui chơi giải trí...

Tới hôm nay, giữa năm 2002, cực chẳng đã người ta chỉ mới đưa ra ánh sáng hai vị uỷ viên trung ương đảng dính líu tới một vụ Mafia tép riu - Năm Cam.

Còn lại là cả một hệ thống từ trên xuống dưới đang ngang nhiên cướp tất cả những gì có thể cướp, trước khi “chủ nghĩa tư bản đích thực” thay thế cái “chủ nghĩa tư bản hoang dã”.

Báo chí những năm gần đây dù bị bịt miệng bởi luật “trừng phạt các tội làm lộ bí mật quốc gia”, vẫn biết dựa vào kẽ hở các cuộc chó mèo tranh ăn tung ra nhiều tin giật gân “chết cha các cụ” để tăng số lượng phát hành, kiếm thêm tiền.

Một số “cây bút nghiệp dư” nhưng “có uy tín” từng là... tổ sư, là bố mấy ông lãnh đạo đương thời, nay về hưu, cũng chẳng chịu ngồi yên trước sự kiếm chác quá đà (hơn mình nhiều quá!) cũng “mạnh dạn” vạch ra những sự thật do cơ chế –– “nguyên nhân của mọi nguyên nhân” –– dẫn đến tình trạng vô luật pháp, chẳng ai chịu ai, trên bảo dưới không nghe. Cứ làm như đảng bị cái “cơ chế” (ai đẻ nó ra nhỉ?) làm hư hỏng đảng viên chứ bản chất của đảng là trong sáng tuyệt vời, vì dân vì nước hết mực!

Vậy thì phải gấp rút cải tổ cơ chế bằng cách…giải tán ủy ban này, thành lập tổng cục kia, sáp nhập hai cơ quan thành một, chia một cơ quan thành hai, đặt tên mới cho cơ quan cũ, hoán đổi vị trí của các “xếp”... Cứ như là có thể sửa chữa một ngôi nhà dột nát sắp đổ sập bằng cách... khiêng đồ đạc phòng này đặt sang phòng khác, bịt lại nhiều “cửa nhỏ”, thay thế chúng bằng “một cửa to” –– gọi là “cải cách hành chánh”.

Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, phường, của chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều dối trá!”

Ăn cắp, hối lộ, bao che, ô dù cho nhau để tổng giám đốc ngân hàng lấy tiền ngân hàng, giám đốc xuất nhập khẩu móc ngoặc với quan đầu tỉnh... đi buôn lậu; giám đốc công an bảo kê cho băng nhóm mafia, sòng bạc, ổ điếm...

Những vụ đổ bể này sở dĩ nổi phềnh lên là do bị người dân chửi bới nhiều quá nên báo chí phải lao vào cuộc, phanh phui những bộ mặt quá ư lộ liễu mà không sợ bị “đóng cửa, đình bản”.

Luật pháp cũng đành lòng phải làm vài cú đập nhẹ vào một phần nổi của tảng băng chìm đang đe doạ làm sụp đổ cả hệ thống chính quyền vô sản giả hiệu!

Ngay khi tôi viết những dòng này, báo Pháp Luật TP.HCM đưa tin hai ông Trần Mai Hạnh, tổng giám đốc đài TNVN, phó ban “văn hoá tư tưởng”, phó chủ tịch Hội Nhà Báo (láo), và...“Cứt” Quốc Huy, thứ trưởng bộ Công An đã được chọn để bị bắt! Cả hai đều là uỷ viên trung ương nên cái Bô (không dấu nặng) Chính Trị của chúng chọn mãi mới tìm được hai tên sẵn sàng nhận tội theo cách Lê Lai liều mình cứu chúa, sau lời hứa hẹn sẽ sớm được thả ra, tài sản được bảo đảm vẹn toàn là cái chắc!

Quả nhiên chỉ một năm sau, chính tôi đã nhìn thấy Trần Mai Hạnh trong một nhà hàng sang trọng nhân dịp đi họp Đại Hội Nhạc Sĩ tại Hà Nội, mặc dầu toà án của Đảng tuyên phạt 3, 4 năm tù giam gì đấy! Chuyện những tên tội phạm đang chịu án tù vẫn đi ăn nhậu nhảy đầm, lên xe xuống ngựa, em út theo sau cả đàn không chỉ dành cho những bố già, nhân dân biết cả. Những tên tội phạm trực tiếp nhưng do nắm được “tẩy” các ông “to” cũng đều được hưởng đặc ân kiểu này.

Ngay cạnh nhà tôi lúc ở Sài Gòn, có một tay người Tầu tên Triệu Bỉnh Thiệt, “trùm buôn lậu” đã dám quát vào mặt mấy chú công an đến “kiểm tra hành chính”: “Không biết tao là ai à? Tao là... bố Mai Chí Thọ đây! Bắt tao là cả nước Việt Nam này sẽ xụp đổ đấy!” Hắn dám mạnh miệng như thế là do trong tay hắn có hàng loạt tấm ảnh, băng video quay lén “các cu” trong những cuộc hành lạc do hắn tổ chức. Hắn rồi cũng bị ra toà, cũng bị xử tù, nhưng tôi vẫn gặp hắn hàng ngày trong building 23 Gia Long cho tới khi hắn vận com lê lên máy bay đi Hồng Kông!

Cái thời một mình Hồ Viết Thắng ([1]) đứng ra nhận hết mọi tội lỗi trong Cải Cách Ruộng Đất ngày nay được diễn lại trắng trợn và...ngu xuẩn. Ấy vậy mà người ta vẫn không ngừng hô khẩu hiệu “Noi gương Hồ Chủ Tịch vĩ đại”! Cứ như thể họ muốn nói “ông Hồ còn lưu manh gấp ngàn lần chúng tao. Còn lâu mới học hết tư tưởng, đạo đức của Người”!

Kể ra cái ông Hồ này cũng... tội!

Tên, tuổi, ngày sinh, tháng đẻ, ngày chết, thành tích kách mệnh, trình độ học vấn, tư tưởng, gia đình, vợ, con, bồ bịch... chẳng cái gì là thật cả. Cũng nhờ cái tên Trần Dân Tiên nào đó viết về ông như một nhà “đại sư tổ đạo đức hiếm có” bị phanh phui ra chính là...ông, nên tôi đã xổ toẹt cái “đạo đức” của ông đi từ khá sớm. Có điều, tôi không lên án ông ta về chuyện liên quan đến đàn bà. Ông ta cũng là con người, cũng có quyền lấy vợ đẻ con, thậm chí ba bốn vợ như ông Lê Duẩn, cũng có quyền bồ bịch như ông Mitterand, ông Clinton chứ! Cái tội của ông là do bọn gọi là cộng sản an nam phong kiến cố tình dựng ông ta lên thành “thánh sống” (và “thánh chết”) để lừa bịp cái dân tộc đa số là nông dân thất học, đầu óc còn mê muội về thánh về thần. Ông ta chỉ là một nhà cách mạng chính hiệu cuồng tín với chủ nghĩa Mác-Lê mà thôi.

Thế nhưng, những năm cuối thế kỷ 20, tôi giật mình mỗi khi hiểu thêm về ông qua những tư liệu, hình ảnh, văn bản, di cảo của những nhân chứng sống, những chứng cớ rành rành được lưu trữ trong các văn khố cộng sản..., mới dần dần bỏ hẳn được cái hình ảnh Hồ Chủ Tịt ra khỏi đầu mình, mới thấy Công của ông ta toàn là Tội!

Không có ông Hồ, không có cái đảng này thì đâu đến nỗi cả dân tộc tôi bị chiến tranh tàn phá, anh em, họ hàng đâu đến nỗi chia lìa, chém giết lẫn nhau, đâu đến nỗi thua xa những nước cũng thuộc địa như nước tôi đến cả thế kỷ về mọi mặt.

Vậy mà rũ bỏ những nhận thức sai lầm, chịu nhận là mình đã lạc lối, kiên quyết giã từ cái chủ nghĩa nặng mùi xác chết ấy đi, sao nó khó khăn, vất vả đến thế! Những lần ra Hà Nội, đến thăm một số bạn bè đồng trang lứa, tôi càng thấy cả lũ chúng tôi đều ngu ngốc đến tận cuối đời và hèn đến khi xuống lỗ! Những tướng tá đánh Đông dẹp Bắc, huân chương đỏ ngực, được tặng đủ mọi thứ danh hiệu vinh quang... (ảo) đều chung một tâm trạng như tôi: “Cốc làm cò xơi”.

Quyền lực ngày nay đã khác xưa. Trước kia bọn hám quyền chỉ là những kẻ hám được “oai”, được vênh vang đứng trên thiên hạ, chứ ngày nay quyền lực có bộ mặt thực dụng thấy rõ. Cứ đứng trước cổng nhà những kẻ đang nắm quyền hiện hành thì thấy: Có quyền lực là có tất cả. Nhà lầu, xe hơi đời mới, vợ đẹp, con khôn, hoặc không khôn thì cũng... đều du học Mỹ, Anh, Pháp, Úc hết.

Tôi hỏi một bạn cũ đã hết thời: “Tiền đâu mà mày xây cái nhà cả tỷ đồng thế?” Hắn cười khà khà: “Ờ... ờ... Thì Nhà Nước “cho” mấy trăm mét đất, bán đi một nữa, 10 cây một mét là thừa xây nhà và mua sắm tiện nghi sinh hoạt! Chính sách chung, tiêu chuẩn quy định cả ấy mà!” Ra thế! Anh bạn tôi là người có lúc đã nắm quyền, bây giờ được đàn em không quên ơn cũ chiếu cố theo chính sách. Thì ra ở Việt Nam không có cá nhân ăn cắp, ăn cướp mà chỉ có ăn cắp, ăn cướp tập thể, ăn cắp ăn cướp theo băng đảng qua cách phân phối của cải chiếm được. Có tài thánh cũng chẳng truy ra nổi nguồn gốc tài sản mà bốn đời làm việc, với lương bộ trưởng, một người cũng chẳng xây nổi căn nhà đáng giá hàng nhiều ngàn lần tháng lương của anh ta! Nghĩa là có chính sách cho sự ăn cắp và ăn cướp công khai và... có tổ chức.

Những thằng bị ra toà chẳng qua là do lòng tham vô đáy, đã giàu cho bản thân, cho vợ con, cháu, chắt... còn muốn giàu cho cả bồ bịch, người thân. Chúng tiêu xài như những tên khùng mà chẳng sợ ai chạm tới một sợi lông chân vì kẻ đặt chúng vào các cương vị tự do ăn cắp luôn bảo kê cho chúng được ngồi trên luật pháp!

Một tổng này, một giám nọ... dám vứt qua cửa sổ cả trăm ngàn đô la qua một cuộc đánh bạc trên... máy bay (vụ Tamexco). Một nữ “giám đốc” dám chi 500 cây vàng mua riêng căn nhà cho một tài tử cải lương mà ả mến mộ để sau những đêm... họp với các VIP ở Sài Gòn xong, ả có thể quay về “họp riêng” với tên tài tử đĩ đực! Tổng giám đốc ngân hàng nhà nước, công an, tòa án, thanh tra từ xã, phường đến trung ương đều bắt tay làm ăn với các mafia lớn nhỏ..., cướp tiền, cướp đất, cướp nhà, buôn lậu, tích trữ, buôn bán ma tuý.

Các vụ bị đưa ra xét xử như Vũ Xuân Trường, Phùng Long Thất, hoặc những vụ có VIP cỡ lớn nhất bảo lãnh như Nguyễn Văn Mười Hai, Minh Phụng, nếu ở các nước khác thì tổng thống, thủ tướng cũng... đi tù.

Trái lại ở ta các vị từng ăn nhậu, chụp ảnh, quay phim chung và làm gì gì nữa thì không biết..., các vị từng đề cao chúng, dắt chúng đi nước này nước nọ với cương vị “doanh nhân số Một”, là “tài năng” làm ăn có hiệu quả... thì tới khi bị báo chí, nhân dân và chính nội bộ các vị vì mâu thuẫn nhau, vạch mặt chúng ra, đưa chúng ra tòa thì các vị đều... vô can!

Làm sao há miệng được vì các vị đã “mắc quai” với những tài khoản khổng lồ do bọn “lưu manh có bảo kê” này chuyển giùm ra nước ngoài cho con cháu các vị đang đi “du hí” dài hạn làm chủ? Chẳng thế mà khi “đồng chí tử tù” Vũ Xuân Trường uất ức vì bị “hy sinh”, đề nghị sẽ khai tuốt tuồn tuột các vị trên gần và trên cao nữa chỉ đạo hắn để “ngồi mát ăn bát vàng” ra sao thì Tòa đã nhận lệnh bịt mồm ngay lập tức bằng mấy phát đạn hành hình vội vã và bí mật!

Người ta cứ trâng tráo giúp nhau “hạ cánh an toàn” bằng cách thay đổi vị trí các quân cờ, thi hành kỷ luật bằng cách đá sang hoặc đá lên chức vụ khác. Người ta còn long trọng đọc diễn văn cảm ơn sự “cống hiến hết mình” của các “học trò xuất sắc của Hồ Chủ Tịch” khi các vị “tòng phạm” này được “thôi giữ chức”. Thỉnh thoảng người ta còn mời mấy vị xuất hiện ngay hàng ghế đầu các kỳ họp “nhà trắng”, “nhà đỏ” như các vị “đại công thần” để các vị ngồi... ngáp và làm trò cười cho thiên hạ khi người ta quá biết con cái các vị đang làm gì, nhà cửa, lâu đài lớn nhỏ của các vị ở đâu.

Sở dĩ các vị mặt vẫn...trơ, trán vẫn...bóng như thế vì vẫn lo cho lũ lau nhau đàn em trẻ người non dạ ngày nay thành trung ương uỷ viên, thành uỷ viên Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư, Tỉnh Uỷ... chui từ ống tay áo các vị ra.

Cũng chính từ những vị “vua không ngai” này mà nảy sinh các cuộc đấu đá nội bộ, chia bè kết phái để nhân dân thấy được cái gọi là chủ nghĩa cộng sản đặc thù Việt Nam đang biến thành chủ nghĩa lưu manh chính trị, lưu manh kinh tế như thế nào!

Lại vì cái lớp “kế tục sự nghiệp” của các vị không những đã tiếp tục phát huy truyền thống ăn tục, nói phét, vơ vét không ngừng, tranh ăn, tranh chức mà còn đưa truyền thống vẻ vang của các vị lên một tầm cao mới” khiến đổ bể ra những vụ “ăn cắp, ăn cướp động trời” đến nỗi các vị “cộng sản bố” cũng phát hoảng!

Cũng thời gian này bỗng xuất hiện những tài liệu bị cấm, nhưng có thể tìm mua ở bất cứ tiệm photocopy nào để đọc và chuyền tay nhau... Hàng loạt chuyện thâm cung bí sử, hàng loạt vụ việc bị bưng bít được lộ ra qua những cuốn Mười Nỗi Đau Của Hồ Chủ Tịch ([2]), Đối thoại Năm 2000 ([3]), Sám Hối… Chẳng biết những chuyện được nói đến trong đó thực hư ra sao nhưng ít nhất câu nói “Chẳng ai chống chủ nghĩa cộng sản hiệu quả bằng chính người cộng sản cả” bắt đầu được thực tế chứng minh.

Dù sao đây cũng là lần đầu sau hơn 60 năm chỉ nghe “Đảng ta là đỉnh cao trí tuệ”, “Đảng ta bách chiến bách thắng”... thì hôm nay mới được thấy những dòng chữ “Đảng ta sai lầm”, “Đảng ta không tuân theo lời dặn của Bác Hồ vĩ đại”, “Đảng ta đang đánh mất uy tín trong nhân dân!”, “Đảng ta mất dân chủ ngay trong Đảng trầm trọng”... do chính các ông cộng sản cỡ bự phát ra.

Thế rồi... một cuộc đảo lộn tư tưởng mới trên toàn thế giới cũng như ở Việt Nam đã nổ ra! Chẳng có một Đảng nào lãnh đạo! Chẳng có một cường quốc nào áp đặt! Chẳng có một lãnh tụ, một tập đoàn chính trị nào phất cờ! Vậy mà hàng triệu con người đã tự tìm cho mình một đức tin, được tự do tin và không tin, được tự mình tìm thấy cái Sai và cái Đúng, cái Thiện và cái Ác, được nắm bắt cả quá khứ, hiện tại cũng như tương lai, được hòa mình vào cuộc sống cả thế giới để rồi mỗi người tự vấn lương tâm, tự xoay chuyển nhận thức, tình cảm, hành động. Đó là SỰ BÙNG NỔ CỦA INTERNET! Tuy Việt Nam hòa nhập vào cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật này khá chậm chạp, nhưng nó lại được phát triển với tốc độ chóng mặt tới mức nhà cầm quyền không kịp đối phó.

Từ những năm cuối thế kỷ 20 thế giới đã biết tên nhiều người Việt Nam không chịu cúi đầu làm nô lệ. Họ là những người đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh giành các quyền tự do tối thiểu của con người, vạch trần cái “đại phản động” của chủ nghĩa cộng sản đã bị lịch sử chôn vùi. Cũng chính nhờ sự lên án mạnh mẽ của thế giới qua Internet mà những con người hơn hẳn chúng tôi một cái đầu, một quả tim, một lá gan này đã thoát cảnh tù mọt gông như thời Hoàng Minh Chính, Vũ Thư Hiên...những năm 1960. Internet đã cung cấp thêm cho nhân dân Việt Nam và cả cho bản thân tôi nhiều tấn đinh để đóng vào cỗ quan tài đã mục nát của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.

Chỉ đáng tiếc, và đáng xấu hổ nữa, cho giới văn nghệ chúng tôi...đã quá hèn, hèn ngang dân Bắc Triều Tiên chết đói gần 3 triệu người, không ai dám lên tiếng.

Ở cái nước cộng sản còn ngắc ngoải này, trong giới văn nghệ nói riêng, ngoài Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Trần Mạnh Hảo, Dương Thu Hương, Tiêu Dao Bảo Cự, Bùi Ngọc Tấn... là những người đã công khai vạch trần mọi tội ác của chế độ độc tài đảng trị, đòi hỏi đa đảng, đa nguyên còn thì tất cả đều...im như thóc. Khi đất nước đã sạch bóng cộng sản chắc chắn nhân dân sẽ ghi vào sử sách những gì họ đã dám làm trong tinh thần xả thân vì nghĩa cả. Tiếc thay, tất cả vẫn chỉ là những cái xù lông của con nhím chứ chưa phải những mũi tên nhằm thẳng hồng tâm mà bắn, là vạch trần bộ mặt thật của bọn lưu manh chóp bu đang nhân danh chủ nghĩa cộng sản –– mà chính chúng cũng chẳng tin –– cướp chính quyền để ra sức vơ vét của cải, bán đất bán biển cho ngoại bang, phè phỡn trên xương máu, trên mồ hôi, nước mắt của 80 triệu dân.

Một sự phá rào đáng kể nữa cần phải nhắc tới là giới họa sĩ trẻ. Chẳng nói chẳng rằng họ lầm lì phá bằng hết những “cái Đẹp theo quy định của Đảng” bằng đủ mọi trò, mọi xảo thuật chẳng cần xin phép ai. Nghĩa là họ đàng hoàng đái vào cái Kinh Thánh chủ nghĩa “hiện thực xã hội chủ nghĩa” của cộng sản bằng cách cho ra đủ thứ “trái cấm” thời trước như sắp đặt, lập thể, siêu thực, khoả thân... và gì gì nữa mà tôi không đủ hiểu biết để tán dương hay phản đối.

Tóm lại, hầu hết văn nhân nghệ sĩ đều tránh xa cái nhiệm vụ đấu tranh chính trị dễ đưa đến ngồi tù như Hà Sĩ Phu nên tất cả đều biến thành...sĩ phu hèn! Tất cả chọn thái độ im lặng chờ thời. Nhưng không phủ phục xuống mà sáng tác như Trần Dần, Lê Đạt, mà...ngủ gục xuống hiện tại để quên quá khứ và... thở dài chờ đợi tương lai. Thời thượng hơn chút ít, một số nhỏ cũng tát nước theo mưa tỏ thái độ phê phán, bất bình, chửi bới qua vài câu thơ châm biếm, vài ba chuyện tiếu lâm hiện đại “lời nói gió bay” nặc danh tác giả. “Ra ngõ đều gặp thằng hèn” là như thế đó!

Riêng bọn “quan văn nghệ”, bọn mới nhập Đảng, mới được “cơ cấu” vào các cương vị lãnh đạo, mới được phong cấp, phong hàm vùn vụt, được vào “nhà trắng, nhà đỏ”, được cấp bằng “giáo sư, tiến sĩ” búa xua thì...khỏi nói. Bọn này vẫn như những con chó được chủ quẳng cho mấy khúc xương thừa, một lòng tụng ca công ơn Đảng không biết ngượng! Tất cả đều nằm trong một âm mưu lừa bịp nhân dân trong nước và thế giới rằng...Đảng chúng tôi nay đã đổi mới, thành phần ưu tú của chúng tôi có hàng vạn cử nhân tiến sĩ chứ không chỉ có công nông binh như xưa!

Để chuẩn bị cho các chức vụ béo bở này, chỉ trong một đêm, có cả chục ngàn người ngủ dậy bỗng trở thành “tiến sĩ”! Một cháu gái “nhà báo tự do” khi nhận được quyết định là “tiến sĩ của thủ tướng” –– một việc liều mạng chưa từng có trên thế giới –– đã thẹn thùng nói với tôi: “Mấy năm học ở Liên Xô với luận án: “Tính dân tộc trong chèo tuồng Việt Nam”, cháu được chứng nhận tốt nghiệp phó tiến sĩ. Từ khi về nước đang chẳng biết làm gì, chẳng có cơ quan nào chịu nhận vào biên chế thì bỗng nhận được quyết định trở thành... đốc tờ! Chắc chết vì nghe chửi mất! Hơn thế nữa, chính các ông thầy ở trong nước và ở nước ngoài, trừ một giáo sư Liên Xô, chưa ai có học vị cao như cháu, nghe tin này chắc họ phải ngạc nhiên lắm...”

Tôi an ủi cháu: “Cháu còn có tốt nghiệp đại học văn khoa trong nước, có tiếp tục nghiên cứu tuồng chèo Việt Nam ở...Lomonosov, và được các giáo sư trong một hội đồng khoa học có tiếng công nhận, dù họ chỉ thấy có lợi cho... họ hơn là cho cháu, do nhờ những tư liệu nghe, nhìn và bản luận án của cháu mà họ đỡ mất công sang tận Việt Nam để nghiên cứu nghệ thuật phương Đông! Hơn nữa cháu có học “thật”, nên dù trình độ tiến sĩ...“dỏm” thôi, cũng vẫn còn hơn cả ngàn “tiến sĩ” bằng đã dỏm mà trình độ thì lại... cực dỏm!

Sau đó tôi kể cho cháu nghe chuyện những người mà chính tôi phải trực tiếp can thiệp để họ đi học nước ngoài, nhưng vì không kiếm đâu ra cái bằng trung học phổ thông mà phải dùng mẹo...“khai danh dự” rằng “thất lạc do chiến tranh” hoặc “đi tập kết quên không mang theo”, để được ra đi trót lọt, đúng chính sách! Những kẻ may mắn này, khi đi du học chẳng thể nào tiếp thu được bất cứ cái gì cho nghề nghiệp mà chỉ trở thành kẻ quanh năm lang thang đi kiếm bàn là, nồi áp xuất, dây điện trở may-xo... gửi về cho gia đình đỡ đói khổ! Đến khi về nước thì chính họ lại làm khổ mọi người bởi các thứ kiến thức ba lăng nhăng vô tích sự của họ! Không ít ông “tiến sĩ”, “nghệ sĩ nhân dân” từ trên trời rơi xuống ấy đã trở thành những nhà lãnh đạo, đưa đường chỉ lối cho giới văn học nghệ thuật nước nhà, có kẻ còn làm đến bộ trưởng, thứ trưởng, nghị sĩ và được “cơ cấu” vào trung ương Đảng! Cứ hỏi những người ở lớp ngoại thất tuần đã có một quá trình làm “công chức văn nghệ”, ai mà chẳng biết họ từ đâu chui ra! Tôi lại phải xin phép không kể tên thật của họ ra đây vì tôn trọng con cái họ, kể cả vì thương hại họ nữa, vì xét cho cùng đa số trong bọn họ chỉ là những “con rối gặp may”. Họ đâu có nghĩ tới chuyện họ sẽ là số I, số 2 trong giới văn nghệ Việt Nam. Họ bị nhào nặn, bị “đôn lên đá ở...ngoại hạng” bởi cái cơ chế này muốn thế, bởi chính sách này muốn thế, để dễ ... bịp trẻ con là nước ta đều do các nhà hành pháp và lập pháp, tư pháp có văn hoá cao, lãnh đạo, quản lý! Không loại trừ mưu đồ hạ bệ các “tiến sĩ thật” như Đặng Văn Chung, Nguyễn Chung Tú, Đặng Văn Ngữ, Lương Đình Của, Võ Tòng Xuân...như thời “hạ giá” một đại tướng bằng cách cho ra đời một loạt đại tuớng chưa hề cầm súng.

Loại giáo sư, tiến sĩ, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, ở thời điểm bắt đầu thế kỷ mới còn nguy hiểm hơn ở chỗ nó kéo theo một loạt “quốc nạn” khác. Đó là bắt đầu nở rộ một phong trào bịp bợm, cả nước nói dối nhau và nói dối chính mình để kiếm chác nhờ những học vị, những tước hiệu “chạy” được.

Hàng lô hàng lốc những ông giám đốc, tỉnh uỷ, trung ương uỷ viên, đại biểu quốc hội đều có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân... mà chẳng hề có tên trong hồ sơ sinh viên, nghiên cứu sinh ở bất cứ trường đại học nào! Hầu hết đều là tiến sĩ, thạc sĩ...Mác-Lênin, tốt nghiệp ở cái trường Đảng do ông giáo sư tiến sĩ tên Nguyễn Đức Bình, uỷ viên “bộ chính troẹ” làm... giám đốc!

Một số khá đông nữa tốt nghiệp tại chức môn... luật pháp... của Đảng nghĩa là vô luật lệ, ngoại trừ “luật” Bộ Chính Trị bảo sao thì làm vậy! Chấm dứt cái thời để được tính là thành phần cốt cán “ba đời đi ở” phải giấu trình độ học vấn của mình, nhất là do “kẻ thù giai cấp” đào tạo, bằng một thời kỳ cả nước khai man trình độ học vấn từ thuở bắt đầu bước vào các trường để chứng minh công trạng...“trồng người” của đảng CS! Câu vè: “Nước ta có chuyện lạ đời, Chưa đỗ lớp 10 đã đỗ giáo sư, Nước ta chuyện thật như đùa, Cử nhân, tiến sĩ dễ mua hơn...bèo” ra đời ở cái thời kỳ “lừa đảo lịch sử” này được nhân dân phát triển thêm mỗi khi có một vị giáo sư tiến sĩ nào xuất hiện trên Tivi mà ai cũng biết là học lớp 3 trường làng, là dân nói ngọng “lờ” thành “nờ” bất khả sửa, bằng nhiều câu ca dao hò vè thâm thuý mà sau này rất cần sưu tầm để in lại cho con, cháu, chắt, chút, chít thưởng thức về một thời nở rộ những chuyện ba lăng nhăng chưa từng thấy mà nền văn nghệ dân gian đã phản ảnh trung thực. Bọn âm binh này là những tên tội phạm hình sự lớn nhất và nhiều mưu mô chước quỷ nhất.

Những quan văn, quan võ này mở đầu cho giai đoạn chuyển nhanh, chuyển mạnh sang tư bản đỏ, bán nước cho bất cứ kẻ thù nào, lập ra các “băng nhóm tội phạm sạch”, miệng rao giảng chủ nghĩa Mác-Lê-Hồ nhưng đồng lòng vơ vét hết của cải, tiền bạc của đất nước. Những tên không biết chùi mép, không tuân theo luật Omertà ([4]) của Mafia đỏ đều bị “thí” không thương tiếc.

