Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2009

Lynh Bacardi, tình mẹ và ý thức tự do (P2)

Nguồn : Thụy Khuê
Thụy Khuê giới thiệu truyện ngắn Lynh Bacardi




Thụy Khuê

Lynh Bacardi, tình mẹ và ý thức tự do


Lynh Bacardi, con người bị mất tiếng nói

Vào khoảng tháng 3/2006, nhà văn Bùi Hoằng Vị ở Sàigòn gửi cho tôi qua thư điện tử mấy bài thơ và hai truyện ngắn của Lynh Bacardi, với lời dặn: "Chị đọc đi, cô này chắc chị chưa đọc đâu". Sững sờ trước lối viết hoàn toàn mới lạ, cái nhìn đau xót về những người sống ngoài lề, tôi viết vắn tắt mấy dòng trả lời Vị: "Thế nào cũng phải giới thiêu cô này, Vị liên lạc hộ nhé". Bùi Hoằng Vị rất mừng, cho biết anh đã giới thiệu Lynh với mấy nơi, đều không đạt kết quả. Lúc đó Lynh chưa hoàn tất truyện ngắn Tre rừng, và chưa viết các truyện Hậu sảnNghiã trang đồng nhi. Như vậy, công khám phá Lynh Bacardi thuộc về Bùi Hoằng Vị cũng như Trần Vũ là người đã nhận diện Đỗ Hoàng Diệu ngay từ những phút đầu, và Đặng Hiền đã sớm nhận ra tài năng của Đình Đình và Phạm Ngọc Lương.

Ngoài thơ, hai truyện ngắn mà Bùi Hoằng Vị gửi cho chúng tôi là "Hắn lại vào toilet, há hốc mồm xăm soi" viết tháng 5/2004 và "Con bé bịt mắt" viết đầu năm 2006, đã đăng "en vrac" trên báo mạng cùng với những bài thơ của Lynh, và một số ngòi bút khác. Công của Bùi Hoằng Vị là đã tìm ra tác phẩm hay trong đám vàng thau lẫn lộn ấy.

Hắn lại vào toilet, há hốc mồm săm soi là truyện đầu tiên của Lynh, khá ngắn, trí thức, cô đọng và khó đọc. Có thể có người đã đọc nhưng có lẽ rất ít người hiểu. Truyện viết về một kẻ bị mất tiếng nói, ở trong trạng thái "miệng hắn như bị dán cứng". Toàn truyện tỏa ra không khí đứt đoạn, lạnh tanh, ráo hoảnh, đầy chất tâm thần của một kẻ bị dồn ép đến chân tường, phát hoảng.

Hắn là một công chức bình thường, mọi khi đến sở làm, hắn vẫn chào hỏi mọi người. Nhưng từ phút này, từ phút bắt đầu truyện, từ phút hắn vào toilet há hốc mồm xăm soi, thì hắn không còn là hắn nữa. Nói trắng ra là tự nhiên hắn bị câm, miệng hắn bị dán cứng. Cái gì đã xẩy ra? Đó là dấu hỏi mấu chốt. Hắn lại vào toilet há hốc mồm xăm soi là một trong những tác phẩm mở với đúng nghiã mở của nó, của những ngòi bút trẻ hôm nay. Toàn truyện là một dấu hỏi lớn, lồng trong vô vàn dấu hỏi nhỏ: tất cả sinh mệnh của hắn, tất cả vật đổi sao rời trong đời hắn, được gói gọn trong vài trang giấy.

Hắn đã đi qua những vùng ngày trước đô hội, nay trở thành chuồng lợn hôi hám dậy mùi phân và nước thải; hắn đã đi qua những vùng phì nhiêu dân cư đông đúc, nay trở thành hoang địa: "Hắn phóng tầm mắt xa hơn nữa để tìm kiếm một bóng người, tuyệt nhiên, dường như đây là một vùng đất kỳ lạ. Xa xa trên đồi cỏ là những con chó đang sủa vào không khí, chúng mang dáng vẻ như đang rất tất bật mà lại vừa hoảng sợ, rú lên từng hồi những âm thanh nghe vang xa và thánh thót ngọt ngào như âm thanh của chuông thánh. Không như tiếng tru rú chanh chua của loại chó bình thường". (trích "Hắn lại vào toilet...").

