Thứ Hai, 13 tháng 7, 2009

Vết sẹo và cái đầu hói

Nguồn : Thụy Khuê
Nghe tại đây





Thụy Khuê

Võ Văn Trực và Cách Mạng Tháng Tám


Vết sẹo và cái đầu hói

Sau khi tốt nghiệp ban ngữ văn trường đại học tổng hợp, Võ Văn Trực làm việc tại bộ ngoại giao trong một năm; tiếp đó, từ 1962 đến 1967, ông làm biên tập cho nhà xuất bản Thanh Niên, và từ 1977 đến 1999, làm phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ. Hầu trọn hoạt động nghề nghiệp của Võ Văn Trực nằm trong khuôn khổ báo chí và xuất bản, chính vì thế mà ông đã nhìn rõ hậu trường hơn ai hết. Với lối viết hiện thực trào phúng, ông trình bày mặt trái của đời sống văn học tại một viện chính quy trong tác phẩm "Vết sẹo và cái đầu hói".

Có thể nói hai tác phẩm Chuyện làng ngày ấy Vết sẹo và cái đầu hói là một bộ đôi gắn bó hữu cơ với nhau: Chuyện làng ngày ấy viết về nguyên nhân Cách mạng tháng Tám, Vết sẹo và cái đầu hói viết về hậu quả của nền Cách mạng này, tức là sự sản sinh ra những nhân vật như Quách Quyền Lực, những tay thủ trưởng cơ hội, bất tài, lắm mưu, nhiều mẹo, leo lên thượng tầng trong mọi ngành, kể cả ngành văn hoá, bằng tham ô và thủ đoạn; và sự hình thành những cơ quan hành chính, kể cả về khoa học nhân văn, tồn tại trong guồng máy hối lộ, tham nhũng và lãng phí.

Nhân vật Bác Chắt Kế trong Chuyện làng ngày ấy được dựng trên từ một khuôn mẫu có thật là ông Võ Nguyên Hiến. Ông Võ Nguyên Hiến, ngay từ năm 1935, tại Đại Hội Đảng Cộng Sản Đông Dương lần thứ nhất ở Macao, đã được bầu vào Ban chấp hành Trung Ương. Từ một nhân vật có thật như thế, Võ Văn Trực đã dựng nên một mô hình lãnh tụ, mà ai cũng có thể nhận ra.

Bác Chắt Kế là một nhân vật có lương tri. Bác thành tâm muốn xây dựng cho xóm làng một đời sống mới, nhưng Bác đã sai lầm khi quét sạch tất cả vốn liếng văn hoá, đạo đức của tiền nhân để thay thế bằng mớ lý thuyết ngoại lai, học lỏm của người ngoài, đem áp dụng một cách máy móc vào cộng đồng dân tộc. Kết quả đớn đau là chính Bác cũng bị cái guồng máy mà Bác đã dựng nên sa thải. Bác Chắt Kế đuổi thánh, đánh Phật, tạo nên những nhân tố mới vô thần, lấy đấu tranh giai cấp làm kim chỉ nam, lấy chỉ điểm làm lẽ sống, rồi Bác bị những nhân tố người máy ấy lôi Bác ra đấu tố.

Sau khi Bác bị vô hiệu hoá rồi, những nhân vật mà bác đã tác thành, tiếp tục sinh xôi nẩy nở, tiếp tục chiếm hữu chính trường, thời đại Vết sẹo và cái đầu hói là thời đại nối tiếp Chuyện làng ngày ấy.

Nhân vật Quách Quyền Lực trong Vết sẹo và cái đầu hói, có thể đã được xây dựng trên một hay nhiều người mẫu có thật của thời này. Nhưng điều quan trọng không phải là tìm xem người mẫu đó là ai; vì tất cả mọi mẫu người rồi cũng sẽ qua đi, mất đi, nhưng nhân vật sẽ tồn tại, nếu tác phẩm có giá trị. Và tác phẩm tiểu thuyết chỉ có giá trị khi những nhân vật và bối cảnh trong tiểu thuyết biểu hiện được thời không gian của tiểu thuyết; trong trường hợp Vết sẹo và cái đầu hói, là thời hiện đại ở Việt Nam. Cái đời sống hàng ngày ấy, cái thời không gian ấy đã được mô tả một cách rất sống động trong tác phẩm.