Những “bố già” của tư bản đỏ trong khi chỉ huy cướp của giết người vẫn lớn tiếng hô hào “chống” cái này, “chống” cái khác, còn hơn cả Al Capone ([5])! Tuy chẳng toà án nào kết tội được Al Capone về tội giết người dù đã giết cả trăm nạn nhân, nhưng ít nhất hắn còn phải vào tù vì tội trốn thuế! Còn ở Việt Nam thì luật pháp được khoanh vùng, thi hành đến phạm vi nào thì phải stop, nếu không muốn mất ghế, thậm chí mất mạng! Không ít trường hợp, khi thấy mình bị bán đứng, nhiều tên muốn khai ra toàn bộ đường dây Mafia thì bị toà bịt miệng bằng cách “xếp vào một vụ án khác để điều tra xét xử sau”! Những chuyện có một không hai đó trên thế giới này, thế hệ con cháu hãy chịu khó tìm ở các kho lưu trữ hồ sơ, nếu còn, nếu chưa bị huỷ theo “lệnh trên”, hoặc biết đọc ý giữa các dòng chữ trên báo chí, hay phần cứng, phần mềm của các hệ thống máy tính ở các cơ quan, nếu chúng còn, sẽ thấy.

Báo Tuổi Trẻ Cười số Xuân 2000 đã tổng kết rất khéo về một năm “làm ăn bất chính” của bọn “tư bản đỏ” bằng hình ảnh con tàu neo ở một bến bờ vô định, đang được sơn sửa, nhưng máy không chạy, vỏ han rỉ, thuỷ thủ đoàn đang cậy ván, đinh bù loong, các bộ phận máy đem đi, hành khách trên boong, dưới hầm... thì chen chúc kiếm một chỗ thở, bỏ vào bị được cái gì còn sót lại, thậm chí cướp bóc của nhau, đánh nhau đến vỡ đầu vì một đồng đô la rơi vãi...Tất cả đều chờ đợi phút nhảy ra khỏi con tầu mà họ được hứa hão rằng sẽ đưa họ đi tới…thế giới xã hội chủ nghĩa hoàng kim.

Hàng trăm cây cầu, hàng chục “công trình thế kỷ” được nước ngoài viện trợ trở thành miếng bánh ngon chia nhau đớp, nuốt... đến mức trong một tháng tổng kết đã có cả ngàn tỷ đồng bay vèo vào két mấy chú “tư bản đỏ”, nhẹ nhàng và...“trăm trận cướp trăm trận thắng”, còn các nhà máy do chúng làm chủ lỗ lã thế nào đi nữa thì cũng mặc, đã có Nhà Nước…lo. Máy móc mua về không dùng được thì đem bán đồng nát. Đường sá, xe cộ, nhà cao tầng nghiêng, xụp, lở, lún thì... nhân dân lãnh đủ!

Đố ai tìm ra hoặc dám bỏ tù thủ phạm, vì có...quá nhiều thủ phạm không thể xử! Mà xử thì nhà tù đâu mà nhốt cho đủ, dù mỗi năm, cứ nhân dịp này, dịp khác... lại phải thả “theo chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước” cả ngàn “đồng chí” buộc lòng phải đem ra xử vì không thể không xử đã chán nghỉ mát trong cái gọi là nhà tù đầy đủ tiện nghi!

Trước những gì đang diễn ra hàng ngày, một bộ máy truyên truyền khổng lồ với gần 80 đài truyền hình, phát thanh, trên 600 tờ báo vẫn tiếp tục lừa bịp nhân dân rằng họ đang được sống trong một xã hội rất dân chủ, rất công bằng, rất văn minh...

Trong tình hình như thế, giới trí thức càng bị phân hoá đến thảm hại. Có thể chia họ ra làm 3 loại như sau:

––1) Loại được “chọn” để đề cao, được giao cho một vài chức vụ, danh vị, ít quyền hành nhưng khá nhiều... quyền lợi! Vài anh được “Đảng cử cho dân bầu” vào cả Quốc Hội...để “ra vẻ dân chủ”, mỗi năm 4 lần họp để...“lập những cái pháp” mà Đảng soạn ra mà có bàn thì chỉ là sửa lại câu cú, chấm phẩy chứ đố dám bàn ngược!

Một anh bạn tôi, một nghệ sĩ chân chính, khi được Đảng chiếu cố “cơ cấu” vào Quốc Hội, tạ sự ốm đau thường xuyên để từ chối cái việc mất thời giờ vô ích mà còn mang tiếng “nghị gật”, đã giới thiệu một nữ đảng viên vô danh dưới quyền nhưng thèm... tiếng. Lập tức cô này thành “của hiếm” trong Quốc Hội. Với chức danh uỷ viên “ban văn hoá xã hội”, cô được đi chơi không mất tiền khắp trời Việt, trời Tây với đôi tai...điếc đặc và cái miệng câm như hến! Cứ mỗi lần cô xuất hiện trên ti vi là một lần các bạn đồng sự phải nín cười vì họ biết tỏng ả từ đâu ra, trình độ thế nào, từng tằng tịu với ai...

Trò này được diễn đi diễn lại không biết chán mặc dầu cử tri biết tỏng tòng tong họ là ai, ở đâu ra, mặc dầu chính tay cử tri đã gạch tên, thậm chí viết hẳn vào phiếu bầu hai chữ “trò hề” to tướng, nhưng những cái tên được Đảng cử vẫn đắc cử 99%, 100%! Nhiều ông nghị, bà nghị đại diện cho nhân dân một tỉnh mà chưa hề biết cái tỉnh ấy bao giờ, vì suốt đời chỉ làm việc và đăng ký hộ khẩu ở... Hà Nội! Vậy mà có vị nào đã dám từ chối “miếng đỉnh chung” đó? Cái sự Hèn ở các vị “trí ngủ” này có đáng trách gấp ngàn lần cái hèn của người dân bình thường không? Được “cơ cấu” đồng nghĩa với việc từ nay yên trí có ô tô, nhà lầu, phân phối theo “tiêu chuẩn” Nhà Nước. Thế là “cái đầu” không còn mà quả tim cũng đập khác đi! Không ít kẻ, khi “trúng số làm quan cách mạng” đều nhanh chóng trở thành những con chuột cố ních đầy bụng trước khi nhảy ra khỏi con tầu sắp đắm.

Ngay hôm nay, 16-6-2002, khi tôi đang viết những dòng này, đài truyền hình mới đưa tin về một ông “tiến sĩ” có tên Bùi Tá Long, viện trưởng một viện khoa học bị truy tố ăn chặn tiền “ngâm cứu” của các nhà khoa học dưới quyền. Tuần trước là vụ đưa ra toà một “tiến sĩ” hiệu trưởng một trường Đại Học Sư Phạm về tội ăn tiền khi tuyển sinh và cấp bằng không cần thi cử! Hàng loạt các “quan văn hóa”, “quan văn nghệ” “quan đá bóng”, thậm chí cả quan thương binh, liệt sĩ...hùa nhau cấu véo các quỹ hỗ trợ của Nhà Nước, lấy viện trợ của nước ngoài để ăn nhờn mép mà chẳng cần chùi! Phải chăng khi trả lương cho một bác sĩ, một thầy giáo mới ra trường 15 đô la mỗi tháng, một chủ tịch phường, một công an khu vực chưa đến 10 đô la là người ta đã bảo ngầm: “Hãy xoay xở mà sống”!

Âm mưu súc vật hóa con người được tiến hành rất có tổ chức của cái Đảng lãnh đạo toàn diện này, theo tôi, là tội lớn thứ hai sau tội giết người, vì nó tha hóa nhiều thế hệ bằng lý tưởng “không có gì quý hơn...đồng tiền”!

“Chân lý” này đã được tổng kết thành thơ, vè... Quan niệm về ăn cắp được chính các nhà văn hóa chia động từ thành... 7 ngôi: “Tôi ăn cắp, Anh ăn cắp, Nó ăn cắp, Chúng ta ăn cắp, Các anh ăn cắp, Chúng nó ăn cắp và... Chẳng ai ăn cắp... ” cả! Với quan niệm về “ăn cắp” như thế nên chẳng ai “chịu trong sạch” khi người ta đã mở sẵn cho các “quan” những cánh cửa để vào nơi đầy két vàng, két đô la mà lấy bao nhiêu cũng đều có cách thanh toán hợp lý!

Vụ thuỷ cung Thăng Long, vụ Mường Tè, vụ hầm chui Văn Thánh, cống Hộp...và mọi công trình gọi là xây dựng cơ bản, nghiên cứu khoa học vv... đều trở thành cơ hội ngàn vàng cho bọn “quan” này xâu xé, chia chác. Bọn trí thức hãnh tiến chính trị và hãnh tiến kinh tế này đã bị cái mạng lưới khổng lồ của cơ chế “thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” rút sạch đến micrograme lương tâm cuối cùng phải có của nhà khoa học, người thầy, kỹ sư tâm hồn, làm đồ đệ Hippocrate ([6]), Hải Thượng Lãn Ông ([7]).

–– 2) Những cụ già lưng chừng gồm các vị đang cố giữ cho khỏi rơi vào cái bẫy “mị quan” hoặc không có điều kiện để...hư hỏng! Các vị ngậm miệng ăn bánh ngọt, hoặc tự nguyện ăn bánh...vẽ, ôm chặt quá khứ, cố khư khư giữ cái lý tưởng mình đã trót đeo đuổi mà nay “bỏ thì thương, vương thì tội” đành quên hết hiện tại, và...tự ru ngủ bằng cách rung đùi ngồi ngắm các bằng chứng nhận 50, 60 năm tuổi Đảng, các huân chương, danh hiệu đủ loại như Anh Hùng, Nhân Dân, Ưu Tú...giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà Nước...chẳng biết ngoài đời có chuyện gì ngoài cái màn hình tivi của Đảng...Tuy nhiên mọi sự tha hoá, biến chất, xuống cấp của xã hội, dù các cụ có đóng kín cổng để khỏi thấy nó là “bản chất chứ không còn là hiện tượng ” thì nó cũng cứ đạp cửa, vượt tường ùa vào tận phòng ngủ, tận đầu giường các cụ mỗi ngày, mỗi giờ. Con cháu các cụ đâu có để các cụ ngủ yên trên đống thành tích...ảo. Chúng sẵn sàng theo Đảng, đổi mới từ cách đi, cách đứng, cách ngồi, cách ăn mặc, tóc tai thời thượng, hở rốn, hở đùi, hở nách, cách ăn nói, xưng hô, đến cách yêu đương, bồ bịch, ly dị nhanh hơn chớp giật! Thế là mâu thuẫn giữa các thế hệ nẩy ra và phát triển không ngừng. Chẳng thiếu những “gia đình văn hóa” mà đại...vô văn hóa. Cha con, vợ chồng sẵn sàng kiện cáo, tranh cướp, thậm chí đâm chém nhau vì quyền lợi. Điển hình là vụ tranh chấp nhà cửa giữa hai cha con nhà thơ “lớn” Huy Cận sau khi Xuân Diệu qua đời mà báo chí đã nêu đích danh ([8]). Liên tục là các vụ kiện cáo, bôi xấu, hất ghế nhau vì “miếng bánh” chia không đều hoặc so kè ai miếng to, ai miếng nhỏ?

––3) Riêng về các tổ chức văn nghệ Hội này, Hội khác thì... dù bộ mặt thật của các hội đã được chính các hội viên, các cá nhân trong các ban chấp hành, chấp tỏi vạch ra... đủ các âm mưu hạ bệ nhau, nhưng người ta vẫn tiếp tục chi tiền, trả lương cho một số “hội hiếc”, bầy ra một số chức vụ để tiếp tục duy trì...sự lãnh đạo của Đảng một cách... vô ích, vô duyên và vô cùng lãng phí!

Do quyền lợi bầy ra trước mắt dễ nuốt như thế nên một số vị còn đôi chút lương tri cũng bị... mê mẩn. Thế là mọi sự chạy chọt, vận động, âm mưu kiếm phiếu bầu đã công khai hoặc bí mật xảy ra! Các “quan văn nghệ” này sẵn sàng vạch tội đối thủ, nào tham ô, hủ hoá, nào vô tài, bất tướng, nào học giả, bằng giả, nào sống bằng ăn cắp của công, kể cả ăn cắp tác phẩm, ăn chặn bản quyền vv... Sau các cuộc đi vận động kết hợp với du hí ở khắp các địa phương của các vị, một lô các tên tuổi vô danh nhưng đang có chức có quyền, được kết nạp bừa bãi thành hội viên, bất chấp điều lệ! Chính do những mục đích đen tối này mà một số “nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc”... chẳng ai biết đến bao giờ, thậm chí cả những tên tội phạm sắp ra toà, cũng được kết nạp vào hội như trường hợp nhà thơ Hùng Tấn, nghệ sĩ Dũng Thanh, đoàn trưởng một đoàn cải lương nổi tiếng ở Sài Gòn nhưng nghề chính là...ma cô, và “đạo bùa”, tay chân của trùm Mafia Năm Cam...

Hàng tỷ đồng mỗi năm được đầu tư sáng tác trở thành những miếng mồi béo bở để hủ hoá các văn nghệ sĩ còn muốn giữ mình trong sạch. Vị nào đã trót cầm vài chục triệu của các “quan văn nghệ” chia cho chẳng chóng thì chầy cũng biến thành...“tòng phạm” há miệng mắc quai, câm như hến hoặc thỉnh thoảng lại...ị ra một “công trình” ca ngợi Đảng! Thế hệ mai sau hãy thử tìm trong những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 này xem có “công trình”, có “sáng tạo” nào ra hồn không? Rất hiếm người dám treo ấn từ quan...văn nghệ! Càng không thể có những tên tuổi, tàm tạm lớn, dám công khai xin ra khỏi Đảng như ở Pháp, ở Tiệp, ở Hung, ở Liên Xô khi thấy Đảng phản bội họ!

Đầu năm 2000 có một phát súng lục 6.35 mang tên Truyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn. So với Một Ngày Của Ivan Denissovitch, Quần Đảo Ngục Tù của Soljenitsyne thì chưa là cái gì. Tác giả chỉ mới “kể khổ” về nỗi oan ức của anh và của các bạn tù chứ chưa dám làm cuộc tổng kết nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến sự lộng hành, độc tài phát xít của một chế độ. Vào những năm 1950-1960, anh sẽ ra toà vì tội “chống Đảng”, hoặc đưa đi biệt xứ là cái chắc!

Nhưng sau lệnh thu hồi tác phẩm và kỷ luật nhà xuất bản, anh ngạc nhiên không ít khi đang chờ đợi một “đòn đánh” mới thì bỗng dưng lại được mời...đi họp “đại hội đại biểu Hội Nhà Văn”. Người ta tiếp tục chính sách tha hóa cán bộ văn nghệ bị đày đọa bằng một vũ khí mới: bồi thường “ngầm” cho một ít quyền lợi vật chất và tinh thần!

Không ít tên tuổi ngày nào còn bị coi như “đồ hủi” trong làng văn nghệ, bỗng hôm nay được các báo, các nhà xuất bản thi nhau bốc lên tận trời. Một “nhà phê bình lớn”(sic!) từng lên giọng “lập trường” chửi bới họ để kiếm chác lòng tin với Đảng, nay quay ngoắt 180 độ, khen lấy khen để người mà trước kia chính ông ta vùi xuống đất đen –– trường hợp giáo sư Hoàng Như Mai “đánh” thơ Hữu Loan. Tất cả những tư liệu giấy trắng mực đen đó mà được lưu giữ đầy đủ trong phần cứng của máy tính như thời nay thì chỉ cần “click” vài cái, bộ mặt tráo trở đểu giả của những “học giả”, “trí thức”, “văn nghệ sĩ cơ hội” này sẽ hiện ngay trên màn hình cho công chúng phỉ nhổ...

Dân tộc ngày nay là trở lại với “áo dài khăn đóng”, y hệt thời kỳ ông Diệm đã làm! Hiện đại là bắt chước những gì mà các nước đã thải ra đến cả chục năm. Chỉ tội cho quần chúng ít hiểu biết, kể cả mấy nhà báo trẻ chuyên viết về văn hoá văn nghệ, cứ tưởng là mới, những thứ đã có cách đây cả trăm năm! Đó là những bài hát kiểu Vincent Scotto, những màn Music Hall, điệu nhảy cancan của Broadway, của Moulin Rouge...những bức tranh bắt chước Cezanne ([9]), Monet ([10]) rồi Picasso ([11])... thậm chí cả những bức bôi bẩn Grafitti ([12]) mà cảnh sát các thành phố lớn phương Tây mỗi sáng phải lo đi tẩy sạch, cũng được chính các quan văn nghệ cho phép “búa xua”!

Về vấn đề “Mới” mà quá...“Cũ” này, tôi đã có dịp trình bày tại một đại hội âm nhạc Sài Gòn nhân vụ bầu đại biểu đi dự đại hội nhạc sĩ Việt Nam lần thứ 6 năm 2000. Tôi đã hát hàng loạt những bài mà tôi hát từ thời còn để chỏm và vạch ra cái giống nhau như hai giọt nước giữa các bài nổi tiếng thời 1940-1945 với những bài “tốp ten” “tốp tuếch” những năm đầu thế kỷ 21 ra sao. Tôi đã viết lên nhiều tờ báo về “ngôn ngữ ca khúc thời mở cửa”, về “quốc tế hoá ca khúc”, về “vấn đề toàn cầu hoá với âm nhạc”, về sự bát nháo trên thị trường âm nhạc, sự sa đoạ của những ngôi sao ca nhạc dỏm, sự ngạo mạn, coi thường quần chúng bằng những tuyên bố huênh hoang, nhăng nhít, thậm chí vô văn hoá trên báo, trên đài của một số hợm hĩnh do quá giàu nhờ... bịp bợm bằng nghệ thuật. Tất cả những gì tôi làm luôn được hoan nghênh triệt để, báo chí đều đăng, thậm chí còn được trao tặng giải nhất về báo chí năm 2001. Thế nhưng tôi cứ...“sủa”, lũ phá hoại âm nhạc vẫn cứ... đi! Hàng ngày chúng phun nọc độc vào tâm hồn trẻ thơ qua các giai điệu, tiết tấu “thuổng” hoặc ăn cắp nguyên xi của các Boys Band, Girls Band bên Anh, bên Mỹ, những triết lý tình yêu bẩn thỉu đủ kiểu “Yêu nhau đi... Chỉ còn đêm nay nữa mà thôi... ” hoặc “Hãy hôn em đi... dù em biết rằng anh dối lừa”, kiểu “Kiss, kiss again!” ([13]) hoặc “Đêm nay ký túc xá chẳng còn ai, Chúng nó đi chơi hết rồi... Hãy yêu nhau đi!” Thậm chí “tình yêu như cây cơ rem”, “yêu nhau ném đá vỡ đầu nhau ra...” Tất cả sự phản ứng của giới âm nhạc chuyên nghiệp, của các bậc phụ huynh lo lắng trước cảnh con cháu trong nhà mới tuổi mẫu giáo đã gào lên trước mặt ông bà, cha mẹ những “triết lý” thời kinh tế thị trường như “Trái tim tôi cỏ dại mọc đầy” hoặc “Nếu tôi nói là tôi yêu em...Đó là tôi dối mình”, những triết lý “tình tình tiền tiền” thối khắm mùi chụp giật và bịp bợm. Tuy vậy, ngày rồi ngày, vẫn cứ xuất hiện thêm nhiều nhạc sĩ, siêu sao, danh hài, quái kiệt, nhiều sáng tác mang nặng mùi thuốc độc do chính các nhà cầm quyền đương thời ký giấy cho phép, để lấy hoa hồng, để đẩy thanh niên ra xa khỏi những “vấn đề nhạy cảm”.

Những gì mà trước đây Đảng cấm thì nay Đảng công nhận, cho phép phổ biến, cho tha hồ tung hô vạn tuế trên báo, trên đài, tivi, trên sân khấu, trong các Show biểu diễn Pop, Rock, Rap...Các băng, nhóm với những cái tên tiếng Anh bắt chước vụng về, thô thiển và trơ trẽn những M.Jackson, Madona, Spice Gilrs...không ngớt nở rộ như nấm mùa mưa... Trên báo chí của Đảng, của Đoàn những cây bút chuyên viết về văn hoá văn nghệ thời Đổi Mới nay lại nói khác hẳn những điều họ từng nói về nền văn hoá vô sản, rằng đây chính là “Đảng tính kiểu mới”. Có một cây bút trẻ “thi sĩ nhạc sĩ hoạ sĩ nhà báo” đã công khai viết rằng “trong thời đại kinh tế thị trường, âm nhạc, phim ảnh cũng là hàng hoá! Cứ đưa ra thị trường, cái gì bán được nhiều tiền nhất là cái đó...hay nhất!?” Anh ta đâu có biết ngay ở phương Tây, người ta đang ra sức đấu tranh không mệt mỏi chống những thứ “văn hoá ăn khách” kích động bạo lực, hô hào chém giết, hiếp dâm...dù bọn này có hàng triệu fan hâm mộ, dù chúng đang là triệu triệu phú nhờ bán những đĩa Rap nhơ bẩn như “Fuck the Police”, “Fuck the America”, thậm chí cả “Fuck’in President” (nhóm Rap triệu phú Wu Tang Clan)... Chao ôi, dưới bàn tay phù thuỷ của quyền uy vô sản những Festival Rock Pop Việt Nam trình diễn bằng “tiếng Anh” (có tên “unplugged”) kéo dài cả tuần mà không hết khách! Tiền như nước cứ chui vào túi các bầu show, các “sao”, “siêu sao” do mấy chú nhà “báo bộ” phóng lên để kiếm tiền và kiếm... tình!

Bọn lưu manh chính trị và văn nghệ dựa vào cái cột cờ đã mục ruỗng của những người cộng sản cuồng tín một thời để tồn tại và đánh lừa khá thành công nhiều người chống cộng sản! Chúng đã lái mục tiêu đả kích của các nhà chính trị, các học giả, các đài phát thanh và báo chí nước ngoài vào cái xác chết mà chính chúng đã chôn vùi!? Chúng hẳn khoái chí lắm khi nghe thiên hạ chửi cái “hồn ma cộng sản” chứ chúng đâu có là cộng sản. “Chúng bay chửi cả làng Vũ Đại chứ lũ Bá Kiến chúng tao đâu có là người làng Vũ Đại”!

Cái đểu cáng nhất của bọn cầm quyền hiện nay là chúng dám làm bất kỳ điều gì có thể làm miễn ních đầy túi tham. Chúng sẵn sàng bán nước cho bất kể kẻ nào muốn mua, dù là Tầu, Mỹ, hay Nga. Một ngày nào đó chúng sẽ tuyên bố giải tán Đảng chưa biết chừng. Đó là lúc chúng đã “hạ cánh an toàn” với đống của cải chiếm được. Cũng chưa biết chừng có những tên còn tự đứng ra, hoặc cho con cháu đứng ra lập Đảng này, Đảng nọ, rồi lớn tiếng chửi cái Đảng hiện tại hơn ai hết... để lại chiếm những ghế ngon lành trong một chính quyền mới của những tên tư bản đích thực mà chính chúng sẽ là đại diện!?

Lạy giời phù hộ cho đất nước khốn khổ của tôi đừng rơi vào tay những chính trị gia đại cơ hội như thời kỳ nhiễu nhương “hậu cộng sản” ở một số nước Đông Âu!

Hai năm vào Nam, ra Bắc, tôi đã gặp khá nhiều bậc thức giả, công thần, tướng, tá vào tù ra tội một thời chống Pháp, chống Mỹ vẫn một lòng trung thành, vẫn cố vớt vát cái uy tín đã mất hết của Đảng bằng những “ý kiến đóng góp, xây dựng, kẻo “Đảng ta đánh mất lòng tin trong nhân dân!” (sic!) Hầu hết những tài liệu góp ý “Kính gửi, đồng kính gửi các đ/c...Bộ Chính Trị, Trung Ương, Ban... thẩy đều bị các đồng chí đàn em, đàn con, đàn cháu đang nắm quyền coi là “có hại cho an ninh quốc gia, cấm không được phổ biến”. Chúng được photocopy chuyền tay nhau đọc... như truyền đơn thời kỳ bí mật!

Riêng tôi, mỗi lần đến thăm một vị tướng về hưu, một đảng viên kỳ cựu cùng thời, 50, 60 tuổi Đảng, khi được cho xem những “tài liệu bí mật” ấy, tôi đều phát biểu thẳng thừng “Các cụ lại mắc lừa rồi! Chúng nó đâu còn là đồng chí của các cụ, các bác nữa mà các các cụ, các bác cứ “kính gửi” mãi thế! Nếu còn tinh thần cách mạng như xưa, việc làm tốt nhất là tuyên bố ly khai vĩnh viễn với cái chủ nghĩa cộng sản lỗi thời, với cái đảng mục rữa ấy đi thôi! Còn luyến tiếc nỗi gì!”

Một số đã xé luôn thẻ Đảng trước chi bộ rồi tuyên bố ra đảng. Một số nộp đơn xin ra Đảng với lý do “không thể chịu trách nhiệm trước nhân dân vì những chủ trương chính sách hiện hành” như trường hợp lão đảng viên Nguyễn Văn Bé 60 tuổi Đảng ở Nha Trang, như các anh Bảo Tân, Lưu Công Nhân ở Sài Gòn. Lưu Công Nhân còn cười hềnh hệch “dí điện” mấy ông đảng viên kỳ cựu là “Tớ vào Đảng sau mà bây giờ lại được ra trước, các vị vào trước mà sao vẫn chưa được...ra sau là làm sao vậy?” Đa số thì chọn con đường rút lui không tuyên bố!

Tuy nhiên không ít vị, do được hưởng quá nhiều bổng lộc, đã ăn quá nhiều bánh vẽ từ chính sách mị “cách mạng lão thành” nên há miệng mắc quai, đành chọn thái độ...“gặp thời thế thế thế thời phải thế”, đóng cửa lấy Thiền làm lý tưởng và lẽ sống những ngày cuối đời!

Riêng giới văn nghệ, chưa bao giờ tôi thấy thái độ tránh xa thời cuộc lại phổ biến đến thế! Đầu thế kỷ thứ 21 rồi mà chẳng mấy ông biết Internet là gì! Ba không: Không nghe, không thấy, không biết! Đó là câu trả lời thường gặp khi tôi hỏi đến các vấn đề gay cấn. Có ông còn khuyên tôi “Tình hình chính trị hiện nay có nhiều điều “nhạy cảm”, đừng dại mà “lên mạng” làm gì! Lên mạng bây giờ là “liều mạng” đấy!” Văn nghệ sĩ càng giầu thì lại càng mũ ni che tai hơn ai hết. Không những thế, do chính sách “chia để trị”, các cuộc “khỉ vặt lông khỉ” càng phát triển. Đảng cố tình ban phát quyền lợi không đều để các chú cắn xé nhau mà quên sạch trách nhiệm, lương tâm trí thức và lẽ sống của trí thức là sáng tạo.

Thời bây giờ chỉ cần viết dăm ba bài báo vô thưởng vô phạt, lý luận chung chung là đã có số tiền bằng cả ba năm gò lưng đẻ ra một cuốn tiểu thuyết, một vở kịch. Tên anh càng to thì nhuận bút càng lớn. Không biết bao nhiêu nhà văn tự nguyện “chuyển nghề” khi báo chí của Đảng nở rộ hơn nấm mùa mưa. Như vậy, đã hiểu tại sao cái sự hèn nhát đến thời kỳ “Đổi Mới” tưởng chừng phải mất đi, lại phát triển?