Quang cảnh chung quanh hắn: một vùng đất không còn người, chỉ còn chó. Chó đặc biệt. Chó tầm cỡ. Chó có tiếng tru như âm thanh của chuông thánh. Nhưng chưa hết, sải thêm vài bước nữa đến chỗ có nhà. Mở cửa bước vào một căn nhà thì hắn thấy gì? "Thật kỳ lạ, hắn đảo mắt nhìn quanh, bên trên trần nhà là những mạng nhện đan nhau chằng chịt. Một tấm phản màu sữa được làm bằng rơm xanh to tướng kê sát bàn thờ. Hắn nhón chân ngó lên bàn thờ, có một chai thủy tinh bị bể còn phân nửa, trong đó đựng rất nhiều tàn thuốc dạng thuốc lào vấn, hằn ráng nhón thêm thì nhìn thấy được vài con chữ cái được cái mất ghi trên mặt bàn nhưng không rõ nghĩa. Ráng thêm chút nữa, hắn nhìn thấy bức ảnh chụp chân dung trắng đen rách rưới úa màu trên bàn thờ và nhận ra đó là vị thánh tối cao của đất nước mình. Bỗng hắn nhìn thấy những bức ảnh của mình trong tư thế đang làm tình với vợ được treo khắp nơi trên những bức vách. Mẹ kiếp! Hắn bật khẽ giọng. Âm thanh của hắn vừa bật ra quyện lại trong tích tắc và trở thành một luồng khí màu cà phê sữa, nó lượn lờ chung quanh ấm trà nóng rồi phóng vụt qua những bức ảnh được treo ngay ngắn không một chút bụi, nó men theo những thân cột bằng cao su để leo lên trần nhà. Một cuộc vật vã của nó với mớ mạng nhện trên đó bắt đầu nổ ra (...) Những cái mạng nhện vùng lên, búng vào luồng khí, xiết lấy cứng ngắc, bóp ngang thân nó, chúng bò tới cùng lúc bám bu những sợi tơ làm nó tối tăm mặt mũi" (trích "Hắn lại vào toilet..."). Trích đoạn này mở khoá cho chúng ta vào truyện của Lynh Bacardi: Hắn trở thành thám tử bước vào một nơi đầy nghi hoặc: trên bàn thờ có dấu vết hương hồn của các vị hút "thuốc lào vấn", có chân dung "vị thánh tối cao", có vài "cái chữ" đang hấp hối, cái được, cái mất. Nhưng kỳ khôi nhất là những bức hình hắn đang làm tình với vợ: Không khí Kafka đột khởi từ lúc này, lúc mà hắn thấy những bức hình hắn với vợ được treo khắp nơi trên vách. Nhưng chưa hết, hay nhất là đoạn Lynh tả khi hắn vừa cất tiếng chửi thề: "Mẹ kiếp" thì chính cái tiếng "mẹ kiếp" phát ra từ miệng hắn, chính cái âm thanh đó, đã bị tấn công: Nó (tức là âm thanh của hai tiếng Mẹ kiếp) vừa bật ra khỏi miệng đã biến thành khói, nó tính chuyện tẩu thoát lên trần nhà, nhưng không kịp nữa rồi, tất cả hệ thống mạng lưới đã tung ra "những cái mạng nhện vùng lên, xiết lấy nó, bóp ngang thân nó", cho đến lúc "nó teo tóp dần và biến mất hẳn". Chưa có cuộc bắt bớ nào kinh hoàng đến thế, một cuộc tịch thu và tiêu diệt phát biểu: hai tiếng mẹ kiếp bị bắt sống, bị nghiền nát, bị tiêu vong, không để lại một dấu vết gì!

Truyện này đọc qua một lần, bạn sẽ chẳng hiểu gì cả, phải đọc nhiều lần. Bởi tác giả dùng toàn mã hiệu (code) như: chuồng lợn, chó sủa, con chữ, vị thánh, mạng nhện, v.v... mỗi chữ, mỗi câu đều có dụng ý. Lynh viết về một vùng hoang dã, ngày xưa đã phồn vinh. Lynh vẽ lại tình trạng khủng hoảng tinh thần của một nhân vật bị bao vây nguy khốn tứ bề, kể cả sự ăn nằm với vợ cũng bị chụp hình, theo dõi, thậm chí tiếng nói của hắn, vừa thốt ra khỏi miệng đã bị những mạng nhện bao bọc và tiêu hoá ngay. Hắn không còn cách nào khác hơn là vào toilet xăm soi miệng, xem cái miệng mình, nó bị bệnh gì mà bỗng nhiên trở nên á khẩu.