"Vết sẹo và cái đầu hói" trình bày sự đối đầu giữa hai nhân vật chính là Quách Quyền Lực, thủ trưởng và Cù Văn Hòn, phụ tá, trong một cơ quan văn hoá vào cấp lớn nhất của nhà nước. Quách Quyền Lực và Cù Văn Hòn, cũng là đôi bạn chí thiết từ thủa nhỏ, gặp lại nhau trong công việc, nhưng ý tưởng và tư cách của họ hoàn toàn đối lập nhau. Cả hai cùng công tác trong một cơ quan văn hoá là Viện Văn Hiến: Lực, tượng trưng cho giai cấp quyền lực, là thủ trưởng, ít học, leo lên cấp lãnh đạo bằng thành tích cách mạng, thủ đoạn và gian dối. Cù Văn Hòn thuộc lớp người chuyên môn, có học, làm tất cả công việc khó khăn trong viện, và chịu quyền lãnh đạo độc tài của một tên thủ trưởng bất tài đa nghi với nhiều thủ đoạn gian ác.

Tác phẩm xây trên sự đối chất hàng ngày giữa hai người, nhưng đồng thời còn bộc lộ rõ ba giai tầng: giai tầng thứ nhất bất tài có quyền lực cai trị và giai tầng thứ nhì học thức bị trị; giai tầng thứ ba là lớp các cô thư ký, nhân viên, như Cô Chanh, Cô Đào... thuộc vào loại "nhân dân" đông hơn, họ thấy rõ những dốt nát, thủ đoạn, gian dối, của giai cấp thống trị, nhưng thấp cổ bé miệng, họ chỉ có thể an ủi Cù Văn Hòn bằng tình cảm, mà không làm gì hơn được. Qua đời sống bi hài hàng ngày của Viện Văn Hiến, tác giả bộc lộ tất cả sinh hoạt hậu trường của những cơ quan học thuật nhà nước, bao trùm nhiều lãnh vực văn học từ dịch thuật nghiên cứu, phê bình, đến sáng tác, và xuất bản.

Quách Quyền Lực gốc gác như sau: "Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, gia đình Lực từ ngoài Bắc tản cư vào vùng tự do. Lúc đó Lực chưa đầy mười tuổi.

Dốc Cướp vốn là một eo núi vắng vẻ có con đường liên huyện vắt qua, bỗng trở nên tấp nập phố xá. Trong những năm đói kém, nơi đây bọn kẻ cướp thường tụ tập để cưóp giật của cải người qua đường, cho nên người ta quen gọi dốc này là Dốc Cướp. Bố mẹ Lực dựng một cái quán dưới chân dốc đầu dẩy phố. Mẹ bán hàng tạp hoá. Bố làm nghề gò hàn đồ đồng đồ tôn. Lúc đầu, bà con không biết tên ông, cứ gọi là "ông Gò Tôn", rồi giản lược là "ông Tôn". (Vết sẹo và cái đầu hói, Nhà Xuất bản Văn Hoá thông tin, Hà Nội, 2006, trang 19).

Dốc Cướp không phải vô tình có mặt ở đây: Quách Quyền Lực sinh ở Bắc, tản cư vào đất Nghệ lúc chưa mười tuổi, lớn lên và trưởng thành ở Dốc Cướp.

Dốc Cướp là cái lò đào tạo nên Quyền Lực.

Quách Quyền Lực khác Cù Văn Hòn. Hòn là người Nghệ An thứ thiệt: Sự khác biệt giữa một bản sắc tự thân và một bản sắc được chế tạo từ môi trường trộm cuớp. Những chi tiết về gốc gác Quách Quyền Lực và Cù Văn Hòn đều được chọn lựa và mô tả với nhiều ý nghiã như thế: "Học xong cấp ba, Lực đi bộ đội. Hòn học một mạch lên đại học, rồi về cộng tác ở Viện Văn Hiến" (trang 27).