Sự trấn áp vẫn còn đấy, chỉ tinh vi hơn, bằng cách đánh vào dạ dày không có tuyên bố nên tôi và các bạn tôi vẫn cứ phải hèn…nhát. Trái lại, bọn cơ hội hãnh tiến cũng hèn, nhưng không phải hèn nhát mà là hèn...bạo! Từ cơ chế bao cấp về văn hoá văn nghệ chuyển sang văn hóa “kinh tế thị trường”, những ông quan văn nghệ giờ đây được trao vào tay hàng loạt quyền mới, phương tiện mới, dựa trên sức mạnh của tiền bạc tha hồ tự tung tự tác… Miễn là không dính dáng đến chính trị! Từ chỗ bắt mọi người phải sáng tác theo ý Đảng về cái Thật, cái Đẹp, cái Tốt bằng cái Dối Trá, cái Xấu Xa, cái Bẩn Thỉu, nhà cầm quyền cộng sản thời kỳ này mở toang cửa cho tất cả những gì là phản văn hóa nhất vào xã hội Việt Nam. Có thể nói thẳng ra rằng để củng cố quyền lực, người ta sẵn sàng cho cả một thế hệ thanh thiếu niên các thế hệ 8X, 9X...Việt Nam tự do...rơi xuống đáy của lương tri, của tư cách, của tâm hồn. Lúc nhúc, lít nhít, từ phường xã đến T.Ư, những tên thay mặt Đảng nắm mọi “đầu vào đầu ra” của văn hóa, mà văn hóa của bọn này chỉ nằm trong một chữ: Tiền! Chính nhờ những con dấu và chữ ký của bọn này mà có tình trạng thầy giáo bán chữ, thầy thuốc bán toa, bán tính mạng người nghèo, và văn nghệ sĩ bán... lương tâm! Tất cả chỉ vì chạy theo những đồng tiền để tồn taị, để vươn lên bằng người, để được hơn người.

Nếu tội của những tên quan văn hóa văn nghệ thời chiến tranh là cúc cung tận tụy làm theo cái gì mà trên bảo là đúng –– kể cả hại bạn bè, đồng nghiệp –– thì tội của bọn quan văn nghệ thời đổi mới này nguy hiểm và rộng lớn hơn nhiều. Đó là từ những cái “cho phép” của bọn chúng, cả xã hội đang bị đầu độc về tâm hồn, tư tưởng, đang bị tha hoá trong mọi mặt, ở mọi nơi, mọi lúc, mọi người từ nông thôn đến thành thị, từ chị nông dân bị “quy hoạch hóa” mất ruộng, ra tỉnh kiếm việc làm, đến ông giáo sư tiến sĩ viện trưởng, từ cô ca sĩ tốt nghiệp nhạc viện chính quy đến ông nhạc sĩ một nốt nhạc bẻ đôi không biết! Cả một mớ đại hổ lốn thực-giả, giả-thực, hay-dở, dở-hay...hàng ngày, hàng giờ được phản ảnh bát nháo trên báo, đài, tivi do Đảng lãnh đạo! Người khen, kẻ chê cứ tự do thả cửa bốc nhau hoặc chửi nhau mà chẳng có luật chơi nào, chẳng ai dám làm trọng tài vì hay-dở gì cũng có sự “lãnh đạo toàn diện của Đảng” cả! Chạm vào có khi bị xử theo “luật rừng”, cấm cửa, nghỉ chơi, tẩy chay thẳng cánh. Nhạc sĩ Trần Tiến bị ăn những ngón độc thủ này phải gần ba năm làm “thầy lang” (không... băm) đi chữa bệnh kiếm ăn, khi dám phê phán một số “nhạc-sĩ trẻ là “vô văn hóa”! Với những ông già của “nền văn học phải đạo” (chữ dùng của Hoàng Ngọc Hiến) người ta dùng đủ thứ huân chương, bằng khen, giải thưởng, danh hiệu... kèm theo “tí tiền còm”, kể cả tuyên dương “anh hùng lao động thời kỳ đổi mới” để thay cho băng keo dán vào miệng. Đối với một số phần tử khó chịu và đáng ngại nhất (những người thuộc các nhóm Nhân Văn, Đất Mới của thập niên 1950, nhóm "xét lại chống đảng" thập niên 1960-1970) người ta lẳng lặng cho lương hưu, cấp cho một căn hộ, thậm chí cho sang Mỹ, sang Pháp đi chơi! Họ gián tiếp nói “Chúng tôi đối với các anh tốt đấy chứ! Chuyện cũ do các vị lãnh đạo cũ đối xử với các anh thế nào chúng tôi cóc biết!”...

Cũng chính vào cái thời mà các nhà chính trị, các nhà dân chủ công khai trực diện với bọn công an cộng sản là lúc bọn “văn hóa tư tưởng” tung ra nhiều cái “bánh thật” với văn nghệ sĩ nhằm bịt miệng những cái loa mà chúng cho là nguy hiểm như các giải thưởng hàng năm, giải thưởng tổng kết, giải thưởng Trung Ương, giải thưởng địa phương, giải thưởng đoàn thể (thanh niên, phụ nữ... ), giải thưởng Ngành, giải thưởng Bộ, thậm chí cả giải thưởng quận, giải thưởng phường. Chỉ một thành phố Đà Nẵng đã dám treo cái “bánh thật” to tướng là 500 triệu đồng cho một bài hát hay nhất viết về địa phương mình nghĩa là gấp 100 lần trung ương! Tức là chỉ cần phẩy tay phối âm phối khí cho một ca khúc 16 nhịp đánh đi, đánh lại trong dịp kỷ niệm 50 năm, 60 năm bịa ra ở một địa phương, chỉ cần làm tổng đạo diễn cho môt buổi trình diễn múa hát, xếp hình, tập aerobic trên sân vận động, một nhạc sĩ, một đạo diễn có thể bỏ túi cả trăm triệu như chơi.

Cái thời nhà văn, nhà báo, nhà giáo “nhà nghèo” được coi là “lương tâm của thời đại” đã được không ít người chấm dứt bằng cách tận dụng thời cơ phớt lờ cái lương tâm ấy đi mà thoát khỏi xiềng xích đói nghèo bằng những tác phẩm “chẳng đụng đến ai để chẳng ai đụng đến mình!” Tôi được dự một bữa tiệc mừng giải thưởng Hồ Chí Minh có món tiền thưởng 30 triệu đủ mua một xe máy Dream mà người được giải chua chát nói “Hãy coi đây là một cuộc xổ số! Tiền của dân, họ ăn nhiều rồi nay chia cho mình một cái móng tay, tại sao không nhận”?

Khinh thường, tởm lợm cái quái thai xã hội chủ nghĩa với chiếc mặt nạ “công bằng, dân chủ, văn minh”... là đề tài bất tận ở khắp nơi, nhưng ngón lừa như trên không hẳn hoàn toàn không gặt hái được thành công.

Chỉ cần móc túi của dân quẳng ra cho các vị vài trăm đô la với mảnh giấy có kèm theo một “đồng xèng” mạ vàng giả –– huân chương –– những mẹ mìn thời hiện đại đã bịt miệng được không ít những bầu nhiệt huyết của mấy nhà thức giả gần đất xa trời... Chẳng thế mà, tới ngày được gọi ra lĩnh cái giải thưởng Hồ Chí Minh hay giải thưởng Nhà Nước, cái danh hiệu Nghệ sĩ Nhân Dân hay Nghệ sĩ Ưu Tú, lũ lượt các cụ đều lẩy bẩy chống gậy hoặc nhờ con cháu dìu ra để nghe các cháu lãnh đạo đọc sai cả họ lẫn tên mình (vì nhầm dấu, hay không biết các cụ là ai?). Cuối cùng là phải đưa bàn tay run rẩy ra bắt tay một tên cha căng chú kiết nào đó, thay mặt Đảng, trao cho cái phong bì đựng chút tiền còm! Nhục ơi là nhục! Hèn ơi là hèn!

Nhưng, cũng phải thừa nhận một sự thật cay đắng là nhờ trò bịp ấy mà ít nhất nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương có tiền sửa căn nhà nhỏ đang xuống cấp trầm trọng trong con hẻm ở quận Bình Thạnh, họa sĩ Lưu Công Nhân, nhạc sĩ Văn An, nhà thơ Thu Bồn... cũng đỡ cho vợ con phải “nhịn ăn mua thuốc cho chồng” từ nhiều năm bị Parkinson, xuất huyết não, liệt nửa người! Cái sự hèn ở thời kỳ này theo tôi, còn đau khổ hơn cái hèn làm “văn nghệ công chức” và phải gọi nó là...Hèn Hạ, nghĩa là cấp thấp của sự hèn! Chẳng còn gì trói buộc mà sao các bậc thức giả nước ta, các bậc đàn anh của tôi vẫn không cùng nhau lên tiếng?

Và thế là, chờ đợi mỏi con mắt, nhân dân chỉ thấy lác đác vài sự thật qua Trần Độ, Hà Sĩ Phu, Hoàng Tiến, Nguyễn Thanh Giang... phanh phui, đưa lên Internet, được quần chúng trong và ngoài nước biết đến, nhưng mỗi vị cũng mới chỉ gióng lên một tiếng chuông theo cái điệu riêng lẻ của mình! Thật là hiếm thấy một Phùng Quán, một Trần Dần, một Lê Đạt thời hiện đại. Một vài bước đi mạnh dạn của Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là của Dương Thu Hương sao quá hiếm hoi... Còn lại chỉ là kiểu “chửi đổng” ở cái Câu Lạc Bộ Thăng Long, là dăm ba câu vè cay cú, mấy mẩu “tiếu lâm hiện đại” phổ biến cho nhau lúc trà dư tửu hậu, khi gặp nhau ở các nhà tang lễ hoặc đi thăm hỏi nhau ở bệnh viện, lúc đã méo mồm, bại liệt! Còn lại, đa số đều bị khoá miệng bởi những miếng bánh cỏn con của các cháu lãnh đạo.

Một số lại yên lặng hưởng thụ hiệu quả “kinh tế thị trường” do con cháu nắm bắt được thời cơ, đang phất lên như diều, “trúng quả” bằng mọi cách, kể cả phạm pháp để làm giàu! Chẳng tìm đâu ra một ngọn cờ có thể tập hợp những cái đầu và những con tim có gan dám cùng làm một điều gì đó, dù nhỏ nhoi nhưng có tính chất tập thể...

Hai năm chống nạng đi khắp đó đây, gặp gỡ các vị cách mạng thứ thiệt “thời đánh Pháp, đuổi Mỹ”, tôi càng phát hiện thêm lắm... loại hèn! Nhưng hèn nhất vẫn là những nhà chính trị một thời đã quá tin vào cái tôn giáo ngoại lai duy tâm hơn tất cả mọi tôn giáo lạc hậu nhất cộng lại, nay đã bị xếp xó mà không chịu tự nhận mình đã lạc đường và vẫn tiếp tục bị lợi dụng, bị mua chuộc để...câm họng! Đố tìm ra vài ông cộng sản “cỡ bự” như Gorbachov, Eltsine... tự hạ cờ của Đảng mình, đứng ra xây dựng một thể chế mới, giải phóng đất nước khỏi cái ảo ảnh xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa lừa bịp!

Dám làm cái việc “trở cờ”, “phản bội” này đối với họ quả là khó hơn đi vào chỗ chết! Họ không bao giờ dám có can đảm nhận chính họ ở trong đám thủ phạm mà chỉ lép bép tự bào chữa rằng mình cũng là nạn nhân! Tôi chẳng vui gì khi đọc những tài liệu mà họ hoặc bạn bè họ phát tán trong đó mấy ông còn tự coi mình là “cộng sản chân chính”, vạch ra sai lầm của những nhà lãnh đạo trẻ đương thời cũng chỉ nhằm mục đích làm...trong sạch hàng ngũ Đảng Cộng Sản! Cứ làm như nếu xã hội ở trong tay các vị thì sẽ có chủ nghĩa cộng sản chân chính, sẽ có công bằng xã hội! Một số thì, qua những tài liệu “inédit” ([14]) lại nặng về giải thích tội lỗi của mình là do...cấp trên bảo phải làm thế như kiểu “Chiều Chiều” của Tô Hoài.

Sự “sám hối muộn màng” này, theo tôi, chẳng dũng cảm gì. Nó chẳng qua cũng là một dạng hèn! Nó thường xảy ra với những người có thời gian được ân sủng khá nhiều. Họ bày đặt mỉa mai những người đang làm “quan văn nghệ” hiện hành, nhất là đối với các đàn em đang vỗ ngực là cộng sản thời đổi mới! Phải chăng họ cố tình quên đi những nghị quyết, những chỉ thị mà họ từng họp bàn để đưa một Hữu Loan, một Phù Thăng xuống bùn đen, đưa một Văn Cao, Trần Dần đến chỗ chết cả tâm hồn, tác phẩm, lẫn thể xác? Phải chăng họ thấy chưa đủ quyền hành sinh sát, lợi lộc, bởi có ông tới 40 lần thay mặt mọi ngành văn nghệ đi công du khắp thế giới để... kiếm chác vẫn chẳng thấm gì với lương bổng, nhà cửa, xe cộ mà mấy ông quan văn nghệ thời “đổi mới” đang được hưởng?

Loại này, hèn còn hơn cả “lớp hèn yên lặng”, “lớp hèn chịu đựng” và “lớp hèn...kệ mẹ!”

Vậy tinh hoa đất nước giờ đâu tá? Hay bị...“hèn hoá” cả rồi? Ai cũng hèn như tôi sao? Ai sẽ người được “thời thế tạo nên anh hùng đích thực” của thời đại này? Ai sẽ đưa con thuyền Việt Nam khỏi con đường vô định này, nếu những người hèn vẫn không dám nhận là mình hèn, không kiên quyết giã từ cái ngu dại, không lên án những gì mà mình làm tưởng là “vinh quang rực sáng” lại chính là “tội lỗi ngút trời”, không biết khuyên nhủ con cái chớ có dẫm vào vết chân đầy máu và nước mắt mà mình đã đi qua...

Và cuối cùng, phải kiên quyết giã từ cái quá khứ đầy vinh quang vô ích của mình.

Chỉ có sự giác ngộ chính trị cuối cùng này mới giải toả được mọi nỗi đau. Sự “trở cờ”, “phản bội” để “đi tìm một sự trung thành mới” như Jean Paul Sartre nói không ai dám làm ư? Vì còn... sĩ diện! Vì còn bị quá khứ níu kéo?

Bỏ một thứ tà đạo, một niềm tin mù quáng, vứt vào sọt rác cái chiêu bài hoen rỉ, mốc meo, chẳng khác gì ly dị một con vợ độc ác, chẳng yêu gì mình khó lắm sao? Mà rất ít “thức giả” dám tuyên bố công khai: “Tôi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản”!

Chỉ cần vài chục, vài trăm nhà văn, nhà khoa học, tướng, tá...dám cùng ký tên vào một “bản tuyên bố chung”, công khai với toàn thế giới rằng: “Chúng tôi, những cựu đảng viên Cộng Sản sau khi thấy...,nay tuyên bố tự giải tán! Mọi sự ngộ nhận là cộng sản, chúng tôi không chịu trách nhiệm!” Lập tức sẽ xảy ra một cuộc “cách mạng nhung” ngay mà người ủng hộ hết lòng chính là các đảng viên cộng sản bất đắc dĩ hôm nay còn cầm thể đảng viên!

Sở dĩ bọn Tư Bản Đỏ còn cố giương cao ngọn cờ vô sản đã bị thiêu rụi ở tất cả các nước sản sinh ra nó vì chúng đang còn nhờ vào miếng võ độc “vô sản chuyên chính” là... còng số 8, nhà tù, họng súng để tồn tại!

Mặt khác, bọn chúng còn dựa vào uy tín của một số tên tuổi mà lịch sử khó thể bỏ qua về những thành tích vào tù ra tội thời chống thực dân, để tỏ vẻ “ta đây” vẫn “tiếp nối truyền thống cha anh”, “nối gót các bậc tiền bối”... để các vị “cách mạng lão thành” còn sót lại (đa số đã ở cái tuổi, 80, 90 cả) cảm thấy nở mày nở mặt chút ít trước khi được bọn chúng...đóng đinh vào nắp quan tài mời các cụ “về với Bác” cho khỏi vướng chân, vướng cẳng!

Và khi chỉ còn lại có các ông “tư bản đỏ” sinh sau đẻ muộn, thậm chí cả những vị “cộng sản miệng còn hơi sữa” mới được kết nạp vội vàng sau 1975, mọi chuyện sẽ xảy ra. Cá đối bằng đầu chẳng ai phục ai. Trên bảo dưới không nghe, dưới nhìn trên nhổ nước miếng.

Cuối cùng, chỉ cần một “đại hội” nào đó, người ta sẽ tuyên bố...“Đổi tên Đảng!” hoặc mạnh hơn, là “Giải tán Đảng để thích ứng với thời đại”... chẳng hạn. Thế là cách mạng mà...chẳng mất mạng ai cả sẽ xảy ra. Lớp chánh choẹ gia cũ, mới... nào đó chẳng còn lý do mà không đổi ngay cái tên nước, thay cờ, thay quốc thiều, quốc huy. Thời kỳ xã hội chủ nghĩa sẽ được con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại như một thời kỳ...tiền đồ đá, tiền đồ đồng, tiền trung cổ ở Việt Nam = thời kỳ đồ đểu!

Dù sau cộng sản có là thể chế gì đi nữa, dù đất nước có khủng hoảng rối bời vì sự đấu tranh của nhóm này, nhóm khác, đảng này, đảng khác thì, lúc đó, cái quyền được độc lập suy nghĩ, được tự do phát biểu, được phản đối hay đồng ý, được phế bỏ hay duy trì một ông thủ tướng như ở các nước xưa cũng thuộc địa như mình, cũng sẽ hay ho gấp triệu lần cái thể chế lưu manh cả đống” này! Cũng sẽ chẳng còn kẻ nào dám ra tay đàn áp.

Sẽ không còn chỗ đứng cho những kẻ bất tài, những tiến sĩ, giáo sư Mác-Lê-Xít-Mao mà chưa học quá bậc phổ thông, ngồi mọc rễ ở những chiếc ghế chủ tịt, thủ tướng, bộ, thứ trưởng!

Sẽ không còn chỗ đứng cho những văn sĩ i tờ, nhạc sĩ không biết son phe, hoạ sĩ chuyên vẽ cờ búa liềm bay trên đầu công nông binh hoặc nguệch ngoạc bằng chân lên tấm vải những hình tròn méo xanh, đỏ, tím, vàng để bịp quần chúng!

Sẽ đến thời kỳ mà đen phải ra đen, trắng phải ra trắng, người có tài và tên cơ hội phải được phân biệt rõ ràng! Sở dĩ bọn cộng sản giả danh này cố tình dây dưa, níu kéo cái đuôi Xã Hội Chủ Nghĩa càng lâu càng tốt vì chúng chưa chuẩn bị xong cuộc tháo chạy khỏi con tầu đang chìm, vơ vét chưa đầy túi mà thôi!

Chẳng thế mà khi Lê Khả Phiêu công du sang Italia, trả lời các nhà báo về chuyện làm sao các ngài “chưa đổi tên nước, tên Đảng cho phù hợp với thực tế đang diễn ra ở đất nước các ngài”, Phiêu đã nhắc lại lời của Phạm Văn Đồng khi còn sống: “Các ông hãy nhìn những gì chúng tôi làm... cái tên đâu có là quan trọng!” Nghe nói các tên trùm bảo thủ đã dựa một phần vào các tuyên bố “thật thà” trong chuyến đi Tây của Phiêu để đánh hắn một cú chết tươi.

Người Mỹ, người Đức, người Anh –– cả tôi nữa –– đâu có ngây thơ đến nỗi không biết điều giả dối này. Vì thế họ mới chịu... “tạm chơi” với chúng để đẩy nhanh cái ngày chúng cởi phắt cái áo cộng sản giả hiệu ra! Họ tạo điều kiện cho con em mấy chú Nguyễn Tấn Dũng, Trần Xuân Giá...đi “du học chơi” đâu có phải là họ OK chủ nghĩa cộng sản! Họ cử chuyên gia đủ loại kinh tế, luật pháp, quản trị hành chính, ngôn ngữ... tới Việt Nam đâu phải để củng cố cho chủ nghĩa cộng sản! Họ đang đẩy mạnh ngày xuống mồ của nhóm mafia cầm đầu đấy! Họ biết thừa rằng càng kinh tế thị trường thì nội bộ bọn chúng sẽ tự đào hố chôn nhau! Chẳng cần mang quân sang như tại Afghanistan, Irak làm gì! Cái mà người ta gọi là “diễn biến hoà bình” đang được chính những người “cộng sản dởm” tổ chức và chuẩn bị để hạ cánh an toàn trên danh nghĩa, cương vị hợp pháp mới: những nhà tư bản, tài phiệt mới... Mọi trật tự để thực hiện những gì mà các nước “giã từ cộng sản” đã trải qua đang được tiến hành. Chỉ khác là ở Việt Nam, những kẻ cầm quyền xảo quyệt và trơ tráo hơn những nước “anh em”. Chúng không tuyên bố như Gorbachov, như Eltsine mà làm thay đổi ngay “hạ tầng cơ sở” trước, biến tất cả của công, tài sản quốc gia thành của tư trước khi thay đổi thượng tầng kiến trúc, thay đổi thể chế!

Nước Việt Nam cộng sản sẽ vào AFTA, WTO, sẽ là bạn của Mỹ và của bất cứ ai vì bọn mafia CS đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, đã cắt cái đuôi xã hội chủ nghĩa từ lâu rồi!

Tuy nhiên, trước sự phản đối của những tên “vua không ngai” với bọn tay chân được bố trí vào các chức vụ quan trọng nhất, mọi việc “làm mà không nói” đều được bỏ qua. Thế đấy, cái mặt trái xấu xa, bẩn thỉu, đểu cáng từ bản chất của bọn chúng càng ngày càng lộ nguyên hình, đểu cáng, dối trá trắng trợn trước dư luận trong và ngoài nước khiến bọn chúng không thể không...làm thịt nhau trước giờ G. Đó là “bọn lau nhau cấp thấp” ăn cướp, ăn cắp, chia chác không đều bị nhân dân (và vài tờ báo “được phép có giới hạn”) vạch ra nên không thể xử lý nội bộ mãi nữa! Để ra cái điều chủ nghĩa cộng sản là ưu việt, là dân chủ, một số biện pháp nửa vời, bịp bợm được đề ra như thành lập uỷ ban này, ủy ban nọ, chống cái này, cái kia, xử lý “giơ cao đánh khẽ” một số “con dê tế thần” đã được chọn lựa...để nhân dân khỏi lần ra đầu dây, mối nhợ sẽ làm lộ toác bề hê ra các Bố Già mafia nằm ngay ở đầu não, hang ổ các thứ Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư, các Tỉnh ủy, Huyện ủy, Xã ủy, Đảng ủy...mà chúng tự “cơ cấu” để cùng nhau...thà chết không rời cái lý tưởng “Cướp! Cướp hết!” trước khi...hạ cánh an toàn!

Trong thời gian làm cộng tác viên thường xuyên của báo Sài Gòn Giải Phóng, tôi đã được nghe tận tai, nhìn tận mắt những lời kể, những tấm ảnh về các nhân vật VIP cỡ bự đã gián tiếp hoặc trực tiếp, khai sinh và nuôi dưỡng các loại “âm binh” như Nguyễn Văn Mười Hai, Minh Phụng-Epco, Vietcombank...để chúng lấy cả ngàn tỷ đồng của dân ra sao. Khi những vụ này đổ bể, tất cả báo chí đều được lệnh của... tuyên huấn là nói đến đâu, không nói cái gì...Nhưng tại các cuộc “bình loạn” sau giao ban, ở căng tin hay các cuộc trà dư tửu hậu, các cây bút trẻ chẳng ngần ngại phổ biến những gì mà lúc đi điều tra để viết bài, họ đã tìm thấy...Tuy nhiên “xếp” (tổng biên tập các báo) đã yêu cầu họ viết hạn chế đến đâu kẻo xếp mất ghế! Thế là cái sự thật trần truồng tuy chẳng thành giấy trắng mực đen lại luôn được “phổ biến nội bộ” để rồi bí mật của ba người trở thành của... tất cả! Cũng chính được trực tiếp làm việc với số anh em trẻ, mà tôi thấy cái hơn hẳn của họ đối với chúng tôi, lớp “về vườn”, lớp “hèn cả đời”. Chính họ, chứ không phải ai khác, đã và sẽ đâm những nhát kim tẩm độc vào “con voi cơ chế này”, đâm nhẹ nhàng, từng phát, từng liều, để voi lăn đùng một ngày không xa. Cái giỏi của họ là biết dùng thủ pháp khôn khéo, biết “phạm thượng” mà không sợ bị “đòn hiểm” và sẵn sàng từ bỏ “nồi cơm báo chí cách mạng” nếu cần.

Tóm lại, họ chẳng tin ai, chẳng tin thứ chủ nghĩa nào, chẳng cần “biên chế hay không biên chế” và luôn mong đứng trong hàng ngũ...nhân dân hơn là “bị” mời gọi vào cái Đảng chết tiệt đầy tai tiếng, vô lý tưởng!

Họ không hèn khốn hèn khổ như lũ chúng tôi xưa kia để tồn tại! Đằng sau họ, là một lực lượng lớn những trí thức, văn nghệ sĩ, giáo sư, học giả chân chính, những trưởng lão đạo giáo “ngoài quốc doanh”... với đủ loại động cơ tốt, xấu... cũng đã rục rịch, cựa quậy...

Dù chưa có một “ngọn cờ” tập hợp, nhưng những gì họ đã làm, đã viết, đã công bố trên Internet, cũng thức tỉnh được lương tri nhiều người ở cả trong và ngoài nước.

Nhưng cái lớn nhất mà nhà cầm quyền không thể lường hết là từ sự mất lòng tin, sự khinh bỉ, phỉ nhổ thậm chí căm thù của triệu triệu con người. Hàng loạt đảng viên đã từ bỏ Đảng, thôi sinh hoạt, hàng loạt trí thức, học giả đã bất cộng tác, không viết, không làm những gì trái với tiếng nói của lương tri và con tim...

Tôi sẽ mãi mãi mang nỗi căm giận xuống địa ngục nếu không có hai năm cuối đời được đi đây đi đó, được gặp gỡ bạn bè, đồng đội, “đồng ngũ – đồng ngu”, được tiếp cận với Internet, được nghe và đọc những gì muốn nghe, muốn đọc, để thấy được CÁI GỌI LÀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN CHÍNH LÀ MỘT TÀ GIÁO ĐẠI BỊP NHẤT TRONG LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI MÀ NHỮNG TÊN LÃNH TỤ TỐI CAO CỦA CHÚNG DỰA VÀO ĐỂ GÂY CHIẾN TRANH NỔI DA XAO THỊT, ĐỂ TIẾN HÀNH ÂM MƯU HIỂM ĐỘC TIÊU DIỆT MỌI LÒNG TIN KHÁC, MỌI NHẬN THỨC, MỌI TÌNH CẢM, MỌI TÌNH YÊU, KỂ CẢ LÒNG YÊU NƯỚC CỦA CON NGƯỜI!