Vừa khai bút viết truyện ngắn đầu tiên mà có một đã có một bản lĩnh văn chương độc đáo như thế, thật hiếm.

Lynh Bacardi, tình mẫu tử tuyệt vọng

Truyện ngắn thứ nhì, tựa đề "Con bé bịt mắt" viết đầu năm 2006, mở đường cho ba truyện kế tiếp: Tre rừng (3/2006), Truyện hậu sản (4/2006) và Nghiã trang đồng nhi (5/2006). Cả ba viết trong một thời gian ngắn tạo thành tam khúc (trilogie), xây dựng nên cấu trúc tư tưởng về Tình mẹ của Lynh Bacardi. Tình mẹ là yếu tố sâu xa, tiềm ẩn trong tinh thần và thể xác chữ của Lynh Bacardi. Tình mẹ trong thơ Lynh là tình mẹ của người đàn bà trẻ thơ, chưa kịp lớn đã làm mẹ. Tình mẹ trong văn Lynh là tình mẹ bị bao vây, tình mẹ bị nguy khổn, tình mẹ bị đàn áp. Lynh đã vẽ nên mặt hậu của xã hội tối tăm và tàn ác, không chỗ dung thân cho những người mẹ tật nguyền.

Tình mẹ trong truyện của Lynh Bacardi có sắc thái bi đát và khốc liệt chưa từng thấy. Những người mẹ ở đây, là những người đàn bà bị đàn áp, hoặc tật nguyền, phải bán thân nuôi miệng. Một thực tại chúng ta va chạm hàng ngày trên đường phố, trong ngõ hẻm, bên thân cổ thụ, nhưng nhắm mắt làm ngơ. Những đứa bé sinh ra trong hoàn cảnh oan trái, đã mang tật nguyền từ trong lòng mẹ, những đứa bé chưa sinh ra đã phải va chạm với kinh hoàng, hãi sợ. Nếu biết được những gì đang chờ đợi ở ngoài đời, thì sẽ không còn linh hồn nào dám can đảm đầu thai làm người.

Truyện ngắn Con bé bịt mắt là khúc nhạc dạo đầu cho bối cảnh xã hội tăm tối đang chờ những đứa trẻ, và nó cũng xác định hai trục chính trong truyện của Lynh Bacardi: đứa bé và người mẹ, để tạo lên mô thức tình mẫu tử tuyệt vọng, và đó là mô thức chính trong thơ và truyện của của Lynh Bacardi. Mô thức tình mẫu tử tuyệt vọng này, đặt trong khung cảnh của xã hội hiện thời, với một bút pháp phũ phàng ngang hàng với sự tàn bạo của xã hội, đem đến sự tuyệt vọng cực kỳ.

"Con bé bịt mắt" tập trung vào ba yếu tố: "Một cây cổ thụ trăm năm, một người mẹ già làm điếm và một đứa bé". Truyện rất ngắn, với điệp khúc "Ba ngàn là đủ", trở đi trở về, Ba ngàn, như thời giá một bát phở, như thời giá một chiếc bánh bao, như thời giá một mẩu bánh mì thịt, như thời giá một lần bán trôn, như thời giá của bạo lực, như thời giá của nước mắt, như thời giá của bất hạnh, như thời giá của một cái chết.