Xuất thân từ gốc gác đó, từ môi trường đó, Quách Quyền Lực lên chức bằng thủ đoạn và dùng một thứ tay sai thân tín du côn, chó săn là Thanh Cấu. Cấu được mọi người đặt cho biệt danh là Cậu Trời: "Em chỉ biết là từ khi Cậu Trời xách cái cặp da đen thì cả cái kinh thành Viện Văn Hiến này náo loạn, Cậu Trời đi đến đâu thì người dạt ra hai bên đưòng, cóc nhái nhảy chồm chồm..." (Lời cô Chanh miêu tả Thanh Cấu, trang 51). Rồi Lực đổi tên tờ báo Văn Hiến thành Văn hiến nghìn năm, và đưa ra lý do sau: "Hai tiếng "nghìn năm" ở đây không phải đóng khung vào con số 1000, mà là hàng nghìn nghìn năm chiều dài lịch sử, bốn nghìn năm rực rỡ Vua Hùng. Văn Hiến của ta không chỉ đánh thắng hai tên đế quốc đầu sỏ Pháp, Mỹ, mà Văn hiến của ta là ba lần đánh thắng quân Nguyên, một tên đế quốc hung hãn nhất của thế kỷ, không phải một lần, mà ba lần đánh thắng quân Nguyên, ba lần đánh thắng quân Nguyên...

Lực nói một hơi dài, không vấp váp một câu nào, không vấp một chữ nào". (trang 77).

Quách Quyền Lực là thứ lãnh đạo típ. Biết dùng tất cả những bài bản thông dụng khi đăng đàn diễn thuyết để thuyết phục cử toạ. Mặc dù người nghe đều biết đó "là giọng điệu những lời cán bộ tuyện huấn năm bốn lăm giảng chính trị cho nông dân" như lời Phan Chấn: nhưng tất cả đều phải nghe, không có cách nào nói khác, càng không thể chống lại.

Tất cả những sinh hoạt trong "cơ quan Văn hiến" này đều diễn ra như vậy: Từ nạn phong bì, tiêu biểu sự tham nhũng đã trở thành một cơ chế chính quy, một phong tục mới. Phong bì đã mất chức năng, đưa thư, giao tiếp, và chuyên chở tình cảm giữa người và người để trở thành một phương tiện chuyên chở công khai các hình thức hối lộ trá hình mà đặc biệt nhất là hình thức hội thảo phong bì.

Về cách xây dựng hội thảo và cách viết phê bình, Võ Văn Trực viết:

"Ở nước ta trong thời buổi hiện nay, đối với người phê bình, trình độ học thuật và thẩm mỹ là thứ yếu, mà phẩm chất cao nhất phải là lập trường, tư tưởng. Muốn tỏ ra vững vàng về lập trường, tư tưởng, trong lời nói và bài viết thỉnh thoảng nên trích dẫn nghị quyết Đảng hoặc của một đồng chí lãnh đạo cao cấp. Vì thế, các văn kiện Đảng và trước tác của các nhà lãnh đạo là cẩm nang của người phê bình văn học nghệ thuật...

Không những chỉ cần đầu tư sức lực vào các cuộc hội thảo theo phương hướng ấy. Bây giờ người ta mở ra rất nhiều cuộc hội thảo. Hội thảo về di tích lịch sử, trong đó có bề dầy thi ca của di tích. Hội thảo về thủ công, trong đó có ca dao truyền thống về nghề cổ truyền. Hội thảo về một chiến thắng lịch sử, trong đó có các tác phẩm văn nghệ ca ngợi chiến thắng... Cái gì cũng là văn hoá cả, những ngưòi hoạt động văn hoá, nhất là những người làm quản lý văn hoá tha hồ mà đi dự hội thảo. Có người một ngày nhận được hai ba giấy mời đi dự hội thảo, đành phải xé thời gian đến dự cuộc này một chốc rồi lại phóng xe đến cuộc khác, mỗi cuộc ông ta phát biểu mười lăm hai mươi phút gì đó, rồi nhận phong bì (...)

Lực đã triệt để khai thác kiểu học thuật láu cá trên đây một cách hữu hiệu. Chỉ cần bổ sung một động tác không kém phần quan trọng để "Lực hoá" trăm phần trăm kiểu học thuật này. Trước khi dự hội thảo hoặc trước khi viết bài phê bình, đến gặp một ông to nào đấy để gợi chuyện, ông ta sẽ nói ý kiến về vấn đề sắp hội thảo hoặc về tác phẩm Lực sắp phê bình. Nói nôm na ra là hóng ý cấp trên. Như vậy bản tham luận của Lực, bài phê bình của Lực sẽ có sức nặng hơn rất nhiều người khác" (trang 31-32).