Từ những thời xa xưa, từ Âu sang Á, một Tần Thuỷ Hoàng, một Néron cho đến lịch sử cận đại, một Lê Nin, một Stalin, một Mao Trạch Đông, một Hồ Chí Minh, cái “sai” luôn thuộc phía những ai có ý nghĩ khác với kẻ đang cầm quyền. Đó là những Trotsky, Zinoviev, Kamenev, Boukharine ([15]), là Vaclav Havel, là Imre Nagy ([16]), là Trần Độ, Hoàng Minh Chính, là Trần Xuân Bách ở Việt Nam. Hàng loạt cái chết bí ẩn hoặc công khai của các nhà chính trị, thức giả...(mà phương Tây dùng chữ “dissident”) ở Việt Nam sau này cần làm rõ. Họ bị bọn cầm quyền chụp cho đủ thứ mũ “phản động”,“chống đối”,“âm mưu lật” đổ”, thậm chí cả “gián điệp”...Toàn những “tội” mà theo pháp luật do chúng đặt ra, phải đem bắn! Tuy nhiên, cái thời kết tội Nguyễn Hữu Đang ([17]) là gián điệp “lọt vào Đảng từ năm 1943 để phá hoại” để kết án ông, người đồng chí đã tổ chức cho ông Hồ ra mắt đọc mấy lời sao chép từ các bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ, của Pháp tới gần 15 năm tù đã qua. Chẳng còn có thể bỏ tù Hoàng Minh Chính lần thứ tư, chẳng dám kết tội Phạm Quế Dương là “gián điệp”, chẳng còn dám thủ tiêu một Nguyễn Hộ, một hoà thượng Thích Quảng Độ, một linh mục Nguyễn Văn Lý, một Chân Tín, một Nguyễn Đan Quế... Mọi cuộc đàn áp dù là gọi lên cảnh cáo, cách ly, cấm cố, cắt Internet, điện thoại, theo dõi hay bắt giam, bỏ tù không xét xử, đến hôm nay, chỉ trong vòng một ngày là cả thế giới đều biết và lên tiếng phản đối ngay đã không cho phép nhà cầm quyền dễ dàng thẳng tay như thời “vô sản chuyên chính” những năm 1956-1960 nữa!

Tôi ước mong một ngày được thấy một Hoa Xuyên Tuyết, một Đêm Giữa Ban Ngày, một Hoa Địa Ngục xuất hiện trên quầy sách cùng với những “cánh chim báo bão” trong nước. Tôi chờ một Bảo Ninh, một Nguyễn Huy Thiệp, một Bùi Minh Quốc…lên tiếng bằng một loạt tác phẩm xé rào. Dù xuất phát từ động cơ nào, ngòi bút của họ đã góp phần đánh thức lương tri người đương thời, thổi ngọn gió vào đám cháy lớn, viết lại những trang lịch sử bị xuyên tạc hoặc đang để trống.

Chính những cuộc gặp gỡ, những tài liệu, những tuyên bố, những kiến nghị, thậm chí cả những án tù đểu cáng mà các bạn tôi, các đồng chí cũ của tôi phải trả giá cho sự Không Chịu Hèn Nữa của họ đã truyền thêm sức mạnh cho tôi phải hoàn thành gấp cuốn hồi ký để càng sớm công bố càng tốt. “Bi quan chủ nghĩa”, chán nản, thậm chí uất hận trước tình hình Cái Ác lộng hành hàng ngày xảy ra ngay quanh cái xó xỉnh ngoại thành Nha Trang này đã nhường chỗ cho một lòng tin trong tôi vào lớp trẻ có lương tri, có học vấn “thật”, vào lớp già đã thức tỉnh khi thấy được sự “tòng phạm vô ý thức” của mình mà ủng hộ những gì có thể vạch trần bộ mặt thật của cái xã hội “nửa dơi nửa chuột”.

Và tôi đã đọc lại nó, sửa chữa, bổ sung một số tài liệu với nhận thức mới, tình cảm mới, niềm tin mới...Tuy nhiên, ở cái tuổi 75, sức tàn, lực kiệt, tôi không đủ sức viết lại toàn bộ mà chỉ có thể viết thêm một chương cuối có tên “Tôi đã hết hèn!” Vì thế, toàn bộ những gì đã viết trước đó vẫn chỉ là những trang hồi ký của một thằng hèn, hèn đến cuối đời mà thôi nên xin cứ gọi đây là HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN!”

Nha trang một ngày sống thêm trong tiếc nuối...

30 tháng 6 năm 2002

Những ngày chờ một cơn bão sẽ nổi…

16.

VĨ THANH 2006

Tới hôm nay, 24-9-2006, tôi đã sống thêm được 4 năm nữa để bước vào tuổi 80 đến không ngờ!

Kể từ ngày quyết dứt bỏ nỗi Hèn Nhát đáng khinh để bắt tay vào viết cuốn Hồi Ký Của Một Thằng Hèn (1995), rồi lại bổ sung một chương Tôi Đã Hết Hèn (2002) tới nay là đúng 4 năm nữa, tập hồi ký vẫn chưa được công bố! Tôi giấu kín nó như ...

thuốc phiện lậu trong nhà và cẩn thận đề bằng bút dạ ngoài cái túi đựng nó “Để xuất bản năm 2010”.

Đây cũng là cái năm mà tôi tin tưởng:

1. Chủ nghĩa cộng sản quái quỉ này đã...“mồ không yên mả không đẹp” bởi cái hố mà nó tự đào không đủ sâu đến nỗi nhân dân đã đẩy nó xuống, nó vẫn bốc mùi đểu cáng thối tha đến mức ngày nào cũng có hàng vạn người quật chúng lên để rắc vôi bột!

2. Tôi đã...chết rồi! Nghiã là nếu chẳng may cho đất nước này, tới năm 2010 mà bọn lưu manh còn tại vị thì chúng cũng chẳng thể bỏ tù tôi với các tội “phản quốc”, “gián điệp” cho nước ngoài...như chúng đã bỏ tù các vị Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương. Lê Hồng Hà... !

Đấy! Cái hèn đeo đuổi tôi tới những ngày cuối năm 2006 chẳng qua vẫn lo họ “chơi đểu” thì khổ cho vợ con. Nhưng hôm nay, tất cả đã đổi khác.

1. Một cao trào cách mạng thực sự đã nổi lên. Rất nhiều người đã công khai vạch trần cái thối nát, lừa bịp của bọn ăn cắp, lưu manh đang mượn lá cờ rách nát “chủ nghĩa cộng sản” để cai trị, đàn áp, hủy hoại cả thể xác và tâm hồn của hơn 80 triệu dân. Bất chấp nhà tù, bất chấp mọi thủ đoạn gian manh, độc ác như trấn áp, vu cáo, thủ tiêu, những con người dũng cảm tuyệt vời đó ra đứng hiên ngang trước ánh sáng mặt trời, với họ tên, nghề nghiệp, địa chỉ, địa chỉ e-mail, điện thoại, mobile đàng hoàng! Bên các tên tuổi “lão thành chống cộng trong nước”, tôi mê mẩn bởi bài viết của các đàn em, đàn con, đàn cháu tôi như Trần Mạnh Hảo, Trần Khải Thanh Thủy, Phương Anh, Du Lam...Tôi vô cùng cảm phục hành động và lời nói của những Phạm Hồng Sơn, Trần Anh Kim, Nguyễn Văn Đài, Đỗ Nam Hải, Bạch Ngọc Dương, Lê Thị Công Nhân, Lê Trí Tuệ...Tôi như trẻ lại với lớp trẻ của thời đại. Hy vọng của tôi ngày trước nay đã thành hiện thực...

2. Chế độ độc tài “ngụy cộng sản” đã lộ rõ mặt thật chỉ là một bọn Mafia cướp của, giết người, lừa bịp dân đen bằng lời lẽ xảo trá mà đứa trẻ lên năm cũng biết là nói dối. Ở đầu thế kỷ 21 này, câu nói của Goebbel không thể áp dụng được nữa vì chúng đã đi xa hơn những gì mà quan thầy phát xít của chúng đã dạy nên...nhân dân đã trả lời: “Không tin! Không tin và... không tin!”

3. Nội bộ cái gọi là Đảng Cộng Sản phân hóa cao độ, chẳng thằng nào nghe thằng nào. Những “lão thành cách mạng” 50, 60 thậm chí 70 tuổi Đảng vẫn kiếm cách hạ bệ nhau. Thằng cầm quyền trước vạch tội thằng cầm quyền sau. Võ Nguyên Giáp là con nuôi Đế Quốc Pháp? Đỗ Mười là tên hoạn lợn chuyên...“hoạn” đồng chí mình? Lê Đức Anh là cai đồn điền khai man lý lịch? Nông Đức Mạnh là con rơi của Hồ Chí Minh? Nguyễn Tấn Dũng là con rơi của Nguyễn Chí Thanh, là anh em cùng cha khác mẹ với Nguyễn Chí Vịnh? Rồi vụ T4, vụ Sáu Sứ... Nhiều, nhiều chuyện lừa bịp, xuyên tạc lịch sử động trời lần lượt được chính các “lão thành cách mạng” tố ra. Dù nhằm mục đích gì, do động cơ nào thì mọi sự thật thối tha lâu nay bị bưng bít đã được bọn chúng tự “vạch áo cho người xem lưng” làm cho nhân dân thực sự “sáng mắt, sáng lòng”, nhất là các tài liệu đó lại được ký tên bởi các nhà cộng sản cỡ bự như Võ Nguyên Giáp, Lê Nam Khánh, Hai Sô, Bảy Cống, Năm Thi, Nguyễn Hòa...

4. Tình hình thế giới đang dồn bọn cầm quyền vào cảnh không lối thoát: Hoặc là theo con đường toàn thế giới đang đi, hoặc là quay lại chế độ phát xít sẵn sàng tiêu diệt dăm bảy triệu người trong các trại tập trung, lò thiêu xác? Điều sau thì không thể được rồi vì “cái nhà chung thế giới” trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển như ngày nay không cho chúng muốn làm gì thì làm. Chính nhờ những nghị quyết như 1481 của Nghị Viện Châu Âu, những sự can thiệp gián tiếp hay trực tiếp của các chính phủ, các hội đoàn, các tổ chức quốc tế và mạng lưới truyền thông toàn cầu không ngừng đòi hỏi dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam mà tới hôm nay (15-11-2006), chúng không còn dám trắng trợn trấn áp tàn bạo những người đấu tranh cho dân chủ, không thể ngăn cản tiếng nói cổ võ dân chủ, vì nhân quyền của các đài BBC, RFA, RFI, VOA... và hàng trăm tờ báo online đại diện cho hơn ba triệu Việt kiều ở Mỹ, Pháp, Anh, Ba Lan, Tiệp, Đức, Hung...đang từng giờ góp tiếng nói đanh thép ủng hộ bà con trong nước đứng lên chôn vùi cái chính quyền đảng trị, công an trị để họ được sớm trở về góp sức xây dựng tổ quốc tiến lên bằng bè bạn năm châu. Hơn cả mong đợi là sự ra đời của 3 tờ báo Tự Do, Ngôn Luận, Tổ Quốc và Dân Chủ ở trong nước, bất chấp mọi quy định của cái thể chế Xã Hội Chủ Nghĩa duy nhất trên thế giới này.

5. Tôi đã thật sự “trưởng thành” ở cái tuổi 80 để nhìn lại bản thân mình. Qua những năm tháng im lặng chờ thời, “bất hợp tác” với bọn lưu manh bằng cách không nghe, không xem, không đọc những gì cộng sản viết để chỉ vùi đầu vào màn hình “lang thang khắp thế giới” ít nhất mỗi ngày 8 tiếng... tôi đã tự giác ngộ thật hiệu quả. Tôi đã làm quen với bao nhiêu điều hay, biết được bao nhiêu sự thật, mở được những trang lịch sử lâu nay bị ém nhẹm, bị xuyên tạc. Đặc biệt nhờ Internet mà tôi đã “gặp” bao con người đáng kính trọng, đáng noi theo mà tôi đã nêu ở trên. Tôi cũng được động viên bởi bạn bè, đồng chí đã “lầm đường cách mạng”, các “đảng viên âm thầm hoặc công khai bỏ Đảng” như tôi, và một số anh em ở khối 8406, khi có dịp tôi cho đọc từng chương Hồi Ký Của Một Thằng Hèn này đã nhắc: “Phải công bố nhanh lên kẻo...nguội mất! Nếu không sẽ chỉ là một thứ “ăn theo” vì giờ đền tội của chúng nó đã đến”! Vì thế, tôi quyết định phải cho cuốn hồi ký ra mắt “trước thời hạn”!

Tuy nhiên, khi đọc lại lần cuối, tôi cảm thấy hồi ký này chỉ là của một người có tầm nhìn, nhận thức về tư tưởng, tình cảm...quá lạc hậu với thời cuộc. Thậm chí cái Hèn vẫn bao trùm nhiều khía cạnh, nhiều trang đời, nhiều suy nghĩ của tôi... ngay trong quá trình ngồi viết về cái hèn của bản thân!

Tôi muốn viết lại từ đầu!

Nhưng...than ôi, quỹ thời gian còn lại quá eo hẹp.

Tôi đã 80 tuổi. Thôi thì đành viết thêm cái “vĩ thanh của vĩ thanh”.

Người đọc hãy đặt mình vào hoàn cảnh người viết trong một xã hội mà một bài báo cũng có thể đi tù để thông cảm cho sự chuyển biến của ngòi bút đang cố gắng theo kịp chuyển biến lịch sử! Tôi chỉ có thể bổ sung một chương nữa với nhận thức mới, tình cảm mới trên một tư thế mới hoàn toàn. Tôi không còn sợ hãi, tránh né, không còn lo đụng chạm bất kể ai! Cũng có thể coi đây là tóm tắt tất cả các chương mà tôi đã viết, nhưng bằng nhận thức, bằng tinh thần thời đại nhất – 2006.

Vĩ thanh này được tiếp sức bởi các hành động, các phát biểu, các vụ án nhân quyền đểu cáng nhất mà cái gọi là Đảng Cộng Sản tạo ra cho bao người yêu tổ quốc Việt Nam. Bên cạnh đó là những cuộc đấu tranh cho dân chủ Việt Nam – của kiều bào ở hải ngoại, của các nhà dân chủ như Vaclav Havel, Loretta Sanchez, Walecsa...

Tôi đặc biệt biết ơn tiếng nói đầy thuyết phục của các giáo sư, bác sĩ, luật sư...là nhân chứng lịch sử, đã mở mắt cho tôi nhiều điều từng bị cộng sản làm cho u mê.

Tôi cảm ơn các báo, đài hải ngoại đã đưa đến cho tôi những thông tin, tài liệu, những tác phẩm cực kỳ quí giá làm thay đổi hoàn toàn cách nhìn chủ nghĩa cộng sản của tôi. Quyết tâm đi theo con đường mà Hoàng Minh Chính, Hoàng Tiến, Vũ Cao Quận, Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Thanh Giang...đã đi, tôi bắt đầu...viết thêm những gì mà sau 9 năm, đọc lại tôi thấy tôi chưa đủ “tầm” để vạch tội đến nơi đến chốn, lên án chưa đanh thép chủ nghĩa Cộng Sản. Phần nào đó, tôi còn e dè một số nhân vật mà tôi chưa nhận rõ tính chất đểu cáng, lừa bịp vì không có tài liệu cụ thể, giấy trắng mực đen nào trong tay... Có thể kết luận về tôi như sau: Một chú lính đã nhìn rõ kẻ thù nhưng chưa có súng đạn, chưa dám dùng gậy tầm vông, thậm chí tay không đối mặt với kẻ thù!

Hôm nay, súng đạn, lưỡi lê đã có đủ, tôi sẽ xông vào trận, không e dè, sợ hãi nữa. Tôi sẽ biến mỗi dòng chữ thành một viên đạn nhắm thẳng vào kẻ thù. Cũng vì thế mà “vĩ thanh 2006” của tôi sẽ là “hồi ký của một thằng hèn được cô đọng”, (épilogue condensée) có nâng cao và sửa chữa, bổ sung. Nếu không có thì giờ, người đọc có thể bắt đầu từ những trang vĩ thanh trước khi quay lại trang đầu, đọc nó như đọc một tài liệu đã xuất bản cách đây cả 10 năm rồi.

MẤY ĐOẠN VIẾT THÊM

17.

VÌ SAO TÔI VÀO ĐẢNG?

VÌ SAO TÔI CHUỒN KHỎI ĐẢNG?

Lớp trẻ có chút học hành chúng tôi ít nhiều đều chịu ảnh hưởng cuộc Cách Mạng Pháp 1789, nhờ sách báo Pháp mà giác ngộ ba chữ Liberté, Égalité Fraternité – Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái. Tiếc thay, chúng không dành cho dân Anamít mình!

Sự thật phũ phàng là không chỉ dân nhà quê, răng đen, đóng khố phải đói khổ, sống như trâu ngựa, mà chính chúng tôi cũng thấy thân phận nô lệ của người Việt ngay trên ghế học đường, trên phố xá. Thành thử trong những ngày sôi động Tháng Tám 1945, ai ai cũng sẵn sàng theo ... bất cứ ai đứng ra phất cờ giành Độc Lập, Tự Do, giành cơm no, áo ấm cho 20 triệu đồng bào đang... “rên xiết lầm than” như lời ca bài Diệt Phát Xít của Nguyễn Đình Thi.

Chúng tôi sướng như điên khi thấy Nhật bắt hàng loạt tây, đầm lóc nhóc đi chân đất vào trại giam trong ngày Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945. Chúng tôi hô đến vỡ giọng, đến khan tiếng khẩu hiệu “Việt Nam Độc Lập muôn năm!” “Đại Đông Á muôn năm!” Hàng vạn thanh niên tay cầm cờ quẻ ly miệng hát vang “Này thanh niên ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng”... Sự thật là chúng tôi gần như sống trên mây, trên gió cả 5, 6 tháng trời trong “độc lập tự do” vu vơ mà chẳng cần biết ai là người đứng đầu cái đất nước đang chết đói này? Tôi đã đứng trong hàng ngũ Thanh Niên Khất Thực đi xin cơm từng nhà để cứu đói, ra quân sau khi hát vang quốc ca “Này thanh niên ơi!...” được chính khâm sai đại thần Phan Kế Toại bắt nhịp! Ở miền Trung, nghe nói Bảo Đại trở lại làm vua...Những chuyện chính trị chính chiếc nghe cứ ù ù cạc cạc. Thôi, cứ đuổi cổ thằng Tây đi đã, rồi chế độ gì cũng được, miễn người Việt dạy dỗ, bảo ban nhau là tốt rồi!

Trong khi đó, người Nhật càng ngày càng lộ bộ mặt tàn ác hơn Tây thực dân bằng những hành động cướp của giết người dã man khắp nơi. Dân quê đổ ra tỉnh nằm chết đầy đường. “Chính phủ lâm thời” hoàn toàn bất lực.

Nghe nói nhiều nơi ở nông thôn dân chúng nổi dậy phá kho thóc, cướp chính quyền...Cũng lại “nghe nói” ở Vĩnh Yên, Quốc Dân Đảng đã lập chiến khu đánh cả Nhật lẫn Pháp. Nổi trội lên là một tổ chức có tên Việt Minh được Đồng Minh giúp vũ khí tiền bạc để chống phát xít Nhật...

Rồi hai trái bom nguyên tử rơi xuống đất Nhật và Nhật đầu hàng vô điều kiện. Chính phủ Trần Trọng Kim với các tên tuổi nổi danh ra mắt và Bảo Đại tiếp quản chính quyền từ tay quân Nhật. Không còn các sĩ quan Nhật lê thanh kiếm dài sát đất đi khắp nơi, chém chẻ tre bất cứ ai. Không còn ông toàn quyền, thống sứ, không còn lính Tây, chủ Tây! Lũ chúng tôi ùa ra đường tay cầm cờ quẻ ly, miệng hát “Xứng danh nòi giống Tiên Rồng”!

Đúng ngày 17 tháng 8 năm 1945, chúng tôi kéo nhau đến quảng trường Nhà Hát Lớn Hà Nội mít-tinh chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim. Cuộc mít-tinh bắt đầu được mấy phút bỗng hàng loạt cờ đỏ sao vàng được tung ra, cờ quẻ ly bị giật xuống và trên bục diễn giả xuất hiện một người đeo poọc-hoọc [1], đăng đàn diễn thuyết, kêu gọi đồng bào đi theo Việt Minh, đánh Pháp, đuổi Nhật, đòi lại áo cơm, tự do, xóa bỏ gông xiềng...Những khẩu hiệu vừa phát ra đã có hàng ngàn người hô to hưởng ứng. Không một tiếng súng. Không một sự phản kháng từ ai, từ đâu, dù trại lính Nhật ở cách đó chỉ khoảng 300 mét!

Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh như thế đó!

Sau này, loại thanh niên “yêu nước hồn nhiên” bọn tôi đâu có dám lên tiếng khi nghe người ta tự tâng bốc kể công với lịch sử rằng: “Đảng đã lãnh đạo toàn dân nổi dậy đánh Pháp, đuổi Nhật dành tự do, độc lập cho đất nước!”

Và các nhà viết sử nhà nước cộng sản cũng lờ tịt luôn cái chuyện Việt Minh cướp chính quyền từ chính phủ quân chủ lập hiến Trần Trọng Kim – Không khác vụ lật đổ chính phủ Kerensky ở nước Nga trong lúc nội tình nước này đang bối rối. Thực tế lúc ấy là Việt Minh đã xuất hiện như tổ chức duy nhất, chỗ dựa duy nhất, lá cờ duy nhất, để lũ thanh niên “yêu nước ngơ ngác” chúng tôi đi theo. Chúng tôi có biết gì đến cái đảng cộng sản cộng xiếc, nhất là ông Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau đó còn công khai tuyên bố GIẢI TÁN ĐẢNG của ông ta trước thế giới và đồng bào cả nước! Trong chính phủ có đầy đủ các vị Huỳnh Thúc Kháng [2], Phan Kế Toại, Nguyễn Hải Thần [3], Nguyễn Tường Tam [4], Vũ Hồng Khanh [5]... và cả “cố vấn” Bảo Đại nữa.

“Quả lừa lịch sử” bắt đầu chính là từ đây!

Vận nước khốn nạn nhất cũng bắt đầu từ đây!

Tại sao Việt Nam không độc lập như Mã Lai, Nam Dương, Ấn Độ, Thái Lan, Phi Luật Tân...mà phải qua 30 năm chém giết kẻ thù thì ít...mà chém giết nhau thì nhiều?

Chính lòng yêu nước mù quáng đã biến lũ trẻ thời ấy thành “đồ hèn” suốt nửa thế kỷ, nghĩa là hết cuộc đời... vì khi hát lên câu “Đoàn giải phóng quân một lần ra đi”.. chúng tôi chỉ vừa tròn 18 tuổi, hoàn toàn ngây thơ trước thời cuộc, sẵn sàng làm “hạt nổ” cho bất cứ quả bom nào miễn là giật tung được cái chế độ nô lệ kéo dài 80 năm của thực dân Pháp! Cứ thế, chúng tôi “lạnh lùng vung gươm ra sa trường” như câu hát của Văn Cao. Tôi viết những dòng này trong mối thương tiếc vô hạn bạn bè đã ngã xuống không ai biết, không ai nhắc tới…trong cuộc lừa đảo vĩ đại mà không phải ai cũng nhận ra, lúc ấy.

Trường đoạn 1: Tôi đi Vệ Quốc đoàn

Chẳng ai trong chúng tôi học qua trường quân sự nào, vậy mà vừa vào bộ điệu tôi đã được hơn một trăm “đồng chí” của đại đội 1 tiểu đoàn Thái Bình giơ tay bầu làm phân đội trưởng! Đó là một đơn vị thành lập tháng 9-1945 gồm đa số nông dân, 99% mù chữ, 30% răng đen, lần đầu trong đời có hai bộ quần áo màu nâu đỏ, được ăn hai bữa tạm no, nhờ “may mắn” đứng trong đoàn quân vũ trang “cách mạng”. Anh em bầu tôi vì thấy tôi mặt mũi sáng sủa, ăn nói lưu loát, nhất là biết đọc những gì mà đại đội trưởng Thu và tiểu đoàn trưởng Nam (Voi) ra lệnh bằng chữ viết – có khi nguệch ngoạc ngay trên vỏ bao thuốc lá Philipps Morris, Mélia.

Bài học quân sự đầu tiên mà tôi huấn luyện cho lính của tôi, là...“Tập hợp! Đằng trước... thẳng! Đi đều... bước”! Tôi đi ở ngoài hàng, đếm “Một, hai... một, hai... một!”

Vũ khí thì cả đại đội được trang bị 4 khẩu Rebel, 2 khẩu Sten, hơn chục khẩu Mousqueton...vài chục lựu đạn ... khói! Còn lại là gậy gộc, mã tấu. Vậy mà chúng tôi “vui như mở hội” lao vào học tập những từ mới toanh trong đời như “phản đế”, “bài phong”, “tư bản”, “đế quốc”, “phát xít”... đặc biệt được kích động tối đa lòng căm thù giặc, sẵn sàng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, sẵn sàng “da ngựa bọc thây lòng này vẫn vui” như lời ca của Hoàng Quý.

Những bài học quân sự đầu tiên đều do mấy ông cai, ông đội khố xanh, khố đỏ “giác ngộ cách mạng” chỉ dẫn. Từ cách tháo lắp súng đến cách nằm bắn, đứng bắn, quỳ bắn, rồi cả chiến thuật.., tóm lại tất cả những gì các vị này được quan Tây dạy thì dạy lại lũ chúng tôi. Chưa hết, do nhiều danh từ chưa có trong tiếng Việt nên các ông cứ “nổ” liên hồi bằng tiếng “Tây bồi” chẳng cần biết đám lính tráng nông dân mù chữ nghe các ông cứ ù ù cạc cạc... Điều này giải thích vì sao, một năm sau, vừa nổ súng đánh Tây mà các bạn tôi, những Phó Bá Hùng, Phan Năng, Lê Đăng, Lê Phú, Trần Kim... và nhiều nhiều nữa, những con người nhiệt tình yêu nước đã sớm ngã xuống như những “chiến sĩ không tên” vì chưa làm được gì để được gọi là... “anh hùng”! Đáng nhớ nhất trong ký ức tôi là cái chết của toàn bộ đoàn Tuyên Truyền Giải Phóng Quân Chiến Khu 3 (văn công quân đội ngày nay) tại Nhà Hát Lớn Hải Phòng cùng trung đội anh Nở, bảo vệ Nhà Hát Lớn trước sức tấn công của pháo binh, xe tăng có máy bay bà già chỉ điểm. Họ bị hy sinh không sót một người. Một trường đoạn cực kỳ bi hùng và đau xót của lớp trẻ yêu nước “ngây thơ ngơ ngác”, chẳng biết chủ nghĩa gì ngoài chuyện ghét Tây.

Trường đoạn 2: Cuộc chiến không thấy kẻ thù

Sau cuộc thử lửa đầu tiên của tôi trên mặt trận Hải Phòng, cuộc chiến chống trả người Pháp gây hấn được tạm thời xếp lại do cuộc điều đình với phái đoàn Hoàng Hữu Nam. Tôi được điều về làm việc trong không khí hết sức phức tạp ở Phòng Quân Nhu Bộ Tư Lệnh 3, đóng trên đường Cát Dài. Tất cả đều đang chờ “cụ” Hồ đi thương lượng ở Fontainebleau về tương lai đất nước nên Tây và ta tạm thời chung sống hòa bình.

Tôi được giao nhiệm vụ đi làm việc với Tây vì biết tiếng Tây, tuy đúng hơn nên dùng cái từ “thông ngôn” (interprète), vì tôi chỉ dịch những gì mà các ông Sĩ, ông Quất, ông Tài phát biểu. Ngày ấy, ông nào cũng tự mua cho mình một cái lon nền đen có vạch kim tuyến trắng, lúc đeo lon trung tá, lúc đeo lon thiếu tá, tùy mức độ quan trọng của vấn đề cần bàn với người Pháp hoặc tùy đối tác thuộc cấp gì. Tôi cũng có hai cái lon, một thiếu úy, một trung úy. Không ai dám có sáng kiến đeo quân hàm cao hơn hai ông Hoàng Minh Thảo và Lê Quang Hòa lúc ấy chỉ gọi là... đại tá chứ chưa ông nào là tướng cả! Tôi thích thú công việc này vì đỡ phải lãnh trách nhiệm cầm quân đi đánh đấm, ít rủi ro mất mạng, và trên cả mong đợi là được mặc y như sĩ quan...Mỹ (!), được đeo kè kè bên hông, lủng lẳng trên chiếc thắt lưng Mỹ, khẩu Colt bạt, được cưỡi xe Zeep đi lại thành phố Hải Phòng đang âm ỉ cuộc chiến mà tôi cứ nghĩ sẽ không xảy ra nhờ tài chính trị khôn khéo của Nguyễn Ái Quốc vĩ đại!