Truyện do một giọng bí mật kể lại, phải đọc kỹ nhiều lần mói biết đó là giọng cây cổ thụ trăm năm, vừa dửng dưng vừa thương xót: cây thương xót phận người. Bởi cây đã chứng kiến những nhục cảnh của đời người: người mẹ điếm già, hành nghề bên gốc cây, với đứa con bên cạnh, từ lúc nó còn trong bụng, trong nôi. Cổ thụ kể rằng: lúc nó lớn dần, biết bò, biết ngồi, người mẹ bịt mắt và đút bông vào tai con, cho nó khỏi nhìn, khỏi nghe thấy những âm thanh lạ tai, mà bà không muốn cho nó nghe, và đây là giọng cổ thụ: " Nó có cặp mắt tròn đen, làn da trăng trắng, ốm như con thằn lằn vẫn bò xung quanh bức tường sau lưng. Hình như vậy, chẳng biết tôi tả có đúng không, bởi bà mang nó đi đâu đó vào ban ngày, tôi chỉ nhìn thấy nó vào ban đêm, lúc số cột đèn ít ỏi trên con đường này uể oải bật lên thứ ánh sáng vàng vàng nhạt thếch. Nó chẳng bao giờ mở miệng. Nó không nhìn tôi, mà muốn nhìn cũng chẳng được, vì khi vừa đến chỗ tôi bà luôn lấy một dải vải buộc lên mắt nó, bà nói, "Bịt mắt bắt dê". Nó nghểnh mặt để bà nhét thêm vào tai nó hai cục bông gòn. Nó ngồi xếp bằng dưới chân, đàng sau lưng tôi. Khỏi phải đợi, vì bà sẽ đặt vào bàn tay xinh xắn màu sữa của nó một cái nĩa bằng inox. Nó sẽ tỉ mẩn đào lớp đất dưới chân tôi, như đang đào tìm một người bạn nhỏ nào đó thất lạc đã lâu năm" (trích "Con bé bịt mắt"). Giọng đều đều của cổ thụ, cứ như thế, tiếp tục rót vào tai người đọc: "Bất chợt con bé ngưng tay không đào đất nữa. Nó đứng lên, không kéo dải vải ra khỏi mắt. Cái đầu nho nhỏ quay lần tìm ra hướng phát ra tiếng hét của bà. Nó quên mất hai cục bông trắng muốt đang lún sâu trong tai như muốn tuột dần đến tận cùng. Gã đàn ông gương mặt cũng trắng muốt, cười nhăn nhở chạy đi với cái núm vú trong miệng. Vệt máu chảy dài dưới cằm khiến gương mặt trắng của gã thành một anh hề trên sân khấu phố huyện. Những bà khác nghiêng đầu nhìn qua, rồi đổi hướng nhìn ra đường tiếp tục chờ đợi. Bà ngơ ngác nhìn theo, sực nhớ mình vẫn chưa lấy ba ngàn (3000)". (Trích Con bé bịt mắt) . Tất cả bi kịch ép lại trong vẻn vẹn mấy dòng chữ. Cổ thụ nhìn người bằng cái nhìn trung thực không thành kiến. Cổ thụ không bỏ qua sự nhẫn tâm tàn ác và lãnh đạm của con người: cho nên, cổ thụ gọi những người già làm điếm bằng bà như những người phụ nữ bình thường, cây không gọi họ bằng mụ điếm già, như người. Cây nhìn sự bạo hành của kẻ hành lạc như một trò hề. Cây ghi lại sự thờ ơ của con người, đối với đồng loại lâm nạn. Chắc là cây khinh người lắm, nhưng không nói ra đấy thôi. Bởi cây, đã ghi lại cả cái mùi của người, mỗi đêm "bắn tung toé lên da thịt tôi đến vài lần". Chắc là cây phải kinh tởm những sa đọa của con người, nhưng cây không nói ra đấy thôi.

Ba truyện đến sau là những truyện khá dài. Lynh đã thay lối viết từ rất ngắn đến rất dài. Tính cô đọng, chất thơ và khó hiểu, nhường chỗ cho một lối viết mà mọi người đều có thể tiếp cận được. Tuy nhiên, truyện của Lynh không phải ai cũng có thể thích. Bởi chúng như một đoá hồng gai, chúng dày vò người đọc, chúng là những trường hợp cực điểm, chúng bắt người đọc đi trên một cái dây chăng trên không gian, nhìn xuống thì chóng mặt, mà nhìn lên thì rơi. Lynh tạo ra toàn những hoàn cảnh ghê gớm mà con người không thể chọn lựa, bởi không biết thế nào mà chon lựa. Tình mẹ trong truyện Tre rừng là tình người chị với đứa em tàn tật, sinh ra chỉ có hai hố mắt. Hai chị em mồ côi, như khóm tre rừng, muốn mọc thế nào thì mọc. Chị thay mẹ, chị trở thành một người mẹ trẻ, như người mẹ trong bài thơ "Lời cho bé yêu". Người chị ở đây tuy không bán thân nuôi em, nhưng đã cho em những gì quý nhất trên đời: cho tất cả, không cần biết những nhục nhằn, không cần biết những cấm kỵ, không cần biết đến đạo lý. Người chị hành động bằng một thứ đạo lý trong vô thức u minh của chính mình, tức là đặt tình thương em làm cứu cánh và để đạt tới cứu cánh, người chị đã không màng tới phương tiện, lấy thân xác của chính mình làm phương tiện tạo hạnh phúc cho em. Một chủ đề khó khăn, làm cho người đọc nghẹt thở vì tuyệt vọng.