Tất cả những lề lối thực hiện hội thảo, và viết phê bình trên đây của Quách Quyền Lực, giới làm văn học ở Việt nam, dường như không ai là không biết. Lại Nguyên Ân gọi đó là phê bình xu phụ. Nhưng viết thành tiểu thuyết thì có lẽ Võ Văn Trực là người đầu tiên.

Các cuộc thi văn nghệ cũng được tác giả đề cập:

"Thơ là thể loại có nhiều người tham gia nhất. Hàng trăm câu lạc bộ thơ thì sẽ có hàng ngàn hàng vạn bài dự thi. Khối anh bỏ tiền để mua danh. In một bài thì phải nộp bao nhiêu tiền. In một chùm thì phải nộp bao nhiêu tiền. In thêm cái ảnh tác giả thì giá tiền cao hơn..." (trang 78). "Có cộng tác viên đưa bài và đưa kèm một phong bì. Có công tác viên biếu một chai rượu tây" (trang 79). Chúng ta càng hiểu rõ tại sao lại có sự xuống cấp trầm trọng trong việc lựa chọn in ấn và phát giải thưởng văn chương hàng năm.

Nhưng có lẽ cái ghê gớm nhất là chính Quách Quyền Lực cũng chỉ là một con nhện trong cái màng nhện âm u chăng trên toàn thể đất nước. Là nhện, Quách Quyền Lực vừa chăng màng vừa bị vướng vào dây tơ mà mình đã mắc:

"Ngay trong căn phòng ngủ và làm việc tại nhà riêng, Lực cũng cho rằng công an đã gắn máy ghi âm. Hễ đi đâu về là Lực xem trên bàn, trên giường có dấu hiệu gì khả nghi. Rồi nhìn lên trần nhà, góc nhà, bốn bức tường có gì khác lạ. Một cái mạng nhện, một vết hoen ố, một mảnh giấy rơi đều không thoát khỏi con mắt cảnh giác của Lực...

Một hôm, vừa bước vào phòng, Lực giật mình thấy con nhện to và đen trùi trũi bò trên chồng tài liệu. Chưa bao giờ trong căn phòng này xuất hiện một con nhện như thế. Lực đến gần, nó cũng không chạy. Chắc hẳn trong con nhện này có gắn một loại máy vi tính để ghi âm và ghi hình. Lực rút dép đập một phát, con nhện chạy rất nhanh xuống bàn. Lực chui xuống đập tới tấp, không may bình rượu rắn vỡ toang. Con nhện dính rượu, bị xác rắn đè lên, Lực nghiến răng cầm chiếc dép đè lên xác rắn. Rắn bẹp dí và nhện cũng bẹp dí... (trang 214).

Quách Quyền Lực đã trở thành một trường hợp bệnh não, một trường hợp thần hồn nát thần tính, tẩu hỏa nhập ma. Mục đích cao nhất của Quách Quyền Lực là làm sao giữ yên được cái ghế ngồi. Vì cái ghế ngồi đó, Lực đã bán trắng tất cả, từ đứa con trai tật nguyền duy nhất, đến đạo đức bản thân của chính mình. Nhưng Lực cũng không thoát khỏi vòng kiềm toả vô hình, Lực không thoát khỏi cái bẫy do chính mình gây ra. Cuối cùng, dù Lực vẫn sống, nhưng chính Lực đã nghiền bẹp dí mình như con rắn, con nhện.

Vết sẹo và cái đầu hói là cuốn sách trực tiếp viết về tình trạng người trí thức hiện nay: Có hai loại: Một loại trí thức giả, xuất thân Dốc Cướp như Quách Quyền Lực, nắm quyền thủ trưởng một cơ quan văn hoá lớn. Và một loại trí thức thật, là những người như Cù Văn Hòn, có khả năng chuyên môn, có lòng, nhưng nhu nhược, bị một cơ chế thối nát kiềm tỏa, không thể phát triển tài năng và học thuật của mình. Người sáng tác cũng bị ép trong những cơ chế đã bị Quyền Lực hoá như thế, và đó là lý do chính khiến cho các tác phẩm giá trị không thể phát triển được.

Thụy Khuê

Paris, tháng 12/2006

© Copyright Thụy Khuê 2006


Share/Save/Bookmark

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Related Posts with Thumbnails