Nhân dân Việt Nam sẽ được độc lập tự do, được đứng trong khối Liên Hiệp Pháp, được sự che chở của những người đã đập tan phát xít Đức để giành lại tự do cho nước Pháp mới. Tôi cùng một số bạn bè, kể cả vài sĩ quan Pháp mà tôi có dịp quen biết trong các vụ giao dịch, rủ nhau đi bát phố, đến nhà riêng của vài người, cùng nhau đàn hát các bài ca của Vincent Scotto, Văn Cao, Đặng Thế Phong... thậm chí đã hẹn nhau sẽ có ngày cùng đi thăm tháp Eiffel, bảo tàng Louvres, đi Moulin Rouge...

Một hôm, J. J. Aimovich, gốc Nam Tư, hẹn gặp tôi tại cửa Bar Dancing “Black Cat”, trên đường Cầu Đất. Anh nói trong ray rứt “C‟est foutu! C‟est foutu!” [6] rồi kéo tôi vào bar, gọi hai chai bia. Aimovich uống và nói rất dài về cái mà sau này ông Sainteny [7] đã viết trong cuốn Histoire d‟une Paix Manquée. Tóm lại, hòa bình vứt đi rồi! Họ – phía Pháp – không chịu dù ông Hồ nhượng bộ rất nhiều vì...họ cho là có nhiệm vụ ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản chứ không chống dân tộc Việt Nam đòi độc lập tự do... “Việc ông Hồ của chúng mày giải tán đảng cộng sản là trò...lừa đảo!” (nguyên văn:“bluff”) nên chúng ta đành chia tay nhau thôi. C‟est regrettable! Infiniment regrettable! – Thật đáng tiếc! Vô cùng đáng tiếc!”

Anh ta vội vã trở về vì có lệnh cấm trại từ 9 giờ tối hôm đó. Trên đường trở về Phòng Quân Nhu Bộ Tư Lệnh, tôi ghé qua đại đội 3 Lê Khắc Tư, thấy cảnh chuẩn bị chiến đấu đang diễn ra rất khẩn trương. Những bao cát chất đầy ngay cổng gác, những thùng đạn các cỡ đang được bật tung để phân phối cho từng khẩu đội, từng người.

Phòng Quân Nhu bắt đầu sơ tán kho tàng tài liệu ra khỏi thành phố. Toàn thể cán bộ, nhân viên theo lệnh của phó phòng Lê Văn đều nhanh chóng chuyển về Bộ Tư Lệnh ở Kiến An. Riêng ba chàng trai trẻ ưu tú nhất, mạnh khỏe nhất là Lê Kim Ưởng, Nguyễn Văn Đăng, Vương Đình Hoàng với tôi là bốn được giao nhiệm vụ ở lại chiến đấu bảo vệ cơ quan. Mỗi người được phát một khẩu thompson mua lại của chính lính Tây qua một trùm “bấu xấu” – nay gọi là “cò” – có tên là Đinh Đồng! Không một ai sợ hãi xin rút lui khi lần đầu được có trong tay một khẩu súng Mỹ hiện đại, sẵn sàng phục kích diệt quân thù sau những đống đồ đạc lỉnh kỉnh, sa lông, giường, tủ... làm chiến luỹ y như trong Những Người Khốn Khổ của Victor Hugo! Vì tổ quốc Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng làm những Gavroche. Ngây thơ và trong sáng như thế đó! Nhưng, gần cả tuần chẳng thấy bóng thằng Tây nào xuất hiện ở đầu đường Cầu Đất – Cát Dài cũng như ngã tư Cát Cụt cả.

Trái lại, khi chiến sự diễn ra, quân Pháp cứ theo các toạ độ được tính sẵn trên bản đồ rót xuống các nơi có trại lính, cơ quan Việt Minh đủ loại ô-buy, moóc-chiê 75 ly, 105 ly để “hất” chúng tôi ra khỏi thành phố. Cũng may mà thời ấy, không lực Pháp gần như chưa hề tham chiến. Mãi vài năm sau mới thấy mấy cái Junker, Spitfire xuất hiện, nếu không, có lẽ tôi cũng chẳng còn ngồi để viết những dòng hồi ký chiến đấu ngây thơ ngớ ngẩn này.

Gần một tuần tránh đạn đại bác nhờ cái boong-ke [8] tạo bằng các kiện vải vóc, lương khô, sữa, đường, chocolat ... mà chúng tôi mới tiếp nhận của Việt Kiều (hầu hết là lính thợ ONS về nước trên một chuyến tàu thủy), gửi tặng Vệ Quốc Đoàn. Cứ mỗi anh một bunker, chén đồ Tây đến phát... táo bón! Chẳng ai ngó đến mấy chàng lính công tử chúng tôi. Chẳng có lệnh chiến đấu hay rút lui gì...

Đến một hôm, tiếng súng bỗng im bặt khá lâu. Trời có ánh trăng lưỡi liềm chiếu sáng lạnh lẽo. Tôi liều ra khỏi boong-ke, chui qua một loạt tường nhà đã được đục thông nhau suốt đường Cát Dài, mò đến đại đội bộ Lê Khắc Tư để nghe tin tức thì... chẳng thấy chiến luỹ, chẳng thấy khẩu 12 ly 7 đặt ngạo nghễ trên những bao cát trước cửa đại đội bộ nữa! Tất cả chỉ là cảnh ngổn ngang của một vụ oanh tạc mà chúng tôi từng chứng kiến ở Chợ hàng Da Hà Nội! Họ đã...rút lui để “bảo toàn lực lượng” mà quên béng mấy anh lính quân nhu chúng tôi.

Mấy thằng lính bị bỏ quên vội vã lên đường chỉ có bộ quần áo trên người và khẩu thompson trên vai. Bỏ lại tất cả kỷ niệm vui buồn của một năm làm lính trên đất Cảng, làm lính mà chưa hề bắn một viên đạn vào bất cứ ai, bất cứ cái gì. Sau này tôi mới hay các đơn vị chính quy được lệnh rút lui ngay ngày thứ hai khi địch xơi tái các đơn vị Vệ Quốc Đoàn ngây thơ đóng quân ngay những nơi mà chỉ cần nhìn bản đồ, một tên chỉ huy pháo binh hạng bét cũng thừa sức tiêu diệt! Ở lại chiến đấu đến cùng chỉ là những đơn vị tự vệ khu 1,2,3...nổi bật có tự vệ khu 7, tự vệ An Đông. Họ tự túc từ khẩu súng đến bộ quân phục, đôi giày, cái mũ sắt hoàn toàn... America lấy từ kho quân nhu Pháp và chiến đấu như Jean Gabin của La Bandéra thời đó hoặc Tom Cruise của Le Dernier Samourai thời nay! Và họ đã ngã xuống, rất nhiều, rất nhiều... Những thanh niên hầu hết là tiểu tư sản thành thị, là bạn bè đồng học, đồng niên với tôi. Cái “số” đã bắt những Phó Bá Hùng, Nguyễn Sơn Lâm (con nhà tư sản nổi tiếng Nguyễn Sơn Hà)...phải chết sớm. Nhưng chết vì cái gì, vì quyền lợi của ai? Câu trả lời chỉ có với người còn sống sót qua các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân, cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản...mà gia đình, cha mẹ họ thành đối tượng tiêu diệt của cộng sản!

Trường đọan 3: Chọn con đường làm... tướng

Sau một đêm trắng bì bõm băng đồng, qua các con đường làng trơn trợt, thỉnh thoảng phải nằm ép xuống bùn để tránh những quả obus rực đỏ lừng lững đuổi theo, chúng tôi về tới doanh trại Bộ Tư Lệnh Chiến Khu 3 đóng tại trại Bảo An Binh, Kiến An. Các vị lãnh đạo như Hoàng Minh Thảo, Lê Quang Hòa, Vũ Hiển đều đã rút về nông thôn chuẩn bị chiến tranh nhân dân, chống Pháp trường kỳ! Còn lại một ông “to” nhất là ông chánh văn phòng có tên Quất. Ông này tuy ở quân đội, hét ra lửa, nhưng chưa bao giờ tôi thấy ông mặc quân phục. Quanh năm ông com-lê, ca-vát chỉnh tề, nước hoa thơm phức. Nghe nói ông từng làm tham tá cho Tây. Lần này cũng vậy, dù nước “sôi lửa bỏng” ông vẫn thư thái đàng hoàng, miệng phì phèo điếu Lucky, hai chân gác lên bàn, đốc thúc mọi người thu dọn hồ sơ tài liệu để về nơi đóng quân mới. Thấy ba thằng thanh niên, mặt mày ngơ ngác hỏi phải làm gì, ông gắt lớn “Muốn làm gì thì làm!” Rồi nhận ra tôi, cái thằng “thiếu úy” nói tiếng Tây từng cùng ông đi móc ngoặc bọn lính Tây ăn cắp súng, giao dịch đặt hàng nhiều đợt khá thành công ngày nào...ông đổi giọng: “Này! Hải, hoặc là về nhà tiếp tục đi học, lấy nốt cái bắc-ca-lô-rê-a (tú tài Tây) hoặc là về Khu, tớ sẽ cho đi học quân sự. Compris? (Hiểu chứ!)”...

Hai tên được đóng dấu cái cộp...về địa phương! Từ đó, tôi không gặp lại hai “lính công tử” giải ngũ khỏi Vệ Quốc Đoàn không giấy tờ quyết định gì! Còn tôi, đi theo ông Quất về An Lão vì không còn con đường nào khác khi bên tai tôi vẫn vang lên câu chửi của bố tôi bằng tiếng Pháp: “Đi theo Cộng Sản, lúc thua, đừng có vác xác về đây, tao tống cổ ra ngoài đường đấy!” Thật tình ngày ấy tôi vẫn cho là bố tôi vì đọc quá nhiều sách ba lăng nhăng – tôi đã dùng chữ “hétéroclite” [9] làm ông nổi nóng ném cả một bình trà vào mặt tôi – nên ông có định kiến với cái Đảng mà ông ghét cay ghét đắng, chứ bao lâu nay, tôi đi “lính cụ Hồ” có thấy anh cộng sản mặt mũi thế nào đâu? Cộng sản mà như ông Quất này thì... “chơi” được chứ! Và tôi tiếp tục lao theo con đường do ông Quất, chánh văn phòng Bộ Tư Lệnh vạch.

Nhưng than ôi! Chính những ngày sống ở ngay cái “đầu não của một khu” (sau trở thành Liên Khu), tôi đã thấy rõ tôi trở thành một thứ “xa xỉ phẩm” cho họ thế nào. Mọi công việc tham mưu, chính trị, quân nhu lúc ấy được chỉ thị tuyệt đối bí mật, tuyệt đối cảnh giác với Việt Gian. Tôi hết hồn khi chứng kiến các cảnh thủ tiêu (gọi là “cho đi tàu suốt”) bằng búa (để đỡ ồn ào, để tiết kiệm đạn) sau một cái lệnh ngắn gọn viết trên bao thuốc Lucky của ông Vũ Hiển, tham mưu trưởng gửi Hoàng Hữu Phấn, chánh án TAB, tòa án binh, do chính tay tôi chuyển... Tôi cũng vô tình nghe trộm được một cuộc họp chi bộ khi ngủ quên trong kho thóc nhà ông Phó Hữu và đã suýt... vãi đái vì thấy họ bàn bạc: “Quần chúng này cần “phát triển”, quần chúng kia cần theo dõi, tên này cần cho ra mặt trận đường 5, tên kia cho ra Tiên Yên, Ba Chẻ”...

May cho tôi, “đoàn thể” (lúc đó chưa dùng chữ đảng) quyết định trả về phòng Quân Nhu Tài Chính vì “cậu này” có thể bồi dưỡng làm cán bộ khung cho các đơn vị cần văn hóa!? Té ra họ vẫn có đảng cộng sản! Câu hỏi đầu tiên đặt ra với tôi là họ chỉ có một dúm người sao lại quyết định số phận, thậm chí cả tính mạng của bao con người?

Tôi càng nhìn rõ cái giá trị không... đáng tin cậy của tôi khi trở về đơn vị cũ là người ta không cần cái khả năng giao dịch với Tây của tôi, nhất là những người “Tây học” như tôi, chẳng hiểu sao, cứ dần dần, nhân lúc thời thế lộn xộn mà “biến” về mái nhà xưa hết! Cái đầu và trái tim tôi bắt đầu làm việc, không còn vô tư, thơ ngây nữa.

Tôi quyết định phải tìm cách thoát khỏi sự ràng buộc nguy hiểm này. Nhưng làm thế nào thì tôi chưa thể tính ra nên đành chấp nhận làm một công việc không tên, không dính dáng đến bí mật quân sự: Thường trực của phòng quân nhu tài chính! Công việc hàng ngày chỉ là...nằm khểnh ngay đầu xóm, nhận công văn và báo khách vào Bộ Tư Lệnh. Tối đến, tôi có nhiệm vụ trèo lên cái chòi đầu làng, dùng chiếc loa sắt cầm tay đọc tin “quân ta thắng lớn, thắng to khắp mọi nơi”, qua các bản in li-tô lèm nhèm, chẳng hiểu ở đâu cung cấp. Xen kẽ các đoạn tin, tôi cất cao giọng hát đủ thứ, từ Suối Mơ đến Bắc Sơn, từ Con Chim Lạc Đàn đến Ngựa Phi Đường Xa cho...cả làng nghe! Những lúc bí bài, nhờ năng khiếu trời cho và được học nhạc chút ít ở trường sơ, trường dòng, tôi “bịa” ra đủ thứ hành khúc, tình ca... về những mối tình câm thuở còn đi học và “bịa” ra những mối tình tôi chưa vướng bao giờ! Chẳng ai kiểm duyệt, chẳng ai xuất bản. Thế mà cũng khối bài được người này, người khác có dịp về Khu lãnh phiếu, lãnh đồ học được, mang đi xuất bản... bằng mồm và lan đi khá nhiều nơi, kể cả vào nội thành. Điển hình là ca khúc có phần hòa âm theo kiểu “cột đèn” mà tôi học thuở hát trong dàn đồng ca không nhạc đệm (a capella) của nhà thờ dưới sự dàn dựng và chỉ huy của cha Rangel.

Gần một năm được xếp làm công việc dành cho “phần tử không đáng tin cậy” này đã giúp tôi chuẩn bị rất sớm để rẽ sang con đường khác, con đường khốn nạn hơn, gian khổ hơn và dễ bị nghi ngờ, dễ bị...“tiêu” hơn: Con đường làm văn nghệ chuyên nghiệp!

Sau cuộc Đại Hội Văn Nghệ Kháng Chiến đầu tiên tôi được đi họp tại làng Khuốc, được trực tiếp thấy mấy thứ kênh kiệu của những Vũ Anh Thường, Huấn, Châu... những nét bê tha của Đinh Hùng và vài vị mà con các vị đang rất có tiếng hiện nay nên tôi không nỡ gọi đúng tên, đã làm tôi trở về nhận thức ban đầu: Không thể đứng trong hàng ngũ “xướng ca vô loài” được...

Trở về Bộ Tư Lệnh, tôi được ông Hoàng Thế Hùng, tức “Hùng hét”, trưởng ban Quản Trị Bộ Tư Lệnh lúc đó, một người rất mê tôi có lẽ cũng có “tâm sự”, không được tín nhiệm như tôi. Ông tốt nghiệp Hoàng Phố như các ông Hoàng Minh Thảo, Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm, Hoàng Điền (Ngũ Hoàng)...nhưng chẳng hiểu sao không được đi họp “tổ chức”, gọi tôi lên và cho biết: “Cậu là người tốt, tớ đã tìm cho cậu một cách để tiến thân hơn chứ không phải làm cái trò “leo thang đọc tin” nữa...Hãy chuẩn bị đi học quân chính Nguyễn Huệ để thành anh lính thực thụ. Tốt nghiệp rồi cậu sẽ được kết nạp vào “tổ chức”, được nắm quân và sẽ...“một là xanh cỏ...hai là đỏ ngực”! Nhưng phải chú ý về cái tính bất cần đời, “phớt ăng lê”, coi thường mọi người đi! Nếu không thì chỉ có...xanh cỏ mà chẳng có đỏ điếc gì đâu!” Thế là... tôi hăm hở lên đường.

Lúc này, trường từ Quảng Yên rút về một địa điểm tại Quỳnh Côi, Thái Bình. Một năm trời ở nhà dân, ăn đứng, lên lớp ngồi...bệt xuống đất, trong ngôi đình khá lớn, tôi ra sức học đủ thứ các thầy giảng và luôn là học sinh xuất sắc vì tiếp thu lý thuyết và thực hành tốt. Có gì đâu: Giáo sư vẫn là các sĩ quan của quân đội Pháp cũ giảng. Khác hơn là những ông thầy ở đây có vẻ uyên bác hơn về cái “nghề giết người mà không bị xử tội!” Nổi bật có ông “Hai Giá”. “Hai” là quan hai (lieutenant) tốt nghiệp võ bị Saint Cyr tận bên Pháp. Sau là ông Võ An Khang, cũng sĩ quan Pháp, và một loạt giáo viên tôi không nhớ tên. Tất cả đều là người được “binh vận” theo ta!

Những bài giảng về mọi mặt chiến đấu đều lấy từ tài liệu giáo khoa Pháp mà đôi khi, trước giờ lên lớp, các thầy gọi tôi và Văn Hùng lên Hiệu Bộ để hỏi xem cách dịch các khẩu lệnh tiếng Pháp thế nào cho ổn. Chỉ riêng sự nhìn nhận và đánh giá của hai ông thầy chính này với tôi cũng đủ làm “tổ chức” – tôi nhớ là không quá... 5 người, ngoài ông hiệu trưởng kiêm chính trị viên Dương Chính! – phải đặc biệt theo dõi!

Và quả là như vậy: do tình cờ, tôi nhặt được cuốn sổ tay của Vũ Đình Hải, một người “trong tổ chức”, rớt tại cầu tiêu kiêm chuồng lợn của chủ nhà. Lật ra, tôi thấy dòng chữ ghi “họp chi bộ ngày...tháng...năm 1947”... Đáng chú ý nhất là đoạn phân công phụ trách quần chúng, trong đó có tên Tô Hải bị gạch đít, hai chấm: “Chú ý quan hệ đặc biệt giữa Tô Hải với X5 và X6!” Tôi giật mình nhớ tới câu nói của tham mưu trưởng liên khu Vũ Hiển: “Thà giết oan 10 người còn hơn để lọt một tên Việt Gian” mà ớn xương sống! Vậy là muốn sống được với “tổ chức” trong cuộc “kháng chiến thần thánh” thì phải biết giữ mình, nếu không muốn bị “tiêu.” Kiếp sống Hèn của tôi bắt đầu!

Của đáng tội, tôi còn anh dũng một lần cuối khi quyết định báo cho hai ông thầy (tất nhiên bằng tiếng Pháp) biết tình hình nghiêm trọng này và từ đó đến hết khóa học, chúng tôi không bao giờ gặp nhau riêng nữa.

Tôi không còn hứng thú học tập nên trả bài qua loa, thậm chí thao tác tháo lắp khẩu 12 ly 7 tôi cũng để thừa tới hai, ba bộ phận! Cuối khóa, tôi tốt nghiệp loại trung bình, nhưng cũng được giấy chứng nhận do ông Hoàng Minh Thảo ký (tôi còn giữ đến bây giờ, 2006) và được đề nghị chức vụ (lúc ấy chưa có cấp bậc)... trung đội phó! Nghĩa là sau hơn một năm, từ phân đội trưởng, lên “trung úy”, “thiếu úy tự tạo” (để “lấy le” với quân đội Pháp) sau bao tháng trời đổ mồ hôi trên thao trường, học đủ thứ quân sự ba lăng nhăng, tôi bị... giáng cấp!

Xem ra con đường làm “tướng” không dễ như tôi tưởng! Những bạn đồng học của tôi, những Dương Tử Giang, Kỳ Vẩu, Huệ Xồm... lần lượt kẻ trước người sau bỏ mình khắp các chiến trường Khu 3. Một số, học xong... quay về vùng địch, “dinh tê” để tiếp tục đi học, sau này trở thành sĩ quan phía đối địch, thậm chí lên đến cấp tá, tướng của ông Thiệu sau này như chuẩn tướng Lương, đại tá Thọ... Tôi vô cùng kinh ngạc thấy trong bọn họ có cả Nguyễn Bá Lai, Vũ Đình Hải...những người “trong tổ chức” chuyên theo dõi chúng tôi.

Phần tôi, không phải tôi không có tư tưởng rời bỏ cái hàng ngũ mà tôi coi khinh vì dốt nát, vì nói một đằng làm một nẻo, như hô hào đoàn kết nhưng lại tổ chức thành băng đảng do thám nhau, ám hại nhau! Nói “giải tán” nhưng vẫn có các chi bộ bàn bạc, theo dõi, dò xét từng người còn hơn cả mật thám thời Tây! Nhưng, bi kịch của tôi chính do tôi gây ra: Đó là sự tự ái với những gì bố tôi đã chửi tôi. Hoá ra…quá đúng! Vậy mà mãi sau này, tôi vẫn không đủ can đảm quay về, quì trước mặt ông mà nói: “Con xin nhận là con lạc đường! Bố đã đúng!” Tôi đã hèn, hèn cả với bố tôi, hèn với chính mình. Tôi không dám làm điều mình nghĩ! Và tôi đã tự làm khổ tôi suốt cuộc đời...

Tốt nghiệp quân chính Nguyễn Huệ nhưng chưa là người “trong tổ chức” (đảng viên), tôi trở về Bộ Tư Lệnh chờ phân công tác. Đó là những ngày chờ đợi sáp nhập thành Liên Khu, những ngày lẽo đẽo theo ông “Hùng hét” “ngựa hồng côn bạt” đi kiểm tra điều lệnh nội vụ các trung đoàn, tiểu đoàn mới thành lập. Tôi còn nhớ trung đoàn 66 của ông Phùng Thế Tài (biệt danh Phùng Thế Ục vì tính hay “ục” lính), có ông Lê Quân, thư sinh trường Bưởi, ông An Giang, ông Ngô Lân, ông Mạnh Hùng, ông Đinh Thìn, ông Thiết Trụ (Vương) và ông Võ An Khang, nguyên hiệu phó trường quân chính Nguyễn Huệ của tôi còn sót lại.

Các trung đoàn trưởng (thời đó chưa có sư đoàn) [10] chẳng hiểu đánh đấm ra sao chứ một tháng ít nhất hai ba lần đều có mặt ở Bộ Tư Lệnh Liên Khu họp và họp. Có nghĩa là bàn việc quân sự thì ít mà bàn “chính trị” thì nhiều. Sở dĩ tôi biết được nhiều chuyện “thâm cung bí sử” vì cứ tối đến, trung tâm để các “anh hùng bất biết say” mượn chén trút đủ thứ bất bình kèn cựa, phê phán nhau, chính là nơi ở của ông “Hùng hét” và tôi! Khi chưa sáp nhập Liên Khu là làng Gạo huyện Phù Dực Thái Bình, sau khi sáp nhập là Thung Gio, Thung Vôi, ở bên kia Chồng Mâm, Chợ Giời, Kim Bôi, Hạ Bì... Những cái tên sở dĩ tôi còn nhớ vì chính là những nơi tôi đã để lại nhiều “mẩu trái tim” mình qua những sáng tác bắt đầu có tiếng vang trong giới “sĩ quan tiểu tư sản”!

Với các vị thường họp mặt sau hội nghị ở Bộ Tư Lệnh xung quanh ông “Hùng hét”, lúc này, tôi đã nhận ra đều là những trung đoàn trưởng đại bất mãn, hầu hết đều có học và nhận thức khá sâu sắc về sự bành trướng quyền hành của mấy ông chính trị dốt nát nhưng đại cơ hội. Sau này tôi chẳng ngạc nhiên khi thấy một loạt các vị như Trần Ích (phụ trách tình báo) Hoàng Hữu Phấn (TAB), Hoàng Thiết Trụ (tức Trụ Vương) đều lần lượt...trở cờ! Trụ Vương chạy vào Phát Diệm, trở thành cánh tay phải của giám mục Lê Hữu Từ, chống cộng khét tiếng. Một số sau này không còn bao giờ nghe thấy ai nhắc tới, kể cả trong lịch sử quân đội Nhân Dân Việt Nam.

Thế là lại thêm một năm tôi chẳng có nghề ngỗng gì ngoài việc sống dưới sự bao che của ông “Hùng hét” làm chuyên viên...chạy giặc! Gian khổ nhất là những ngày ở Kim Bôi, Hạ Bì. Cứ có máy bay bà già bay trên đầu hôm trước là hôm sau di chuyển. May mà thời ấy, phương tiện thông tin, không lực của Pháp đang kiệt quệ sau đại chiến thứ 2 nếu không thì...cái cơ quan Bộ Tư Lệnh đã đi tiêu như phòng Quân Nhu Liên Khu vì nhiều thứ cồng kềnh nên bị hai chiếc Spitffire “làm cỏ”, kể cả trưởng phòng Nguyễn Văn Sĩ, nhân vật số 3 trong Bộ Tư Lệnh!

Vì phải di chuyển liên miên, nhất là lúng túng với quân số quá đông lại hầu hết bị sốt rét ác tính có người chỉ sau một giấc ngủ là vĩnh viễn không dậy nữa, chủ trương “phân tán nhỏ gọn” được cấp tốc thi hành... Nói ngay là chúng tôi bị địch đánh cho tan tác, mạnh đơn vị nào đơn vị đó kiếm chỗ ẩn thân, nhất là sau các chiến dịch Mercure, Kangourou... Lợi dụng việc “tùy nghi di tản này”, không ít người đã...“tung cánh chim tìm về tổ ấm” dù đang ở hậu phương hay đang hoạt động trong lòng địch – dinh tê! Riêng tôi ôm cái tự ái với bố trong lòng... và không thể bỏ qua cái hạnh phúc nhỏ nhoi là được ông “Hùng hét” o bế nên vẫn cặp kè bên ông, vẫn cặp kè cái cặp lúc nào cũng đầy tiền, chẳng bao giờ thiếu ăn, thiếu mặc nên kiên trì...kháng chiến bằng...đôi chân và giọng hát trời cho!

Một ngày cuối năm 1948, ông “Hùng hét” gọi tôi lên ngôi nhà sàn mà ông thường tụ họp với mấy cha bất mãn số 1, nói nửa giễu cợt, nửa ngợi khen: “Này chú nhạc sĩ! [11] Lần này thì “trên” đã chọn cho chú đúng chỗ tha hồ mà thi thố tài năng. Chú được cử đi học Võ Bị Trần Quốc Tuấn khóa chuẩn bị Tổng Phản Công. Nghĩa là: Sẽ có nhiều thứ vũ khí mới, chiến thuật mới, cần nhiều cán bộ có tài năng, có thể lái được xe tăng (!) bắn được ca nông theo pa-ra-bôn…Nhưng quan trọng nhất là học xong cậu sẽ được đứng “trong tổ chức” vì lần này có chủ trương phát triển tổ chức đại trà đấy! Chỉ tiếc rằng...lúc ấy chẳng biết tớ đã được đứng trong “tổ chức” chưa, nếu không thì tớ đành về nhà xua gà cho vợ vậy!”

Thế là chẳng còn con đường nào khác, lại một ba lô, một cây ghi-ta mà ông Hùng sắm cho bằng tiền quĩ để làm công tác dân vận, tôi lên đường đi tìm con đường làm... tướng, làm người có “mác” – đứng trong “tổ chức”!