Truyện hậu sản trình bày một thứ tình mẹ lạ lùng khác, cũng không dễ dàng gì hơn cho người đọc: Ba hình ảnh cột trụ mà Lynh đưa ra là hình ảnh người đàn bà độc đoán, có đứa con tật nguyền, nhưng nhất quyết phải có cháu trai để nối dõi tông đường, bà đã dùng những thủ đoạn tàn ác để đạt mục đích: Ép buộc người con gái nuôi phải ngủ với đứa con trai tàn tật của mình. Người đàn bà độc ác này có thể so sánh với con heo nái, mỗi lần đẻ, phải nhai một đứa con vừa ra dạ. Hai thứ tình mẹ hãi hùng này, đối diện với tình mẹ thứ ba: tình mẹ của người con gái nuôi, bị ép buộc phải ăn nằm với kẻ tật nguyền, chỉ có sinh mà không có dưỡng. Chính cái tình mẹ hữu sinh vô dưỡng ấy, đã khiến nàng điên loạn tâm thần. Và Lynh đã đi vào thần trí của người con gái bất hạnh để viết nên tất cả những hủ lậu của xã hội tối tăm và tàn nhẫn.

Nghiã trang đồng nhi, trình bầy một thứ tình mẹ vô biên như biển cả, của người thiếu phụ tàn tật, làm điếm. Những đứa trẻ bị bỏ rơi, những bào thai chưa kịp chào đời đã tắt thở, những đứa bé vừa lọt lòng mẹ đã bị thải đi, như bọt biển. Lynh viết: "Đêm nay biển động. Tiếng sóng ào ào từng chặp vỗ vào bờ gào thét. Gió mạnh hơn, cát bay rào rạo. Cổ tôi rít chịt, ngứa, tóc bay rối bời. Một cái bọc đen nằm đơn độc bên bờ kè. Chắc lại nó. Tôi cúi xuống. Dưới ánh đèn đường vàng nhạt, một vật thể bày nhầy đỏ loét nằm bên trong cái bọc. Tôi cột lại, treo nó lên ghi đông xe đạp. Nãy giờ đi hết các bờ kè chính của bờ biển, mà tôi chỉ lượm được một bào thai" (Trích Nghiã trang đồng nhi). Người con gái đi lượm bào thai đem chôn ấy đã mang những nấm mộ nhỏ trong lòng. Nàng trở thành khởi điểm của một thứ tình mẹ âm u, khốc liệt, tình mẹ vượt qua cái chết, tình mẹ chưa bao giờ thấy trên đời. Ở nàng, là thứ tình mẹ tật nguyền, tình mẹ đớn đau bệnh hoạn, nàng đã đón và nuôi linh hồn tất cả những đứa bé chưa kịp chào đời mà đã chết. Nàng tượng trưng cho tất cả những người mẹ có sinh mà không có dưỡng. Người con gái điếm tàn tật trở thành biển mẹ.

Những truyện ngắn của Lynh đều sâu xa cay đắng như thế, đều xới lên mặt hậu của một xã hội nghiã trang, đều làm cho người đọc rùng mình, xây xẩm, loạng choạng, không thể che mặt, mà cũng không thể độn thổ. Lynh đặt con người trước trách nhiệm về tội ác của mình bằng một ngòi bút bất trắc, khác hẳn những người cùng thời. Một phong cách văn chương độc đáo vừa xuất hiện.

Paris, tháng 5/2006

© Copyright Thụy Khuê 2006


Share/Save/Bookmark

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Related Posts with Thumbnails