Chính ở trường này tôi được kết nạp vào đảng Cộng Sản Việt Nam cùng lúc với tất cả đồng khóa, không trừ một ai vì Đảng đang cần đảng viên hơn bao giờ hết. Đảng cần những người sẵn sàng “khó khăn đi trước, sung sướng hưởng sau”, “Suốt đời vì nước quên thân vì dân quên mình”! Tôi say sưa với cái tên “Võ Bị Trần Quốc Tuấn” mà 90% đều là thanh niên thành phố, trí thức, đẹp trai, đàn giỏi, hát hay. Kể từ các tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng đến anh học sinh quân lính trơn, ai cũng thông minh, hoạt bát, đối xử với nhau như những người có văn hóa. Nói tóm lại, toàn là người... tử tế và quả là tử tế với nhau cho đến hết đời thật. Những cái tên Trịnh Minh Quát, Văn Khắc Lân, Trần Đăng Vân...sau này luôn là những người thương yêu nhau, dù có anh “gặp may”, lên đến tướng, tá, dù có người không may trở thành anh thợ dập gác-đờ-bu xe đạp ở vỉa hè như Bùi Khuê, làm khán chợ Tân Định như Nguyễn Lục, hoặc... tự tử, sau hai năm sống không hộ tịch ở xóm Liễu Hà Nội như Khắc Thứ!...

Cũng không thể không nhắc đến ông thầy cực kỳ thông minh, yêu văn nghệ, người đảng viên mang “tội” to sau này vì đã kết nạp lũ chúng tôi và cho “ra lò” một lô các sĩ quan sặc mùi tiểu tư sản: đại tá Hoàng Điền! Ông luôn tin vào người có học, ông mời các vị Lộng Chương, Tống Ngọc, Nguyễn Xuân Huy, Phạm Duy...đến trường để nói chuyện về văn nghệ cho lính nghe. Hơn một lần ông nói: “Đỏ mà dốt nát thì đồng nghĩa với thất bại”. Binh nghiệp lâu dài là thế, công lao là thế, nhưng khi quân đội bắt đầu phong hàm, không thấy tên Hoàng Điền trong hàng tá mà trong hàng tướng cùng thời với ông như Trần Tử Bình, Chu Văn Tấn...cũng không nốt! Người ta đã sắp cho ông... “chỗ làm mới”: Cục Điều Tra Rừng, bộ Lâm Nghiệp. Ông sống đơn độc trong một phòng nhỏ ở phố Đỗ Hạnh, Hà Nội. Năm 2005, nghe tin ông qua đời, đến dự tang lễ ông đông nhất vẫn là những chàng trai Lục Quân Trần Quốc Tuấn năm xưa... Trên cáo phó của bộ Nông Nghiệp chỉ ghi “Hoàng Điền, nguyên cục trưởng Cục Điều Tra Rừng”. Chấm hết! Y như Lê Liêm, người chính ủy mặt trận Điện Biên khi chết chỉ có mấy chữ: Nguyên thứ trưởng bộ Giáo Dục và Trần Độ có lúc giữ chức Phó chủ tịch Quốc Hội là nguyên thứ trưởng bộ Văn Hóa, chấm hết!

Với tôi, là đảng viên sĩ quan Lục Quân Trần Quốc Tuấn, tôi cảm thấy vô cùng phấn khởi trong những năm 1949-1950 của giai đoạn chuẩn bị tổng phản công. Tôi lao vào học tập quân sự, chính trị, đồng thời sáng tác bất cứ cái gì theo đảng ủy nhà trường yêu cầu. Thôi thì đủ thứ đề tài, tử tổ tam tam đến tiểu đội, tiểu đoàn tấn công, thậm chí cả đề tài hóc búa như “tổng kết giai đoạn tân binh”, tôi cũng có ngay bài... Đã Qua Rồi Một Thời Tân Binh.

Có gì đâu, trong tôi đã có đủ thứ âm nhạc tả pí lù, chỉ cần cầm ghi-ta lên “nghêu ngao vài ba câu nhạc có lời theo yêu cầu” của các ông Sơn Hùng, Hải Hùng trưởng phòng chính trị, trưởng ban tuyên giáo, xào xáo lại một chút là thành ngay một “bài nói có giai điệu!” mới toanh!

Còn nhịp điệu, tiết tấu thì chủ yếu là... swing, rumba, blue, mà lũ chúng tôi, những Văn Phụng, Lê Điệp, Đỗ Phú, Hoàng Dũng, anh nào chẳng có sẵn “máu” do thuộc lòng từ các phim Mỹ, Pháp... Quần chúng lại chính là lũ chúng tôi, những dân gọi là có học, đã sống với những bài hát đó thuở 1940-1950. Điều này giải thích tại sao nhạc lai Tây, lai Mỹ thật sự vẫn sống, sống tốt nữa! Anh Đến Thăm Em Một Chiều Mưa, Mùa Không Biên Giới... tồn tại được đến hôm nay chính là đã “lỡ được phổ biến” vào thời “tư tưởng Mao đồ tể” chưa tràn qua biên giới, gieo rắc tai họa cho dân tộc Việt Nam nói chung và văn nghệ sĩ nói riêng. Nghĩa là...ở Việt Nam, trước 1949, chưa có đường lối văn nghệ gì của “tổ chức” vì “tổ chức... dốt đặc về văn nghệ”!

Lý do tôi được kết nạp có lẽ nhờ thành tích dùng âm nhạc phục vụ động viên lính cụ Hồ. Ngoài ra, thành tích học quân sự của tôi thua xa những bạn bè mà tôi kể ở trên. Tôi đã say sưa với thành tích, say sưa với cái tên “nhạc sĩ Tô Hải”, nhất là khi Liên Đoàn Nhạc Sĩ Liên Khu IV kết nạp và đề cao tôi trong một đêm biểu diễn của các chàng trai Lục Quân Trần Quốc Tuấn với một chương trình toàn là tác phẩm của...tôi. Cứ thế, vừa làm lính trong “tổ chức” – lúc này tôi đã biết là Đảng Cộng Sản – vừa sáng tác, vừa biểu diễn với cả tâm hồn và trái tim, rất tự nguyện, rất hiến dâng, không mảy may mặc cảm, suy tính, tôi đã sẵn sàng ra chiến trường chết như một chiến sĩ với câu hát “Đấu tranh này là trận cuối cùng... ” trên môi.

Nhưng (lại nhưng)...cuộc đời không cho phép tôi... chết sớm như các bạn Xiêm, Ích, Tước, Niệm, Hòa... mà bắt tôi phải sống, sống để trở thành một thằng hèn, hèn cho đến những ngày “vừa viết vừa run” tập hồi ký này.

Sau khi kết thúc khóa học Chuẩn Bị Tổng Phản Công thì...chẳng thấy tổng phản công đâu mà nhà trường lại chiêu sinh thêm một khoá mới, không có tên “Hậu chuẩn bị Tổng Phản Công” hay “Tổng Phản Công tập 2” gì mà là Lục Quân Trần Quốc Tuấn Khóa VI! Tôi được ông Sơn Hùng gọi lên và tuyên bố: “Đảng đã quyết định mở rộng huấn luyện, phát triển trường chúng ta thành một trường chính qui hiện đại...Công tác chính trị lúc này cực kỳ quan trọng. Toàn bộ kế hoạch tổ chức đã được Trung Ương thông qua, được các cố vấn Trung Quốc góp ý tỉ mỉ. Một đoàn văn công – lần đầu tiên tôi nghe hai từ này – bao gồm đủ ca, múa, nhạc, kịch đã được duyệt. Cậu sẽ ở lại trường, không đi đâu cả. Mặt trận văn hóa tư tưởng đang rất thiếu những đảng viên như cậu!” Thế là...từ anh lính nuôi tham vọng làm...tướng, tôi trở thành anh lãnh đạo văn nghệ cách mạng, muôn năm chỉ ở lại cấp “sĩ”, nhạc sĩ!

Đã là đảng viên thì nhiệm vụ nào Đảng giao cũng phải cố làm cho tốt như lời ông Hùng nói. Tôi lên đường đi tuyển sinh cùng rất nhiều đoàn cán bộ “khung” khác. Việc đầu tiên tôi phải làm là tới các trường trung học cấp 2, cấp 3 để kiếm “nhân tài”. Tôi lôi kéo được khá nhiều tên tuổi như Hoàng Thi Thơ, Phạm Long, Hoàng Linh, Thi Thi Tống Ngọc, nhà văn Nguyễn Xuân Huy... và một loạt nhân tài đang sống vất vưởng ở Thanh Hóa, sau khi ông tướng Nguyễn Sơn [12] về Tầu!

Trong những năm 1949-1950 ấy, chúng tôi chưa bị bất cứ áp lực nào của đường lối “văn nghệ phục vụ công nông binh”, về “đảng tính” “nhân dân tính”... trong hoạt động. Ông Lộng Chương dàn dựng vở đầu tiên là Ngưỡng Cửa của Đinh Ánh, rồi Nhật Xuất của Tào Ngu và một số trích đoạn trong Lôi Vũ vv... toàn là những vở kịch ra kịch. Còn tôi, vẫn cứ đề tài... người lính lục quân. Nào Anh Tân Binh Ơi, nào Thầy Tu Giết Giặc, nào Đen Gì Mà Đen... theo kiểu Ngọc Bích với các tiết tấu, nhịp điệu swing, rumba, blue như đã làm. Chẳng ai phê phán gì, thậm chí còn khen ngợi, vỗ tay liên hồi, kể cả khi có mặt các ông “nhớn” như Hoàng Anh, Nguyễn Chí Thanh, Đặng Thai Mai, Lê Chưởng…

Cho đến một hôm, tôi được ông Hoàng Lưu, lúc này làm chính ủy, trên cả ông Hoàng Điền, gọi lên nói như chặt sắt: “Từ nay ngừng ngay những bài hát Trường Lục Quân Đang Cần Lính Đánh Tây, Tiếng Kèn Báo Động, ngừng ngay những hoạt cảnh lắc mông ngoáy đít đi! Phân hiệu bên Côn Minh đã được lệnh dẹp bỏ rồi... Đường lối văn nghệ của giai cấp vô sản phải khác. Không thể chấp nhận nhạc Mỹ, nhạc Tây, rất có hại cho lập trường vô sản. Cậu phải thay đổi ngay kiểu sáng tác, nếu không, khi các cố vấn Trung Quốc sang, sẽ khó ăn nói với họ đấy!”

Tôi bàng hoàng vì vừa hôm qua thôi, ông còn khen chương trình biểu diễn là khá, và ông nói tiếp: “Tớ nói thật, đường lối văn nghệ cách mạng tớ cũng i-tờ thôi! Nay có đường lối của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, ta không theo không được! Thôi, cứ...cố gắng lên!”

Cố gắng? Cố gắng làm khác với lòng mình? Cố gắng làm theo ý người khác, rung cảm bằng trái tim người khác, nhất là người ngoại quốc?

Tôi trở về Đoàn, suy nghĩ mung lung về con đường trước mặt, về những khó khăn mới, những dằn vặt mới bởi cuộc phiêu lưu vào con đường “văn nghệ có lãnh đạo” này. Và tôi chọn con đường... ngừng viết!

Sự thật thì thời gian này tôi cũng đẻ ra mấy bài cho mình và cho một số bạn bè nghe như Đứt Dây Đàn, Chán Chường, Khi Mùa Xuân Đến...viết bằng trái tim thật của mình, nhưng không dám phổ biến, không dám đưa lên sân khấu mà chỉ nhai đi nhai lại những Sông Lô, Tiến về Hà Nội, Du Kích Sông Thao... Ngoài ra, tôi để kệ anh Lộng Chương dựng hàng loạt kịch cách mạng Tàu do ông Đặng Thai Mai dịch. Mọi cuộc biểu diễn có đoàn cố vấn do tướng Vu Bội Huyết đứng đầu, khi xem đều: “Hảo! Hảo! Hảo!”...Tôi thấy được cái hèn của mình nhưng bất lực vì nhiều lẽ, trong đó lẽ quan trọng nhất, quyết định nhất đến cả cuộc đời tôi sau này là tôi sớm... lập gia đình!

Số là trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn trong nước được lệnh “sáp nhập” vào phân hiệu Côn Minh mà sau này tôi mới hiểu là trường sĩ quan mà các cố vấn Tầu, sau một thời gian giúp đỡ củng cố đã nhận xét là một trường của giai cấp... tiểu tư sản, tổ chức “sai lầm cả về nội dung lẫn hình thức”! Chỉ có thể “uốn nắn” bằng cách...cho nhập luôn vào trường bên Tầu! Như thế là trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn của chúng tôi, tới khóa VI, đã bị xóa tên người anh hùng trong lịch sử Việt Nam! Đến nay người ta chỉ gọi là Trường Sĩ Quan Lục Quân 1, Lục Quân 2, mà chẳng cần giải thích gì hết! Nói trắng ra từ ngày đó, anh “lính cụ Hồ” đã trở thành “lính cụ Mao”! Từ chân đến đầu, từ khối óc đến trái tim, từ hột cơm đến miếng nước, tất cả đều nhờ Đảng Cộng Sản Trung Quốc dạy dỗ và nhân dân Trung Quốc “nhường cơm sẻ áo”!

Có thể nói chưa bao giờ trong quân đội lại có sự tan đàn xẻ nghé dữ dội như vậy. Hàng ngàn con người đi đâu, về đâu? Sang Tầu? Xuống đơn vị? Xin giải ngũ về nhà?

Rất nhiều bạn bè tôi đã “ra đi vĩnh viễn” trong giai đoạn này, không bao giờ gặp lại. Nhận được mảnh giấy “quyết định điều động” in li tô bằng bàn tay, đa số anh em từ học sinh, thanh niên ngoài quân đội được chiêu sinh vào trường đều...tự điều động về luôn...nhà mà chẳng ai hay ai biết! Hầu hết đảng viên cốt cán đều được bổ sung cho các sư đoàn mới thành lập có cố vấn Tầu sang nắm quyền chỉ huy toàn diện!

Cũng thời gian này, học sinh võ bị Trần Quốc Tuấn, nhất là những anh chưa được “tổ chức”, “dinh tê” nhiều nhất. Đặc biệt những tay có tài năng văn nghệ sau này về Sài Gòn tôi còn gặp một số là những nhà văn, nhà thơ, diễn viên, tá, tướng, có cả quận trưởng, tỉnh trưởng như Mai Thảo, Võ Hải, Hoàng Thi Thơ, đặc biệt có nhân vật Hồ Mậu Đề, một đảng viên lắm lý luận nhất [13]

Còn tôi, đảng viên cốt cán trong hàng ngũ “chiến sĩ văn nghệ” của Đảng, tôi chấp nhận sự điều động của Đảng về Bộ Tư Lệnh Địa Phương Liên Khu IV! Thi hành lệnh này có cái lợi là được...lấy vợ, được ưu tiên mang vợ đi theo, để có người mà thương yêu, mà quên nỗi nhớ nhà ray rứt giữa hoàn cảnh “thân cô thế cô”, lạc lõng giữa “sa mạc kháng chiến”, chẳng biết kéo dài đến bao giờ.

Như “cưới vợ chạy tang”, tôi vội vã làm lễ thành hôn do nhà trường tổ chức tại một sân đình làng ở Hậu Hiền, Thanh Hóa. Dưới ánh trăng, ông Sơn Hùng thay mặt đảng ủy nhà trường, trịnh trọng như một cha đạo đứng lên công nhận hai chúng tôi, Tô Hải và Hương Mai, kể từ nay... thành vợ, thành chồng! Vài lời chúc mừng, vài bài hát, kết thúc bằng một điệu nhảy tập thể theo kiểu ương ca [14] Trung Quốc và...chấm hết! Ai về nhà nấy, chuẩn bị ngày mai giải tán lên đường!

Tôi biết đang có nhiều người dứt khoát rời bỏ hàng ngũ cộng sản, lợi dụng thời cơ quân hồi vô phèng lo tính chuyện tương lai của riêng mình! Nhiều người trên đường tìm về đơn vị mới (có khi chẳng biết nơi đóng quân cụ thể ở đâu?) đã lấy lý do này để về quê lấy vợ, để trở lại mái trường xưa, để... giã từ kháng chiến vĩnh viễn!

Chấp nhận sự mai mối của Đảng, lấy vợ là một diễn viên của đoàn, với tôi lúc ấy là cứu cánh cuối cùng giúp cho tôi, nhất là cho vợ tôi, có lối “tạm thoát”. Vì, cũng như hàng chục cô gái được tuyển vào làm việc tại hiệu bộ, vợ tôi đang vô cùng hoang mang, chẳng biết đi đâu? Một số cô phải chấp nhận lấy chồng để được ở lại theo chồng. Một số có cơ sở văn hoá, gia đình vững vàng đã chọn con đường trở về tiếp tục đi học trong đó có nhiều người khá thành đạt sau này!

Riêng tôi được nhà trường ưu ái cử hẳn một đảng ủy viên, phó phòng chính trị Vũ Kỳ Lân, về tận nơi gia đình vợ tôi sơ tán ở Diễn Châu, Nghệ An làm chủ hôn một lễ cưới chính thức! Chính cái gia đình được Đảng vun vén cho tôi một cách tận tình, đến nơi đến chốn, đã giữ chân tôi mãi sau này, hết đường cựa quậy, nếu không muốn vợ con mình... ăn mày!

Tôi đã tự tạo thêm một cái gông trên cổ, một chiếc cùm dưới chân...

18.

CUỘC ĐỜI TỦI NHỤC

CỦA TÊN BỒI BÚT

Đã hèn lại hèn thêm là như vậy! Tôi trở thành một trong những tên bồi bút bất đắc dĩ đắc lực nhất!

Bi hài kịch tiếp tục kéo dài như sau:

Từ một đơn vị chính quy, tôi rơi vào môi trường không điều lệnh, không điểm danh, không kèn báo thức, báo ngủ, không đứng nghiêm chào cờ...chào! Tất cả đều giải quyết 100% du kích! Vừa họp vừa sòng sọc cái điếu cày. Sinh hoạt y như không phải quân đội! Tuy tôi rất vui được làm việc với các tên tuổi lớn như Thanh Tịnh, các diễn viên thực tài như Minh Trâm, Nguyễn Thị Tần, Vĩnh Cường, Phùng Quán, Đình Quang, Nguyễn Phiên, Xuân Bình... nhưng trong vẫn băn khoăn bứt rứt về những gì đang diễn ra tại đoàn văn công Bộ Tư Lệnh Liên Khu IV: kịch là Trúng Tủ, múa là Ương Ca, Bà Chu Cho Trứng, hát là Thắm Thiết Tình Việt-Trung-Xô...và đặc biệt bài Túng phang hồng, thài dzòang xâng [1] ca ngợi Mao Trạch Đông, hát bằng tiếng Tàu hẳn hoi! Rõ ràng cách mạng trong giai đoạn mới này không có chỗ cho thứ âm nhạc tiểu tư sản của tôi nữa.

Cuối cùng, tôi chỉ biết “Thôi thì làm gì…cũng được!”

Đơn ca, lĩnh xướng đã có Vĩnh Cường, Đình Quang, dàn nhạc đã có thầy Quảng (ông là frère [2] bỏ nhà thờ đi theo cách mạng), đoàn trưởng đã có Duy Đức, một nhân vật biết chiều trên, chiều cả dưới và cũng có đôi chút năng khiếu âm nhạc, vào Đảng trước tôi một năm nên được giữ chức đoàn trưởng phụ trách chính trị. Vợ tôi trở thành diễn viên múa, còn tôi thì lúc đóng kịch, lúc múa, lúc hát, lúc đơn ca, lúc đánh đàn, đủ trò. Biểu diễn khỏi cần sân khấu, treo hai cái đĩa đèn dầu lạc có ba bốn cái bấc lên một sợi dây thép chăng ngang hai cái cột. Thế là bắt đầu!

Tôi vừa buồn vừa ngán thứ văn nghệ lạ lùng này. Nhưng biết làm sao khi mà mỗi lần sinh hoạt chi bộ, các ông Tính, Hoạt ở phòng chính trị đều nhắc: “Phải nhớ, chúng ta là văn nghệ phục vụ nông dân mặc áo lính trong Liên Khu là chính. Chúng ta không có các đơn vị chính qui, không có các sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực mà chỉ là những đơn vị dân quân du kích và một số đại đội tập trung ở các tỉnh đội thôi! Do đó, đừng nghĩ đến cái gì “nghệ thuật nghệ thiếc” ghê gớm lắm! Dễ hiểu, dễ nghe, bè bối lủng củng, nông dân chẳng hiểu gì đâu... Chú ý: đây không phải trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn!”

Chết tôi rồi! Xin về làm lính chiến thì kể từ khi được cái chức danh “nhạc sĩ” đã chẳng còn máu “oong đơ” nữa! Làm nhạc sĩ thì ở đây người ta không “xực” được “tiếng tơ lòng” của tôi. Hơn thế, phục vụ công nông binh lại là “nông binh khu IV” thì ai cũng biết là những người nghèo nhất nước, quanh năm khoai khô, mắm nhút [3].

Dù sao nỗi buồn chán về sự nghiệp, về tương lai của tôi cũng “có chỗ mà quên”, có nơi mà chia xẻ là Hương Mai của tôi, từ nay luôn ở bên tôi như...một “cô láng giềng” vừa hiền, vừa tốt bụng. “Cô láng giềng”, bởi tuy là vợ tôi nhưng vợ chồng không được ở chung vì tập tục người dân xứ này không cho người lạ được “sinh hoạt” trong nhà họ!

Lấy cái hạnh phúc nhỏ nhoi đó làm thuốc an thần, tôi cố gắng hòa nhập với số anh chị em mà tôi thừa biết họ chỉ...tạm thời chịu cúi đầu làm quấy quá cho xong những việc trước mắt theo cấp trên yêu cầu. Còn trong cái đầu và con tim họ, trời biết họ đang tính toán gì? Thực tế đã trả lời: đa số bằng cách này, cách khác chuồn lẹ khỏi cái tổ chức đặc xệt nông dân tính này. Có người về sau trở thành giáo sư, tiến sĩ, nghệ sĩ nhân dân, ưu tú...như Thanh Tịnh, Cao Xuân Hạo, Đình Quang... Có người chẳng còn bao giờ được nhắc tới như Nguyễn Phiên, Nguyễn Đãi, Minh Trâm, Vĩnh Cường... Đặc biệt Phùng Quán trở thành “cái gai” cho Đảng đến hết cuộc đời.

Với tôi, những năm tháng ở Liên Khu IV kéo dài tới 1960 dù trải hàng vạn biến cố mà không có cách nào thoát nổi, vì cái danh “đảng viên” cứ như cái vòng kim cô xiết chặt tôi vào hết bi kịch này đến bi kịch khác...

Một ngày kia, “cuộc cách mạng long trời lở đất” có tên Cải Cách Ruộng Đất nổ ra! Nó được mang từ bên Tàu sang, nổ súng vào toàn dân Việt Nam, tạo một vết nhơ trong lịch sử dân tộc, thay đổi toàn bộ nhận thức, tình cảm của tôi về cái đảng mà tôi đã chẳng may rơi vào đó.

Chỉ một thời gian ngắn, hàng loạt cán bộ chủ chốt từ tham mưu trưởng đến tỉnh đội trưởng, thậm chí cả tư lệnh trưởng đều phải nhận “tội” trước các đoàn ủy, đội ủy cải cách ruộng đất. Hàng loạt chi bộ đảng Lao Động đều biến thành Quốc Dân Đảng (?!), thậm chí thành tổ chức phản động? Không ít người bị đánh gãy chân, què tay và vất xác trôi sông hoặc tự tử. Lý lịch được mang ra phê phán. Có người vì muốn thoát chết đành gọi bố mình là “thằng Việt gian” chỉ vì thời Tây, bố đã làm công chức cho Pháp.

Ở ngoài dân chúng thì sao? Một cảnh tượng ghê rợn bao trùm khắp làng xóm nơi chúng tôi đóng quân. Người ta bắt “kẻ thù giai cấp” – 99% là bị vu oan – quỳ cả tiếng đồng hồ, hai tay trói giật cánh khuỷu để các ông bà nông dân xỉa xói vào mặt kể tội. Điều ngược đời là ai có nhiều công nuôi cán bộ, đóng góp tiền bạc, thóc gạo cho bộ đội đều bị gán cho tội...“mua chuộc cán bộ”! Con phải đấu cha, vợ phải đấu chồng, thậm chí quan hệ riêng tư trong gia đình, vợ cả, vợ lẽ, nàng hầu, con ở, cũng thành trọng tội mà kẻ bị xử bị đem bắn ngay trong đêm...

Những gì tôi chứng kiến trong “cuộc cách mạng long trời lở đất này” có viết hàng nghìn trang cũng không thể hết. Đó là một cuộc cách mạng vô lý, vô luân, vô đạo đức, tàn bạo nhất được các đoàn chuyên gia giết người, diệt chủng Mao-ít đưa sang Việt Nam để huỷ diệt dân tộc ta. Cũng cần phải nói thêm sở dĩ những người làm văn nghệ ít bị chết – theo nghĩa đen – trong đợt cải cách ruộng đất này là nhờ hai lẽ sau:

1. Hầu hết chúng tôi đều không thuộc cơ sở nông thôn nào. Người thì sinh hoạt ở các tổ chức phi nông nghiệp, người thì ở tổ chức tuyên huấn văn hóa cấp tỉnh, cấp khu hoặc trung ương. Một số sinh hoạt không thuộc Nhà Nước thì làm nghề tự do như dạy học, dạy nhạc, thậm chí bán phở, mở cửa hàng ăn... nên có muốn “đôn” lên địa chủ cường hào, kẻ thù giai cấp cũng khó. Tuy vậy, một số do gia đình ở địa phương bị quy là địa chủ cũng bị dẫn độ về để tố khổ bố mẹ, ông bà mình. Một số kẻ “siêu hèn” đã phải kể “tội” bố mẹ để thoát chết. Vài tên sau này thành tay sai đắc lực, và với tôi, đến chết tôi không bao giờ muốn nhìn mặt. Một số, do được đánh giá là “chưa thực sự cải tạo tư tưởng” thì về đến đơn vị mất tuốt tuồn tuột từ Đảng đến chức vụ luôn. Một số khá hơn được cho xuống đơn vị làm lính cho đến khi bỏ xác nơi chiến trường.

2. Loại thứ hai, trong đó có tôi, được “trên” huy động đi tuyên truyền, cổ võ cho phong trào đấu tranh quần chúng trong Cải Cách Ruộng Đất, trở thành cán bộ của Cải Cách Ruộng Đất. Thế là...thoát! Một cuộc vận động sáng tác lớn từ trung ương tới địa phương được tổ chức, khuyến khích văn nghệ sĩ “lập công dâng đảng”. Tất cả, để tránh tai bay vạ gió, để tồn tại, gần như ai cũng cúi đầu dấn thân vào con đường hèn hạ: góp sức quảng cáo cho cuộc diệt chủng ghê gớm, bẩn thỉu nhất trong lịch sử.

Tôi rất lạ vì cho tới nay vẫn còn một số văn sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ thống kê các sáng tác trong thời kỳ diệt chủng này vào thành tựu của đời mình! Riêng tôi, kỷ niệm 70 tuổi, nhân người ta đưa tôi lên tivi, tôi đã công khai tuyên bố: “Tôi không có nhiều tác phẩm thật sự là tác phẩm! Nhiều lắm chỉ là 20 đến 25 chứ không dám 500, 1000 như các nhạc sĩ khác...” Hành động ấy còn xa mới sánh được với họa sĩ Dương Bích Liên: Sau khi tuyên bố ra đảng, ông đã đốt hết tác phẩm của minh, rồi đóng cửa... tự tử!

Trở lại với những ngày đầy máu và nước mắt của cuộc “đấu tranh long trời lở đất” những năm 1953-1954, tôi, một nhạc sĩ đảng viên, dù thấy tận mắt các tội ác gớm ghiếc mà Đảng của tôi gây ra, nhưng vì...Hèn, Quá Hèn, Sợ, Quá Sợ nên không còn đường nào khác, đành nhắn mắt lao vào cuộc tàn sát…bằng âm nhạc!

Qua hai, ba đợt đi cải cách, qua thực tế thâm nhập đời sống nông dân, tôi đã thấy rõ bộ mặt thật của cuộc cướp của giết người không gớm tay đó! Vậy mà tôi vẫn cố nặn ra nhiều bài được Đảng đánh giá là “Tốt! tốt! tốt!... ”

Có khó gì đâu, ca khúc là thứ mà ai cũng làm được nếu muốn! Nó chỉ là lời nói lồng giai điệu, tiết tấu! Cộng sản chỉ không chấp nhận...trái tim và tâm hồn rung động. Vậy thì xếp cái tâm hồn lại. “Nôm na chửi cha mách qué” là hợp với Đảng, với quần chúng nông dân! Và...có ngay! Còn hơn cả mong đợi của Đảng ở một anh “nhạc sĩ tiểu tư sản cả gia đình theo địch”, tôi vào hẳn vai kịch bằng cách tự nhận mình là nông dân trong lúc sáng tác! Nó thể hiện ở mọi “tác phẩm” tung ra thời kỳ này đều nhân xưng ở ngôi thứ nhất! Ví dụ ở bài Chúng Ta Không Muốn Đói đoạt giải nhì không có giải nhất: “Từ ngàn vạn đời xưa rồi cha ông chúng ta nghèo đói...”, hoặc “Ba chúng ta cùng rời đồng lúa xanh”...“Anh với tôi cùng khổ đau, nghèo đói”... và hàng loạt nhạc cảnh, hợp xướng “đứng hẳn về phía nông dân vạch mặt địa chủ, vạch mặt nhà thờ lừa dối giáo dân” ở Tiếng Chuông Tội Ác, Nông Dân Biết Ơn Bác...Cứ thế, qua mấy đợt cải cách, hàng loạt tác phẩm của tôi và các văn nghệ sĩ đại hèn” được tung ra! Đủ kiểu nói dối, đủ kiểu đề cao giai cấp nông dân, đủ kiểu vạch “tội ác kẻ thù giai cấp”. May mắn hơn các ngành văn học nghệ thuật khác, cánh làm nhạc chúng tôi đều hiểu “Lời hát gió bay” nên cứ hét lên những điệu Hò Dân Cày” (Văn Chung) mà chẳng lo gì vì thời ấy chưa có ghi âm, ghi hình, chưa có phương tiện truyền thông hiện đại như ngày nay, ngoài mấy bản in li-tô trên giấy bản mỏng tanh mà in xong thì làm giấy vệ sinh cũng không... đắt!

Chỉ khổ mấy bác nhà văn, sách in ra cả đống để ca ngợi công lao Đảng, Bác, ca ngợi giai cấp nông dân vạch tội tưởng tượng cha chú mình, ngày nay đã nằm trong thư viện cả bên Mỹ lẫn Việt Nam, các bác làm thế nào để hủy chúng bây giờ? Các bác nghĩ gì khi tới những năm đầu thế kỷ 21 này, người ta vẫn trích các “tác phẩm tội ác” đó vào chương trình giảng dạy con em các bác?

Giới nhạc sĩ đảng viên chúng tôi biết rằng chỉ làm cái “loa tuyên truyền” nhất thời cho Đảng, ồn ào và kịp thời nhất. Sau đó, tất cả đều rơi tõm vào không trung, “khẩu thiệt vô bằng” nên tha hồ... nói láo! Chính tôi đã là một cái loa khá đắc lực, một cái loa không biết ngượng, nhưng may thay, thứ gọi là “tác phẩm” của tôi được đề cao, được tặng giải thưởng, huân, huy chương, tôi đã biết thân, biết phận tự xóa bỏ đi, không để lại dấu vết gì. Vả lại, chính các cơ quan quyền lực cao nhất về văn hóa tư tưởng của Đảng sau này cũng chẳng hãnh diện gì khi nghe những lời ngợi ca các tội ác diệt chủng của các bậc tiền bối của họ!

Tiếc thay và cũng đáng khinh thay, mấy tên “nhạc sĩ” nô bộc suốt đời cho Đảng, tới nay, nhờ nắm được các “đầu ra” của âm nhạc như phát thanh, tivi vẫn không ngừng cho phát ra...không khí những “Đảng đã cho tôi sáng mắt, sáng lòng”, những “Đảng đã cho tôi mùa xuân”, “Đảng là lẽ sống của tôi”... thậm chí đến năm 2006 này, họ vẫn tiếp tục kiếm chác bằng những cuộc vận động sáng tác ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ!

Bọn chó chết này, tôi mong các thế hệ mai sau gạt bỏ chúng khỏi lịch sử văn học nghệ thuật nước nhà. Chúng là ai? Giấy trắng mực đen, băng đĩa, băng hình đang còn đó. Không “lời hát gió bay” được nữa! Làm thân bồi bút đến tận đầu thế kỷ 21, khi cả thế giới cộng sản đã sụp đổ, khi những cái tên Mác, Lê đã bị đập nát từ lý luận đến tượng đài từ gần 20 năm qua, bọn chúng đâu còn có đầu óc, có trái tim?

Không ít người trong các giới văn, thơ, họa, trong đó có tôi, đã tìm đến sự im lặng, chịu khổ, chịu đói để được viết những gì mình cảm, mình nghĩ. Đặc biệt giới nhạc chuyên nghiệp (không kể bọn “thợ lời có âm thanh”) đều cố viết những gì là âm nhạc đích thực để thỏa mãn chính bản thân mình mà chẳng lo ai bắt bỏ tù cả.

Chỉ thương cho lũ con cháu đang bị đầu độc bởi mấy thằng cha “bồi bút thời kỳ đồ đểu” (thơ Lê Phú Khải). Nhưng biết làm sao đây khi đất nước chưa có một cuộc cách mạng thật sự để đập nát cái hệ thống cai trị độc đảng, độc tài, phản nước, hại dân của cái Đảng nhiều tội ác nhất trong mọi thời đại lịch sử. Tôi cũng may mắn khi về cuối đời, không phải đứng vào hàng ngũ tôi tớ đắc lực cho cái tập đoàn lưu manh cộng sản “Mười – Anh – Mạnh”.

Sự thật thì việc “đào thoát” khỏi Đảng Cộng Sản của tôi không đơn giản chút nào. Không để họ khai trừ, không nộp đơn xin ra Đảng, không tuyên bố ly khai – hành động chỉ có từ những năm đầu thế kỷ 21 – nhưng tôi vẫn chuồn được khỏi cái tổ chức mà tôi khinh bỉ, ghê tởm... một cách êm nhẹ mà không bị theo dõi, trả thù, thậm chí bị thủ tiêu là cả một quá trình gian nan, vất vả, nguy hiểm. Tôi sẽ “xưng tội” với vợ con, bạn bè, người thân trong chương cuối của cuốn hồi ký này.

19.

BI HÀI KỊCH VÀO ĐẢNG, RA ĐẢNG:

5 NĂM ĐÓNG KỊCH VÀ DỐI TRÁ

Quá trình bỏ trốn, hay vượt ngục, của tôi khỏi cái tổ chức Đảng là vở kịch bi hài kéo dài nhiều năm có thể tóm tắt những trường đoạn kịch bản như sau:

Năm 1953-1954, sau những cái tát tỉnh người, tôi đã có tư tưởng phải bỏ ngay hàng ngũ những kẻ đầy nợ máu với nhân dân, những kẻ đã làm hỏng cuộc đời tôi, biến tôi thành tên đầy tớ hèn nhát, chuyên ngợi ca hành động phản nước, hại dân của chúng. Nhưng chuồn khỏi hàng ngũ chúng bằng cách nào?

Thật nát óc!

Bố mẹ vợ tôi lúc ấy đang bị đấu tố trong cải cách ruộng đất đợt 2 vì tuy không có ruộng đất nhưng “có vẻ giàu” nhất làng nơi tản cư nên bị “đôn” lên thành địa chủ. Tôi đang lo cho số phận vợ chồng tôi liệu có bị triệu về địa phương để bị đấu tố hay đấu tố cha mẹ hay không thì... đoàn văn công của tôi được Tổng Cục Chính Trị điều đi phục vụ chiến dịch Điện Biên.

Thế là tôi thoát khỏi cái địa ngục Liên Khu IV.

Dọc đường đi bộ hàng tháng trời lên Việt Bắc, tôi gặp hàng đoàn dân công, xe thồ, vừa đi vừa hát hò, hồ hởi phấn khởi vì “quê nhà đã hoàn thành cải cách”, đánh đổ địa chủ cường hào, ác bá. Tôi được xem cả những cuốn phim đen trắng, những bức ảnh trong đó các ông già, bà mẹ răng đen miệng cười tươi rói đang đi đóng cọc, cắm biển chia ruộng có ghi tên Nguyễn Thị Mít, Trần Thị Tèo... hẳn hoi. Khí thế rần rần ra mặt trận. Hậu phương tiền tuyến đều nô nức theo các đoàn xe Tàu, pháo Mỹ do Nga mở kho từ thời kỳ chiến thắng phát xít Đức để lại. Thế là trong tôi, cái máu “nhạc sĩ đảng viên” lại nổi lên. Ừ, có lẽ đây chỉ là cái sai lầm của một địa phương thôi, chứ quê hương miền Bắc rõ ràng là cải cách đã đổi đời tất cả. Khí thế này tôi chưa từng thấy bao giờ. Nó làm tôi như “củng cố lại lập trường”! Tôi lại lao vào viết. Đủ thứ khẩu hiệu, đường lối của Đảng lại được “âm nhạc hóa”.

Kết quả: Tôi được tín nhiệm thêm và được bầu vào... cấp ủy một lần nữa! Sau gần một năm trời được về tập trung cùng 24 đoàn văn công quân đội, được phân công đi chiến dịch Điện Biên thắng lợi, chúng tôi được giao nhiệm vụ rất sớm: Chuẩn bị tiếp quản Hà Nội.

Tôi dần dần trở lại thành một nhân vật tên tuổi, được tặng hết huân chương này đến huân chương khác, lại thành thằng Tô Hải “tuần chay nào cũng có nước mắt” như ngày nào. Cái miếng đỉnh chung thời ấy chỉ là đỉnh chung “hão” mà còn có tác dụng thế huống hồ mấy ông ăn phải bả đỉnh chung... “tiền” như hôm nay! Họ còn nói gì được ngoài câu “biết công ơn Đảng muôn đời” thể hiện trong những bài Ca ngợi Tổ Quốc.

Hết chiến dịch Điện Biên, nhận bộ quân phục “của bác Mao tặng”, một chiếc mũ vải có vành, một đôi giày Tàu, một cái ca sắt tráng men, cũng “của bác Mao tặng” in hình cờ hai nước “anh em” đỏ loét, tất cả diễn viên văn công quân đội đều được trang bị tươm tất để thành ba mũi vào tiếp quản thủ đô, nơi đó, không ít người chúng tôi đang có gia đình cha mẹ, anh em kẹt lại hoặc...“dinh-tê”.

Đùng một cái, quân lệnh: “Tô Hải trở lại khu IV xây dựng một đoàn văn công mạnh, phụ trách đầu cầu giới tuyến”. Tôi lại rơi trở lại mảnh đất hãi hùng mà những cái tát nổ đom đóm mắt của cải cách ruộng đất đã làm tôi tỉnh người. Nhưng trong cái rủi cũng có cái may. Tôi không được Trở Lại Đô Thành như bài hát tôi viết năm 1947 sau bị “dẹp” vì những câu “trong toán quân về đếm thiếu những ai?”, hoặc “bao mái tóc xanh quấn vành khăn trắng”... thật ra, may nhiều hơn rủi, vì:

a. Gia đình tôi không còn ai ở lại Hà Nội để chung sống với Cộng Sản cả. Một lần nữa, bố tôi lại chọn đúng con đường của mình, theo cơ quan “địch” vào Sài Gòn!

b. Giả sử tôi được về Hà Nội, con đường “tiêu ma” của tôi sẽ nhanh chóng là cái chắc! Lý do: Tôi sẽ không do dự chọn con đường của các đảng viên Tử Phác, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, của “quần chúng” Hoàng Cầm, Phùng Quán... nghĩa là tôi sẽ đứng trong hàng ngũ Nhân Văn Giai Phẩm xuất phát từ văn nghệ quân đội.

Sự may mắn đã tránh cho tôi phải nhận cái số phận ấy để mở đầu cho một cuộc sống đầy mưu mẹo trong đó tôi phải đóng vai trò “đảng viên tiên phong văn nghệ sĩ” duy nhất còn lại ở đất khu IV lúc nào cũng hừng hực lửa căm thù đối với những người có học.

Lúc này Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn Tý, Văn Ký, Lê Yên... đều đã về Hà Nội nên chỉ còn lại một nhạc sĩ là tôi. Dù ở trong quân đội, tôi cũng được “cơ cấu” vào thường vụ chi hội văn nghệ khu IV cùng với Xuân Hoàng, Minh Huệ... Vậy là, Đảng đã nuôi cái Hèn cố hữu của tôi bằng cách trao thêm nhiệm vụ mới, nghe có vẻ quan trọng nhưng sự thật chỉ là chấp hành nghiêm chỉnh những gì Tuyên Huấn Liên Khu chỉ thị hàng tháng phải làm.

Để tồn tại ở cái đất dữ này, tôi đã sắm vai hèn sĩ suốt 5 năm! Tôi lấy lý do cần tập trung vào sáng tác, không nhận bất cứ chức vụ phụ trách nào trong “đoàn văn công mạnh đầu cầu giới tuyến”! Mục đích của tôi là tránh mọi trường hợp đối đầu về quan điểm nghệ thuật với hệ thống chính trị đang thống soái, đang “lãnh đạo toàn diện”, thậm chí lãnh đạo kiểu mật thám Tây thời xưa đối với tác phẩm văn nghệ, với văn nghệ sĩ một cách thô bạo.

Có những chuyện không thể tin nổi như chuyện chi bộ đoàn ra nghị quyết về...bỏ hát bè vì...nghe như...cái chợ, nghị quyết về phông màn, về...mặc váy hay mặc quần cho nữ, thậm chí chi ủy đoàn văn công còn ra cả nghị quyết không được đánh các bản nhạc Tây, không được tập kỹ thuật Tây, bỏ hẳn luyện tập cơ bản ba lê...

Đó là những năm 1955-1956, đoàn văn công quân khu IV sáp nhập với một loạt đoàn văn công các sư đoàn 304, 308, 371 để trở thành một đoàn “mạnh”. Trên thực tế đó là sự tập hợp cả trăm diễn viên...không nghề, hoặc có nghề nhưng “nửa dơi nửa chuột”, tập trung về khu IV để tăng cường cho phong trào “văn nghệ công nông” ở đầu cầu giới tuyến. Đứng đầu đoàn văn công này là một bí thư kiêm đoàn trưởng cực kỳ lưu manh và dốt nát, có tiểu sử là “gác-đờ-co” cho một đoàn cải lương thời Pháp thuộc nhưng được tên tướng giết văn nghệ nổi tiếng có tên Hoàng Minh Thi cử về để chỉ đạo văn nghệ.

Giữa không khí luôn luôn nghi ngờ đó, tôi thu mình lại, cố nén mọi uất ức trước các nghị quyết thậm ngu chí ngu của cái chi ủy – lúc này không có tôi dù tôi được 99% phiếu bầu nhưng...liên chi không duyệt – gồm chính trị viên Đồng Ngọc Vân, y tá Nguyễn Đức Chiểu, quản lý kiêm giữ kho Vũ Văn Phúc, anh nuôi Đinh Văn Mẫn... Cái “đầu não trí tuệ” này như là được đào tạo ở Bắc Kinh trở về, nắm trong tay số phận tương lai nghề nghiệp của hàng trăm nghệ sĩ diễn viên. Bảo đi là đi, bảo diễn là diễn, bảo không dựng cái này, bỏ bài hát kia là chỉ có chấp hành. Thỉnh thoảng lại có các phái đoàn tổng cục xuống duyệt chương trình gồm các vị lãnh đạo văn nghệ cấp trên, những Nguyễn Văn Bàn, Trần Văn Ghế nào đó. Đôi khi họ cũng đưa vài văn nghệ sĩ có tên tuổi đi cùng nhưng người quyết định mọi chuyện vẫn là họ. Hầu hết những gì tôi viết đều được thông qua ngay lập tức vì tôi có viết bằng cái đầu và trái tim của tôi đâu. Toàn là thứ “nói hộ” Đảng, nói hộ tuyên huấn quân đội mà tôi bịa ra hàng đống từ ca khúc, nhạc múa, đến nhạc đệm cho kịch. Tất cả đều đánh một bè. Chẳng còn chỗ nào thấy là tôi “kỹ thuật thuần túy”, “tư tưởng tư sản” nữa! Lúc này ở ngoài quân đội đang đi vào Cải Cách Ruộng Đất đợt 3 mà khu IV lại được Trung Ương, cử về những đoàn ủy, đội ủy ác ôn nhất. Sơ hở là...mất mạng như không!

Suốt thời gian ở miền đất dữ Khu IV, không lúc nào tôi không nuôi ý đồ “vượt ngục”. Bất cứ dịp nào chuồn được ra Hà Nội để gặp những người có thể “giải phóng” cho tôi, tôi đều tranh thủ lên đường. Tôi đã dùng “khổ nhục kế” bằng cách xin cấp ủy cho đi học... đàn accordéon 3 tháng! Tất cả thời gian “đi học” này, tôi dùng vào việc vận động hành lang “giải phóng” cho vợ tôi trước. Nhờ quan hệ cả ngoài nhân dân lẫn trong quân đội khá rộng, tôi lợi dụng chủ trương “tiến dần lên chính quy và hiện đại” tìm cách đưa vợ tôi đi học lớp kịch nói của đạo diễn Liên Xô Vassiliev ở Nhà Hát Kịch Nói Trung Ương. Sau đó tôi xin đi học lớp sáng tác chính quy 18 tháng cho các nhạc sĩ do chuyên gia Triều Tiên hướng dẫn.

Chỉ tiếc vợ tôi thì thoát, tôi thì chưa.

Kết thúc lớp học của Vassiliev, Đoàn Kịch Nói Trung Ương đề nghị “xin” vợ tôi về để phát triển thành Nhà Hát Kịch Nói Trung Ương. Lúc ấy, bên Quân Đội đang học tập đường lối của “Bác Mao” chủ trương các đoàn văn công phải “lấy ca múa làm chính, lấy đại đội làm nhà”, họ sẵn sàng cho vợ tôi đi. Thế là thoát được một “cái còng tự tạo” là bà vợ khốn khổ của tôi, suốt mười năm múa hát thì dở ẹc mà kịch cỡm cũng không có nghề!

Phần tôi, sự học thành công quá mức mong đợi lại đưa tôi tới con đường suýt chết lần nữa. Lớp học của chúng tôi được mở giữa năm 1957 và kết thúc cuối năm 1958, trùng vào thời kỳ đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm. Chúng tôi đang học rất căng thì được lệnh tập trung tại lăng Hoàng Cao Khải. Cuộc họp tập trung nhiều người này, nếu có thể gọi nó là một cuộc họp, có quy tắc “nội bất xuất ngoại bất nhập”, đã được gọi đi họp là không thể ra ngoài, nhằm đấu tố anh em Nhân Văn và...đấu tố nhau!

Chỉ đạo trực tiếp cuộc đấu tố này là anh hoạn lợn Đỗ Mười! Đây là cuộc “đấu tranh tư tưởng” dài ngày nhất, tập trung đông đủ văn nghệ sĩ nhất. Người trong từng giới đấu nhau, nhạc đấu nhạc, họa đấu họa, văn đấu văn... theo tổ.

Đưa ra đấu điển hình tại hội trường là mấy tên “phản bội” đã được chọn trước, với lời dặn từ “trên” là “không khoan nhượng.” Đó là Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán...

Tôi chỉ xin nhắc sơ một số nét nổi bật trong vụ đấu tố lớn nhất này mà tới tận bây giờ chưa thấy có người nào tả lại. Đó là:

1. Thái độ cực kỳ đểu giả, cơ hội của những nịnh thần cố biểu lộ bằng mọi cách “lòng trung thành vô hạn với Đảng”. Chính những tên nịnh thần này sau khi cuộc học tập kết thúc đã ra mặt trực tiếp thi hành “án lệnh” của Đảng đầy đoạ một số văn nghệ sĩ đến “tuyệt nọc sáng tác” tận cuối cuộc đời. Chúng dùng mọi hình thức trấn áp, trong đó độc ác nhất là chính sách “tước nồi cơm” để diệt luôn cả con cháu những người bị Đảng muốn trừng trị. Thử hỏi nếu những Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Tử Phác, Đặng Đình Hưng... và nhiều nhiều người nữa không bị cái thủ đoạn “giết người không dao” này hành hạ, làm cho sống dở chết dở, thì sẽ có bao nhiêu tác phẩm xứng đáng để lại cho đời?

Bọn lưu manh văn nghệ đã triệt để lợi dụng cuộc đấu tố ở lăng Hoàng Cao Khải để kiếm chác trên xác đồng đội. Để tỏ ra sẵn sàng “lập công dâng Đảng” bằng mọi cách, ngoài những “tội” thuộc lĩnh vực chính trị, văn phong, bút pháp, chúng dựng đứng những chuyện thuộc đời tư, mà là những bịa đặt đểu giả không thể tưởng tượng nổi. Càng không thể tưởng tượng nổi khi người đứng lên tố lại là những gương mặt “đáng kính” ở ngoài đời. Ví dụ: một nhà văn nổi tiếng về một cuốn truyện dành cho thiếu nhi, đã đứng tuổi, tố Trần Dần có tư tưởng dâm ô đồi truỵ, bằng chứng là ông ta biết và thấy tận mắt ông bạn hay… “thủ dâm” (kèm theo minh hoạ bằng…tay cách ông bạn làm thế nào). Hoặc một nhà văn không phải chỉ có tài trong lĩnh vực văn chương, mà đa tài trong cả lĩnh vực thơ, nhạc, xưng xưng tố Nguyễn Hữu Đang có tật thích chơi gái, mà đã chơi thì chơi “hai con cùng một lúc”. Tôi xấu hổ khi viết ra những chuyện này, nhưng chúng có thật, là cái mọi người nên biết để thấy hết bộ mặt khả ố của một bầy nô lệ đã mất hết mọi khái niệm đạo lý. Tôi có thể viết thẳng tên những người bị trấn áp, nhưng tránh viết thẳng tên những kẻ tố cáo họ những “tội” bẩn thỉu ấy vì một lẽ đơn giản là không muốn con cháu những tên lưu manh nọ phải đỏ mặt, phải đau khổ vì đã có người cha, người ông khốn nạn đến thế. Tôi tiếc mình không đủ tài, và cũng không còn đủ sức nữa, để viết ít nhất một chương riêng về cái trại tập trung Hoàng Cao Khải này.

Mong rằng sau này, các nhà văn có mặt trong những ngày ấy, nếu còn sống, sẽ viết lên đầy đủ hơn những câu chuyện thật đã diễn ra. Chỉ cần viết đúng sự thật thôi cũng đủ làm nên một thiên tiểu thuyết rùng rợn, ly kỳ không thua Một Ngày Của Ivan Dennissovich hay Quần Đảo Ngục Tù của Solzhenitsyn.

2. Thái độ quá run sợ trước bạo quyền của một số bị đưa ra đấu tố cũng rõ rệt. Những người đó, nay người đã qua đời, người đã được lẳng lặng “phục hồi” không một giấy tờ chính thức, nhưng với tôi, người chứng kiến cuộc đấu tố kinh tởm đó, tôi thấy họ quá hèn! Không một người nào dám công khai lên tiếng bảo vệ cái chân lý quá đúng của mình. Không một ai, cho đến hôm nay, dám cãi lý với bọn cầm quyền bất lương, dám hô to “Đả đảo!” hoặc “Tự do sáng tác hay là chết”, dù biết rằng cái chết của mình đã được cái Đảng táng tận lương tâm ấy định đoạt! Hầu hết đều chọn thái độ chịu đựng đến ngạc nhiên, thậm chí, cúi đầu nhận “tội” một cách quá dễ dàng?

Đó là chưa kể một số, do quá sợ hãi, đã trở mặt “phản thùng” anh em, kể ra những chuyện “nghe nói thế này thế nọ”, làm hại nhau một cách cố ý để “lấy điểm”. Thậm chí, có người như đạo diễn Phan Vũ còn “thành khẩn” đến mức run rẩy khai: “Tôi bị chúng nó dí điện (ý nói kích động) tới mức nếu có biểu tình, tôi sẽ là người cầm cờ đi đầu!?” Thì ra cái hèn nó đã làm giới văn nghệ Việt Nam, bị coi như con giun, cái kiến mà chẳng mấy ai “biết quằn”, nói theo cách Trần Mạnh Hảo.

Tôi không tin cái Hèn còn lẵng nhẵng đeo đuổi các anh ấy đến tận hôm nay để hy vọng có thể các anh cũng vẫn có “một cái gì đấy” đã viết hoặc đang viết mà chưa có điều kiện và có “gan”công bố. Được như thế thôi cũng đủ cho con cháu chúng ta tha bớt cho cái tội cộng tác với lũ giết người ít nhiều rồi! Bằng không, muôn đời sau, hậu thế sẽ xếp chúng ta vào “tư liệu về bọn văn... nô” dưới cái thời đen tối cộng sản!

3. Những người có thái độ chấp nhận bị xếp vào loại “lừng chừng”, “không dứt khoát” của “đa số im lặng”, thái độ mà chính tôi cũng lựa chọn, vì thế sau này đều bị Đảng xếp vào loại đảng viên “không có tinh thần bảo vệ Đảng”. Câu này được ghi vào “lý lịch đảng viên” của tôi chỉ vì tôi nhất định không phát biểu một lời nào trong những cuộc đấu tố! Chỉ một lần tôi lớn tiếng thốt ra: “Lâche!” [1] trong giờ giải lao ngoài hội trường, khi Thịnh Cóc, trưởng đoàn văn công quân khu III, hỏi tôi nghĩ gì về thái độ ghê tởm “tự tố” thêm cho mình để ra cái điều thành khẩn của đạo diễn Phan Vũ. Chẳng hiểu do Thịnh Cóc kể lại, hay có kẻ nghe lỏm được rồi “tâu” lên “trên”, nhưng thế là ngay hôm đó trong tổ học tập – ngày nay có lẽ chỉ Tô Vũ còn sống – tôi bị những tên cơ hội nhao nhao ép phải khai ra: “Đồng chí chửi ai hèn?” Tôi cãi là tôi “chửi bọn chơi gái, bọn hút thuốc phiện, bọn... thủ dâm bị tố ở hội trường chứ ai nữa!” Chả là ở hội trường có hai nhà văn lớn, thuộc loại cây đa cây đề, đã xưng xưng tố Trần Dần là “vua thủ dâm”, tố Nguyễn Hữu Đang là “chơi gái thì chơi hai con cùng một lúc”. Thật điếm nhục! Một lần nữa tôi phải xin lỗi bạn đọc không nêu đích danh hai tên “lãnh đạo” bỉ ổi ấy, vì không muốn con cháu chúng phải cúi mặt trước bạn bè vì có cha ông đốn mạt đến thế.

Trong buổi họp tổ ấy, câu trả lời của tôi không làm bọn cơ hội hài long, chúng tiếp tục dồn tôi vào chỗ phải “thành khẩn” nói cho rõ bằng đủ cách. Thậm chí có tên còn trắng trợn tra hỏi tôi: “Có ý định theo gia đình vào Nam không?”, “Có tham gia Nhân Văn không, nếu ở Hà Nội?” Tôi bác bỏ một cách giận dữ chưa từng thấy, mặc dầu chúng đã nói...đúng tim đen của tôi đến 90% chứ không phải ít! Tiếc cho chúng, và cũng may cho tôi, là lúc ấy không ít người có thái độ “không bảo vệ đảng” (im lặng) như tôi nên chúng chẳng thể nào kết tội tôi chỉ bằng vào một tiếng “Lâche” vu vơ (chẳng có số ít hay số nhiều).

Thế là tôi lại thoát!

Chính từ cái lớp đấu tố văn nghệ sĩ này mà tôi càng nhìn rõ bộ mặt thật đểu cáng, nham hiểm của bọn lãnh tụ cái Đảng mà không may tôi đã là đảng viên.

Sau những chủ trương công khai giết người, công khai cướp của trong cải cách ruộng đất, đến cuộc đàn áp trí thức lần này, chưa bao giờ trong tôi nung nấu đến thế tư tưởng rời bỏ cái tổ chức khốn nạn này bằng mọi cách, nếu không muốn có lúc chính tôi sẽ bị chúng “làm thịt”.

Cũng chính trong cuộc đấu tố “cải cách ruộng đất trong văn nghệ” nói trên mà tôi có dịp nhận diện những tên khốn nạn nhất, lưu manh nhất mang danh văn nghệ sĩ, thấy rõ bộ mặt thật của những kẻ cơ hội đủ mọi màu sắc, điểm mặt được từng đứa đang lãnh nhiệm vụ diệt tận gốc nền văn nghệ đích thực, thiết lập cái “văn nghệ chuyên chính vô sản” ngu độn.

Càng tởm lợm, tôi càng quyết tâm rời xa hàng ngũ chúng. Muốn thế trước mắt phải ra khỏi quân đội, nhưng phải ra khỏi một cách lành lặn. Không bị đẩy xuống đơn vị, không bị khai trừ đảng...Tôi nghĩ khi đã “ra ngoài nhân dân” rồi, tôi sẽ tìm cách “tự giải phóng mình” khỏi mọi ràng buộc về “biên chế tổ chức” ăn lương của Đảng. Từ đấy, tôi sẽ dựng lại cuộc đời cho tôi, cho gia đình bằng chính cái đầu và bàn tay của mình, chẳng chịu sự lãnh đạo của bất cứ thằng nào, con nào. Tôi sẽ cố gắng trang bị cho mình thật nhiều vốn liếng về âm nhạc qua lớp sáng tác của các chuyên gia (đang phải tạm ngưng vì cuộc đấu tranh này) để khẳng định chức danh “nhạc sĩ” trong xã hội bằng “một cái gì đó” thật là... âm nhạc để tên tuổi tôi được nhân dân cả nước, thậm chí cả nước ngoài biết đến [2].

Tôi phải vượt lên trong lãnh vực chuyên môn để có thể đứng vững, có thể kiếm sống bằng chính tài năng của mình. Ước mơ trở thành một composer đích thực, viết hết sonate số 1 đến số 2, số 3... symphonie số I, số 2, số 3... đã động viên tôi nhịn nhục trở lại ngôi nhà 13 Lý Nam Đế, tiếp tục kiếm cách thoát khỏi muôn ngàn cái bẫy chết người mà bọn “đồ tể văn nghệ”, thay mặt Đảng đang giăng sẵn để triệt hạ những kẻ “không tin được” như tôi.

Nhưng, tôi lại thất bại, thất bại đắng cay một lần nữa, vì mọi mưu toan của tôi không thể vượt qua những cú đánh hiểm độc của bọn xen đầm văn nghệ.

Sau lớp học đấu tố, chúng tôi quay về ngôi nhà 13 Lý Nam Đế “dùi mài kinh sử” hòa thanh, phối khí, sáng tác, luyện ngón piano cho hết chương trình “đại học của đại học”. Tôi vùi đầu, ôm bụng loét dạ dày, ngày đêm viết và viết...Chi bộ, lúc này do Vũ Trọng Hối làm bí thư, đã nhiều lần góp ý nên tập trung vào những gì có lợi cho trước mắt hơn là thức cả đêm làm chuyện vô bổ! Tuy nhiên tôi vẫn “liều mạng” làm một cái gì đó “có vẻ âm nhạc một chút”. Tôi “bắt” giáo sư chấm cả những khúc piano, violon... và hơn thế, tôi dán các tờ giấy kẻ nhạc viết ca khúc lại với nhau thành những tờ tổng phổ 18, 24 dòng rồi bắt đầu viết giao hưởng – hợp xướng (cantate) 4 chương Tiếng Hát Biên Thùy đưa cho thầy chấm. Ôi! Thầy Mao Vĩnh Nhất, ông thầy đưa tôi vào con đường nhạc sĩ chuyên nghiệp đích thực, sau này về nước đã bị đấu tố vì “tội” mở đường cho đường lối “văn nghệ tư sản” xâm nhập nước bạn Việt Nam. Ông đã bị tước hết học vị, đưa đi cải tạo và... “biến mất” đến nỗi có ai ở bên nước “Kim Tướng Quân” sang, kể cả vợ ông, một ca sĩ nổi tiếng, khi tôi tìm đến hỏi thăm, đều trả lời: “Chết rồi!” Đó là thời gian mà bên nước ông, người ta bắt đầu nổ súng vào những nhân vật bất đồng chính kiến từ ông Nam Nhật, bộ trưởng bộ Quốc Phòng, đến nhà vũ đạo nổi tiếng thế giới Thôi Thừa Hỷ!

Việt Nam, cũng manh nha hình thành cái xu hướng chết người đó! Tại ngôi nhà số 11 Lý Nam Đế của ông Lê Chưởng, sát nách ngôi nhà 13 của chúng tôi, các ông Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh ... thường gặp nhau để bàn về việc “lãnh đạo tư tưởng” trong Đảng, đôi khi khá hùng hồn, to tiếng nên đã lọt vào tai bọn tôi, chỉ sống cách các ông không đầy 10 mét! Thật là cơ may cho chúng tôi để thấy được những cái “đầu lớn” nhất nước lại chứa đựng những bộ óc đầy...bã đậu đến thảm hại, đến...nực cười!

Tuy nhiên, cũng có mấy “ông to” do có nhận thức không giống họ thì không ngớt bị họ lên án, bị cười khẩy sau lưng. Tướng Võ Nguyên Giáp, tướng Lê Liêm do học piano cũng bị dèm pha từ đây. Nghĩa là đã manh nha một sự “chống ngu”, kháng cự bọn “ngu lâu”, tuy còn yếu ớt. Việc có nên tập trung 3, 4 đoàn văn công, 7, 8 dàn nhạc để lần đầu tiên cho ra mắt một tác phẩm của bản thân tôi, dù tôi không hề có ý định dàn dựng, phải thảo luận lên xuống cả tháng trời! Cuối cùng, phe “tiến bộ” đã thắng! 80 diễn viên hát, 60 nhạc công của cả quân đội lẫn nhân dân được tập trung về Hà Nội để làm một việc chưa từng có trong lịch sử âm nhạc Việt Nam thời ấy: dàn dựng bằng được cantate Chiến Sĩ Biên Thùy của Tô Hải!

Tôi đã viết hợp xướng 4, 6 bè cùng với giao hưởng hai quản ngay từ khi nước nhà chưa biết dàn nhạc giao hưởng là cái gì. Chỉ riêng chương trình in trong ngày biểu diễn đầu tiên đã có bàn cãi nên ghi là đồng ca, hợp xướng, đại hợp xướng hay tổ khúc? Sau gần 1 tháng, dưới sự dàn dựng và chỉ huy của chuyên gia Triều Tiên Triệu Đại Nguyên, sáng tác của tôi ra mắt chào đời, dù còn thiếu một số nhạc cụ như timpani, cor, trombone.

Lúc này Chu Minh, Hoàng Vân đang ở Tàu, Đỗ Nhuận, Nguyễn Đức Toàn đang ở Liên Xô, trường nhạc chỉ mới có hệ trung cấp “tự dạy tự học” do ông Tạ Phước làm hiệu trưởng. Sáng tác của tôi đã gióng lên hồi chuông báo động: “Không học thì đừng mong làm nhạc sĩ!”

Khi viết cantate này, lúc đầu tôi chỉ nhằm mục đích “moi” thật nhiều những gì chuyên gia có trong đầu để trang bị cho mình cái vốn sau này. Thực tế đã chứng tỏ Lương Ngọc Trác, bạn đồng học của tôi đúng, khi anh rỉ tai tôi: “Cắn răng mà học rồi ấm vào thân đấy, Hải ạ!”

Tôi cũng không ngờ phe ủng hộ Cái Mới...thắng thế, để một tác phẩm âm nhạc tạm gọi là “tầm cỡ” vào những năm 1959-1960 ấy được ra đời! Đặc biệt hôm chính thức ra mắt tại Nhà Hát Lớn nhân dịp kỷ niệm 15 năm thành lập quân đội ngày 22-12-1959, tác phẩm đã được gần như cả Bộ Chính Trị, trừ ông Hồ, đến xem và hoan hô nhiệt liệt. Tôi ngồi bên giáo sư Mao Vĩnh Nhất nên khi “các cụ” đến bắt tay cũng được “rờ nhẹ” bàn tay các cụ. Riêng “anh Văn” Võ Nguyên Giáp đang bị dèm pha về chuyện dỗi hơi đi học nhạc lý nhạc sĩ Tô Vũ, học piano Hồng Hạnh, nghệ sĩ dương cầm của Đoàn Văn Công Tổng Cục Chính Trị đã kèm theo câu: “Khá lắm!” Bạn bè khen nức nở. Chiến sĩ từ biên giới, hải đảo viết bài trên báo, gửi thư cảm ơn.

Nhưng khốn nạn cho tôi, tôi đâu có ngờ đây chính là giai đoạn mở đầu một cuộc đấu đá, nhân danh giai cấp vô sản, để triệt tiêu cá nhân tôi, bằng cách đưa tôi vào đường ngắm bắn của đường lối văn hóa vô sản!

Mở đầu là việc đưa tôi về đâu sau khi tốt nghiệp với khá nhiều tiếng vang như thế? Không còn chuyện đường lối văn nghệ văn nghẽo gì mà bao trùm lên cả là lòng đố kỵ. Những tên văn nghệ chính trị cơ hội đã ngăn cản không cho tôi “thừa thắng xông lên” khi không ít ý kiến của lãnh đạo, cả trong và ngoài quân đội, là tôi nên về các đoàn văn công đang tiến lên chính qui hiện đại ở Trung Ương để phát huy khả năng phục vụ. Đây là ý kiến của các ông Lê Liêm, Lưu Hữu Phước. Nhưng bọn sợ tôi sẽ là “ngôi sao” át mất chúng, đặc biệt là tôi biết rõ chúng dốt đến mức nào. Chúng đã đưa ra mọi lý do để lại “đầy” tôi về một đoàn văn công gian khổ nhất, hãi hùng nhất, để chịu đựng thêm mấy năm bị đánh lên đạp xuống vì đủ thứ tội như “mất lập trường”, “tư tưởng tư sản trong nghệ thuật”, “chống đối có hệ thống” với...cấp ủy.

Sau đó là những năm người ta giải tán dần các đoàn văn công bằng cách đưa ra khẩu hiệu “hướng về đại đội phục vụ chiến sĩ”. Lấy “hướng dẫn phong trào” là mục tiêu chính, thậm chí để đàn, để kèn ở nhà, “hạ phóng” làm lính, làm thợ xây, phu hồ xây dựng doanh trại vv...nghĩa là tất cả cái gì tôi và các bạn tôi được học chính quy đều nằm trong mục tiêu: Phải...dẹp!

Cũng thời gian này, giữa những năm 1960, báo Văn (gọi là “hậu Nhân Văn”) bị tấn công tới tấp. Sự thèm khát tự do, nổi lên bề mặt của cuộc sống tinh thần là tự do sáng tác vẫn không thể giết chết hẳn với việc xử trảm Nhân Văn Giai Phẩm. Người ta viết bài chào mừng hồng vệ binh, trích Mao tuyển, ca ngợi thành tựu vĩ đại bên nước bạn nhờ có “Đại Cách Mạng Văn Hoá Vô Sản”. Các đoàn văn công, nghệ sĩ tiếp tục “hạ phóng” đi về nông thôn học tập lao động và tự “cải tạo tư tưởng bằng lao động”.

Một cuộc chỉnh huấn, chỉnh quân, chỉnh Đảng mới, được phát động nhằm chống lại “khoa học kỹ thuật thuần túy”. Người ta giương ngọn cờ “chính trị là thống soái” để đánh vào người muốn đích thực “làm nghề”, kết tội ai muốn chuyên tâm vào khoa học hay nghệ thuật. Bắt đầu sự tiến băng băng trên hoạn lộ của những bác sĩ không đọc nổi tên thuốc, những nhạc sĩ không biết và cũng không cần biết các giao hưởng của Beethoven, Chaikovsky hay ở chỗ nào.

Mọi tin tức từ khắp nơi dồn về dù chỉ là qua những cái đài transistor Liên Xô, Hungari to đùng cũng đủ để tôi thấy chủ nghĩa cộng sản đã bước vào chương... bắt đầu của sự kết thúc! Bộ mặt ác quỷ của nó đã hiện ra sau các vụ đập phá tan tành những đền đài, di tích văn hoá, đốt sách, làm nhục, bức tử giáo sư, nghệ sĩ, tàn sát hàng loạt người vô tội ở Trung Quốc, các vụ hồng quân Liên Xô đưa xe tăng vào Budapest, nã súng vào người Hungary, treo cổ Imre Nagy, sau cuộc tiến quân của liên minh Warszawa vào Praha, nhất là sự kiện hàng vạn đảng viên trí thức, văn nghệ sĩ tuyên bố ly khai khỏi các đảng cộng sản…Tất cả những cái đó càng thôi thúc tôi phải mau chóng vứt bỏ cái danh hiệu xấu xa, nhơ nhuốc “đảng viên cộng sản”.

Giữa lúc đó, tôi được lệnh gọi về Trung Ương.

Để làm gì đây?

Hoá ra ông Lê Liêm đã nhân dịp này giải phóng cho tôi ra đảng theo chính...con đường của Đảng!

Nhờ các ông Lê Liêm, Nguyễn Xuân Khoát, Lưu Hữu Phước.., ân nhân nhớ đời của tôi, tôi được chọn làm cán bộ “vừa hồng vừa chuyên”, một thứ của hơi hiếm, biệt phái sang bộ Văn Hóa. Thật nực cười! Dù sao đây cũng là cơ hội ngàn năm một thuở cho tôi thoát khỏi cái “lồng quân đội” mà tôi cho là tệ hại nhất trong các nhà tù tư tưởng của chủ nghĩa xã hội!

Đang được điều động đi phục vụ Đại Hội VI, viết nhạc cho vở kịch lớn Trước Giờ Chiến Thắng của Đào Hồng Cẩm, tôi cùng một số anh em như Hà Mậu Nhai, Hà Minh Tuân…nhận được giấy tập trung tại ban Tuyên Huấn Trung Ương ở số 5 Nguyễn Cảnh Chân để nghe phổ biến tình hình thế giới phe xã hội chủ nghĩa đang lộn xộn thế nào, tình hình trong nước, giai cấp tư sản đang ngóc đầu dậy ra làm sao? Nhiệm vụ trước mắt, nhiệm vụ hàng đầu của chúng tôi, những người lính văn nghệ được Đảng tín nhiệm, là phải phát huy vai trò người “lính gác cửa”, kiên quyết không để cho tư tưởng phi vô sản lọt qua vv ...

Thế là áo bốn túi, mũ cối đỏ choét phù hiệu, vai vàng khè quân hàm trung úy, tôi bước vào ngôi nhà 94 Tô Hiến Thành, nhận nhiệm vụ “lính gác cổng văn nghệ vô sản” với chức vụ biên tập nhà xuất bản Mỹ Thuật Âm Nhạc! Chính từ chủ trương tăng cường cán bộ cốt cán của quân đội cho bộ Văn Hóa mà sau này bộ Văn Hóa bị những cú vả sái quai hàm. Một số chẳng hiểu biết ất giáp gì về văn hóa văn nghệ như Võ Hồng Cương, Mai Vy, Trần Văn Hải từ bộ đội chuyển sang, nhận những chức vụ quan trọng vụ trưởng, vụ phó, giám đốc. Có thể kể thêm Trần Ngọc Lê, giám đốc nhà hát giao hưởng, Nguyễn Đình Tính, giám đốc nhà xuất bản Mỹ Thuật Âm nhạc, Lý Thương, giám đốc nhà hát ca múa nhạc trung ương và cả những tên cơ hội từ tiểu đội trưởng khai man là tiểu đoàn trưởng để được giao nhiệm vụ giám đốc như Hồng Việt, giám đốc xưởng phim đèn chiếu...

Kể cũng tội cho họ. Đảng đã quyết thì họ phải “liều mạng” mà thi hành nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong họ cũng có người tốt, kẻ xấu. Như cái ông Nguyễn Đình Tính, giám đốc của tôi thì tôi rất biết ơn ông. Làm gì, thu thanh bài nào, bỏ hoặc thông qua bài nào, ông đều hỏi ý kiến anh em chuyên môn. Có những lúc không thể nhịn cười, khi ông gạch đít một bài dân ca mà theo ông “có vấn đề” bởi có câu “Chiều chiều ra đứng (tây mà...) lầu tây” rồi viết bên cạnh: “Giai cấp nào mà có lầu đây?” Nhưng khi tôi giải thích như thế như thế thì ông nghe ngay. Không những thế, ông còn không ngớt đề cao tôi, kiếm nhà cho vợ chồng tôi, ký quyết định thu thanh một loạt tác phẩm kể cả Tiếng Hát Người Chiến Sĩ Biên Thùy để tôi có số vốn ban đầu ổn định lâu dài tại đất Hà Nội! Tôi trở thành cánh tay phải, thậm chí bộ óc của ông một thời gian và cũng trở thành mục tiêu đố kỵ của một số “rạc sĩ giời đánh” đang kèn cựa nhau để có tí chức quyền dù chỉ là phó phòng!

Trưởng phòng thì đã có một ông đại úy pháo binh đảm nhiệm tên là Nguyễn Đình Quý. Phó giám đốc có ông Châu mù (tôi quên mất họ)... mù tịt về mỹ thuật, dù dưới quyền ông có những cỡ lớn trong giới hội họa như Huỳnh Văn Gấm, Quang Phòng... cũng như Xuân Giao, Thái Cơ, An Chung bên phòng nhạc. Họ không được giao nhiệm vụ gì hết, do họ chưa là đảng viên! Còn tôi, lý do duy nhất khiến tôi chỉ là biên tập viên vì... chưa có giấy giới thiệu và lý lịch chính thức từ Quân Khu IV cho chuyển Đảng! Tôi sang “bên nhân dân” chỉ có cái quyết định (bản sao) của ban Tuyên Huấn Trung Ương đóng dấu chữ nhật to đùng do ông Tố Hữu ký. Tất cả các cán bộ được điều chuyển đều còn chờ một tờ giấy gửi từ Khu IV ra để tôi nhận nhiệm vụ phó giám đốc vì lúc này, ở bên họa cũng như nhạc từ Phan Huỳnh Điểu, An Chung, Thái Cơ, Xuân Giao chưa ai được “bất hạnh” là đảng viên!

Phải nói them rằng điều kiện để tôi rút khỏi cái tổ chức nguy hiểm chết người cũng nhờ một phần khách quan từ trên “trời” rơi xuống. Đó là ngay trong Đảng, hai phe thân Tàu, thân Nga đã lộ diện. Phe này chửi phe kia là tả khuynh, hữu khuynh, là xét lại... Sự thật là lý luận Mác-Lê Nin đã đi vào khủng hoảng ngay ở nước mẹ của nó, ở cả hai nước anh cả, anh hai... từ lâu rồi.

Ở Hà Nội, lũ học trò chữ Tây cũ chúng tôi, những Chính Yên, Thiết Vũ, Trần Đĩnh...đâu có thiếu báo chí tài liệu nước ngoài. Ngay trong giới văn nghệ, những anh có học và vô học lúc này càng phân hóa rõ ràng. Mấy cha “bần cố giả vờ”, không nghe, không đọc gì ngoài đài phát thanh của ông Trần Lâm, báo Nhân Dân của ông Hoàng Tùng, thì chơi với nhau. Mấy cha nghiện Paris Match, Le Figaro, Le Monde thì nhìn bọn “Dạ! thưa anh” bằng con mắt cực kỳ khinh bỉ.

“Hiện thực xã hội chủ nghĩa”, “thẩm mỹ Mác-Lê Nin” bị biến thành chuyện tiếu lâm. Chúng tôi cười vào mũi mấy anh “thành phần cơ bản” bằng cách dẫn chứng sự thoái hóa của chủ nghĩa Mác với chính lý luận của Marx, Engels, Zinoviev, Garaudi... Có anh “bảo lưu” quan điểm “xét lại”, công khai treo ảnh Khrushov ngay giữa sa-lông. Chúng tôi viết bài (không đăng) vạch ra cái dốt về lý luận cơ bản như “Thế nào là hiện thực trong các loại hình nghệ thuật?”, “Hiện thực xã hội chủ nghĩa là cái gi? “Thế nào là Đảng tính, giai cấp tính, nhân dân tính”? Nổi bật là việc báo Văn bị coi là “hậu Nhân Văn”. Rồi đến các tác phẩm Vào Đời của Hà Minh Tuân, Đống Rác Cũ của Nguyễn Công Hoan, mấy truyện ngắn của Nguyên Ngọc (Mạch Nước Ngầm), Vũ Thư Hiên (Đêm Mất Ngủ), Ngô Ngọc Bội (Chị Cả Phây) … bị chính lãnh tụ văn nghệ Tố Hữu đánh. Một loạt tùy bút tưng tửng của Nguyễn Tuân (đặc biệt là Phở) bị xếp vào loại... vô chính trị. Mà đã vô chính trị tức là không chịu sự lãnh đạo của Đảng.

Riêng tôi, cũng bị dính vào loại “có vấn đề” qua những bài hát như Qua Sông Lại Nhớ Con Đò, những bài hợp xướng rối rắm, lắm bè nghe như...cái chợ, “sặc mùi tiểu tư sản”! Tiếng Hát Biên Thùy bị cắt hai chương, không cho biểu diễn là các chương có giai điệu êm ái tiết tấu nhẹ nhàng. Cũng chính lúc này, trong quân đội, nhân dịp tổ chức lại các sư đoàn, quân khu người ta giải tán luôn các đoàn văn công lớn, xé lẻ mọi tổ chức văn nghệ cồng kềnh khó lãnh đạo dễ cho mọi tư tưởng phi vô sản luồn vào!

Cơ may từ trên trời rơi xuống cho tôi nhờ chính sự phá hoại của bản thân những tên lãnh đạo ngu dốt nhất đang ôm chặt chân Mao để “khử” những người không đồng chí hướng, khép họ vào “xét lại”, khai trừ họ khỏi Đảng, thậm chí thủ tiêu, bỏ tù hàng loạt. Trong số người có công nhất với giới văn nghệ, ông Lê Liêm là người bị đánh ngay đòn phủ đầu do anh thư ký của ông tên Thẩm, nghe đâu bị bắt vì tội đã chuyển văn bản nghị quyết 9, chống xét lại cho Cherbakov, đại sứ Liên Xô.

Tiếp theo là những Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Vịnh... và nhiều nhiều người nữa bị bỏ tù, bị khai trừ Đảng, bị quản thúc tại gia. Riêng trong giới văn nghệ đi tù, thời này chỉ có Vũ Thư Hiên, Lê Huy Vân... còn lại đều bị kiểm điểm, hoặc mất chức, hoặc thu hồi tác phẩm.

Tóm lại các tổ chức văn nghệ, vừa tiến lên chính quy và hiện đại được một bước thì phe Mao-ít nhân danh “chống xét lại” đẩy lùi về thời nghiệp dư tới 10 bước.

Vậy mà, tôi mừng quá, mừng hơn khi “giải phóng Điện Biên, bộ đội ta tiến quân trở về”! Vì chính nhờ sự “phá hoại do chống nhau có tổ chức” này, tôi có cơ hội thoát khỏi nhà tù nhỏ đang nhốt một anh “nhạc sĩ đảng viên” mặc áo lính một cách êm re.

Tôi chẳng bị khai trừ, nhưng chẳng phải quần chúng, chẳng phải đảng viên, chẳng phải nhân dân, cũng chẳng phải quân đội! Năm 1986, khi về hưu tôi mới trả lại tất cả quân hiệu, quân hàm, chứng minh thư quân nhân, chẳng thèm đòi hỏi bất cứ chính sách nào, sau 25 năm bị Đảng, bị Quân Đội bỏ quên! Hơn thế nữa, cái tổ chức lèm nhèm đến vô tổ chức đó cũng chẳng cần để ý xem Tô Hải là lính hay là dân, là đảng viên hay quần chúng, dù khi tôi từ giã hẳn cái tổ chức rất... vô tổ chức đó, họ vẫn cấp cho tôi một tờ quyết định có tiêu đề Đảng Cộng Sản Việt Nam - Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh đóng dấu hình chữ nhật đỏ loét do phó bí thư thành ủy Nguyễn Võ Danh ký!

Thật là lạ đời!

Rút kinh nghiệm 40 năm sống chung với Đảng, tôi kiên quyết không chìa cái giấy quyết định có thể “kiếm chác” này ra khi trở về khu phố. Vài ông bạn già, khi đi lĩnh lương hưu, gặp tôi thường hỏi: “Sao không thấy ông đi sinh hoạt chi bộ?”. Tôi chẳng ngượng ngùng gì khi trả lời: “Các cụ nhầm rồi! Tuy có 43 năm “đi làm cách mạng” thật đấy, nhưng “tôi chưa hề là đảng viên đảng cộng sản!” Vợ tôi có lúc khuyên tôi nên khiếu nại về cái sự vô trách nhiệm trong quản lý cán bộ để tôi bị “mất liên lạc”! Bởi nếu được tính 55 tuổi Đảng thì, khi hóa giá căn hộ mà Nhà Nước cho thuê từ năm 1975, tôi sẽ được “ưu tiên”. Tôi đã trả lời vợ tôi: “Bao nhiêu năm “đóng kịch”, bao nhiêu mưu mẹo để được đứng trong hàng ngũ nhân dân, chối bỏ cái quá khứ làm “xen đầm văn nghệ”, làm đầy tớ cho những thằng ngu, nay được tự do, được tuyên bố “Tôi không là đảng viên cộng sản” là may, là tốt lắm rồi.

Tôi càng không phải chịu trách nhiệm, không ai coi tôi là đồng lõa của bọn “ngụy cộng sản” thời Đổi Mới này”. Hãnh diện quá đi chứ, vinh quang quá đi chứ! Hà cớ bây giờ, chỉ vì căn hộ chưa đầy 60 mét vuông, lại phải muối mặt làm “lão già hèn” nữa hay sao?

Hãy cho tôi được chết như các anh Trần Độ, Lê Liêm... khi đăng “cáo phó” không có cái mục “ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM”, dù so với các anh, tôi chỉ là con tôm, con tép!

Các anh đã “ĐƯỢC KHAI TRỪ”.

Các anh đã dám “công khai chống Đảng cộng sản”, dám công khai nhận “bản án đầy vinh quang”!

Không hề sợ hãi, cúi đầu.

Không hèn lâu như tôi..

Viết thêm, xong ngày 20 tháng 4 năm 2007 khi bước

vào tuổi 80 được 8 tháng 26 ngày.

20.

Nhạc sĩ Tô Hải và truyền thông

1. Hồi ký của một thằng hèn theo Tiếng Quê Hương

2. Hồi ký của một thằng hèn theo BBC Vienamese

3. Phỏng vấn nhạc sĩ Tô Hải và Hồi ký theo BBC Vietnamese

4. Hồi ký của một thằng hèn theo DCVOnline

5. Nhạc sĩ Tô Hải và “Hồi ký của một thằng hèn” theo RFI

6. Phóng sự buổi ra mắt sách "Hồi ký của một thằng hèn" theo X-Cafevn

7. Tìm hiểu về nhạc sĩ Tô Hải [P1] [P2] theo RFA Việt


Share/Save/Bookmark

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Related Posts with Thumbnails